HIV là gì?
Theo thời gian, khi các tế bào CD4 dần chết đi, cơ thể sẽ không có khả năng chống lại bệnh tật.
HIV lây truyền qua các chất dịch cơ thể, bao gồm:
- Máu
- Tinh dịch
- Dịch âm đạo và trực tràng
- Sữa mẹ
HIV không lây truyền qua đường không khí, nước hoặc qua tiếp xúc thông thường.
Vì virus tự chèn vào ADN của tế bào, nên nhiễm HIV là tình trạng kéo dài suốt đời và hiện tại không có loại thuốc đặc trị nào loại bỏ được virus khỏi cơ thể, mặc dù nhiều nhà khoa học đang nỗ lực nghiên cứu nhiều năm.
Tuy nhiên nếu được điều trị , người bệnh có thể kiểm soát được tải lượng virus trong cơ thể và có thể sống chung với bệnh trong nhiều năm.
Nếu không được điều trị, người bệnh có nguy cơ tiến triển thành tình trạng nghiêm trọng được gọi là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, hay còn gọi là AIDS (Acquired Immuno Deficiency Syndrom).
Khi đó, hệ miễn dịch đã trở nên quá yếu để chống lại các loại bệnh và nhiễm trùng cơ hội khác.
Tuổi thọ của người bệnh AIDS giai đoạn cuối là khoảng 3 năm.
Với liệu pháp điều trị kháng virus, HIV có thể được kiểm soát tốt và người bệnh có thể có một cuộc sống bình thường như người không nhiễm HIV.
Ước tính có khoảng 1,2 triệu người Mỹ đang sống chung với HIV. Trong đó cứ 7 người thì có 1 người không biết bản thân mình mang virus.
HIV có thể gây ra những thay đổi toàn thân.
AIDS là gì?
AIDS là một căn bệnh tiến triển ở những người nhiễm HIV. Đây là giai đoạn cuối của HIV. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người nhiễm HIV sẽ tiến triển thành bệnh AIDS.
HIV phá hủy các tế bào CD4. Ở người lớn khỏe mạnh, số lượng CD4 từ 500-1600/ml3. Người bệnh HIV có số lượng CD4 giảm xuống dưới 200/ml3 sẽ được chẩn đoán mắc bệnh AIDS.
Một người cũng có thể được chẩn đoán AIDS nếu họ nhiễm HIV và mắc một bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc ung thư hiếm gặp.
Nhiễm trùng cơ hội, như viêm phổi do Pneumocystis jiroveci, xảy ra ở người bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng, chẳng hạn như HIV giai đoạn nặng (AIDS).
Nếu không được điều trị, HIV có thể tiến triển thành AIDS trong 10 năm. Hiện nay chưa có cách điều trị hoàn toàn bệnh AIDS và nếu không điều trị, tuổi thọ của người bệnh là khoảng 3 năm.
Thời gian này có thể ngắn hơn nếu những bệnh nhiễm trùng cơ hội tiến triển nặng. Tuy nhiên, điều trị bằng thuốc kháng virus có thể phòng ngừa HIV tiến triển thành AIDS.
Trong giai đoạn AIDS, hệ miễn dịch đã bị tổn thương nghiêm trọng, tức là bị suy yếu đến mức không còn phản ứng với hầu hết các nhiễm trùng, điều đó làm cho người bệnh AIDS dễ mắc nhiều loại bệnh, bao gồm:
- Viêm phổi
- Bệnh lao
- Nấm miệng
- Nhiễm virus cytomegalovirus (CMV), một loại virus herpes
- Viêm màng não do cryptococcus
- bệnh toxoplasmosis, bệnh ký sinh trùng trong não
- Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cryptosporidiosis
- Ung thư, bao gồm Kaposi sarcoma (KS) và u lympho
Việc sức khỏe bị giảm sút không phải do bệnh AIDS trực tiếp gây ra. Đúng hơn, đó là hậu quả của các nhiễm trùng cơ hội do hệ miễn dịch suy yếu.
HIV và AIDS: Mối liên hệ là gì?
AIDS là tình trạng tiến triển từ HIV, nhưng không có nghĩa tất cả người bệnh HIV sẽ tiến triển thành AIDS.
Bệnh HIV tiến triển qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: giai đoạn cấp tính, còn được gọi là giai đoạn cửa sổ, vài tuần đầu sau khi lây nhiễm
- Giai đoạn 2: giai đoạn tiềm ẩn lâm sàng, người bệnh sẽ không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào
- Giai đoạn 3: giai đoạn AIDS
HIV phá hủy các tế bào CD4 và làm cho hệ miễn dịch bị suy yếu. Ở người lớn khỏe mạnh, số lượng CD4 từ 500-1600/ml3. Người bệnh HIV có số lượng CD4 giảm xuống dưới 200/ml3 sẽ được chẩn đoán mắc bệnh AIDS.
Thời gian tiến triển của HIV khác nhau ở mỗi người. Nếu không được điều trị, giai đoạn 2 có thể kéo dài đến 10 năm trước khi chuyển sang giai đoạn AIDS. Khi được điều trị, HIV có thể sẽ không tiến triển thành AIDS.
Hiện nay không có cách chữa khỏi hoàn toàn HIV, nhưng nó có thể được quản lý. Người bệnh HIV sẽ sống thọ gần như người bình thường nếu được điều trị sớm bằng liệu pháp kháng retrovirus.
Cùng những quan điểm đó, về mặt lý thuyết, không có phương pháp chữa khỏi hoàn toàn bệnh AIDS. Tuy nhiên, việc điều trị có thể làm tăng hàm lượng CD4 trong máu đến mức được coi là không mắc bệnh (lớn hơn 200/ml3).
Ngoài ra, việc điều trị có thể phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
HIV và AIDS có liên quan đến nhau, nhưng chúng không giống nhau.
Sự thật về con đường lây truyền HIV
Video: Làm sao phòng tránh bệnh lây qua đường tình dục?
Bất kỳ ai cũng có thể nhiễm HIV. Virus lây truyền qua các chất dịch cơ thể bao gồm:
- Máu
- Tinh dịch
- Dịch âm đạo và trực tràng
- Sữa mẹ
Một số con đường lây truyền HIV từ người sang người bao gồm:
- Quan hệ tình dục qua âm đạo hoặc hậu môn - đây là con đường lây truyền phổ biến nhất
- Dùng chung kim tiêm, ống tiêm và các vật dụng khác để tiêm chích
- Dùng chung dụng cụ xăm không khử trùng giữa các lần sử dụng
- Trong thời kỳ mang thai, chuyển dạ hoặc sinh nở từ mẹ sang con
- Trong thời gian cho con bú
- Thông qua việc nhai thức ăn của trẻ trước khi cho ăn
- Qua tiếp xúc với máu, tinh dịch, dịch âm đạo và trực tràng, và sữa mẹ của người nhiễm HIV, chẳng hạn như qua kim tiêm
HIV cũng có thể lây truyền qua việc truyền máu hoặc cấy ghép nội tạng. Tuy nhiên, việc xét nghiệm HIV nghiêm ngặt ở những người hiến máu, nội tạng và mô ở Hoa Kỳ đã đảm bảo rằng việc này rất hiếm xảy ra.
Về mặt lý thuyết, HIV vẫn có thể lây truyền qua:
- Quan hệ tình dục bằng miệng (chỉ khi có chảy máu lợi hoặc vết thương hở trong miệng)
- Bị người bệnh cắn chảy máu (chỉ khi nước bọt có lẫn máu qua vết loét hở trong miệng hoặc chảy máu lợi)
- Tiếp xúc với máu của người bệnh qua vết thương hở
HIV KHÔNG lây truyền qua:
- Tiếp xúc qua da với da
- Ôm, bắt tay hoặc hôn môi
- Qua không khí hoặc nước
- Chia sẻ thức ăn hoặc đồ uống, bao gồm cả uống nước bằng vòi
- Nước bọt, nước mắt hoặc mồ hôi (trừ khi có lẫn máu của người bệnh)
- Dùng chung toilet, khăn tắm hoặc chăn gối
- Qua muỗi hoặc côn trùng hút máu khác
Điều quan trọng cần lưu ý là nếu người bệnh được điều trị và có tải lượng virus đạt mức “không phát hiện” liên tục, thì hầu như không thể lây nhiễm virus cho người khác.
Nguyên nhân gây bệnh HIV
HIV là biến thể của một loại virus ở tinh tinh châu Phi. Các nhà khoa học nghi ngờ loại virus gây suy giảm miễn dịch simian (SIV) đã xảy ra đột biến khi con người ăn thịt tinh tinh có chứa virus.
Khi xâm nhập vào cơ thể con người, virus đã biến đổi thành HIV. Điều này có thể đã xảy ra cách đây rất lâu vào khoảng những năm 1920.
HIV lây truyền từ người này sang người khác trên khắp châu Phi trong vài thập kỷ. Cuối cùng đã lây lan đến các khu vực khác trên thế giới. Các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện virus HIV trong một mẫu máu người vào năm 1959.
Nhiều người cho rằng HIV đã tồn tại ở Hoa Kỳ từ những năm 1970, nhưng nó bắt đầu ảnh hưởng đến cộng đồng vào những năm 1980.
Nguyên nhân của bệnh AIDS
AIDS là một giai đoạn tiến triển của HIV. Không thể bị AIDS nếu không nhiễm HIV.
Người lớn khỏe mạnh có số lượng CD4 bình thường từ 500-1.500/ml3. Nếu không được điều trị HIV, virus sẽ tiếp tục nhân lên và phá hủy các tế bào CD4. Nếu số lượng CD4 giảm xuống dưới 200/ml3 thì sẽ được chẩn đoán AIDS.
Ngoài ra, nếu người bệnh mắc một bệnh nhiễm trùng cơ hội liên quan đến HIV, họ vẫn có thể được chẩn đoán mắc bệnh AIDS ngay cả khi số lượng CD4 trên 200/ml3.
Những xét nghiệm để chẩn đoán HIV?
Có nhiều xét nghiệm được sử dụng để chẩn đoán HIV. Các bác sĩ sẽ quyết định xét nghiệm nào là tốt nhất cho mỗi người.
Xét nghiệm kháng thể / kháng nguyên
Xét nghiệm kháng thể / kháng nguyên là xét nghiệm được sử dụng phổ biến nhất, có thể cho kết quả dương tính trong vòng 18–45 ngày sau khi nhiễm HIV.
Đây là xét nghiệm máu tìm kháng thể và kháng nguyên. Kháng thể là protein cơ thể tạo ra để phản ứng với nhiễm trùng. Mặt khác, kháng nguyên là một phần của virus kích hoạt hệ miễn dịch.
Xét nghiệm kháng thể
Đây là xét nghiệm máu để tìm kháng thể. Từ 23-90 ngày sau khi lây nhiễm, hầu hết mọi người sẽ hình thành kháng thể HIV và có thể phát hiện được trong máu hoặc nước bọt.
Đây là xét nghiệm máu hoặc gạc miệng không cần chuẩn bị, có thể cho kết quả sau 30 phút hoặc ít hơn và có thể được thực hiện tại phòng khám mà không cần đến phòng xét nghiệm.
Các xét nghiệm tìm kháng thể khác có thể được thực hiện tại nhà:
- Xét nghiệm HIV OraQuick. Một miếng gạc miệng sẽ cho kết quả sau 20 phút.
- Bộ dụng cụ xét nghiệm HIV-1 tại nhà. Sau khi chích ngón tay, họ sẽ gửi mẫu máu đến phòng xét nghiệm. Người bệnh có thể ẩn danh và yêu cầu kết quả vào ngày làm việc tiếp theo.
Nếu nghi ngờ bản thân đã phơi nhiễm với HIV nhưng xét nghiệm tại nhà lại cho kết quả âm tính, người đó nên làm lại xét nghiệm này sau 3 tháng. Nếu kết quả dương tính, họ nên đi khám bác sĩ càng sớm càng tốt để chắc chắn.
Xét nghiệm axit nucleic (NAT)
Xét nghiệm này rất đắt tiền và không được sử dụng để sàng lọc. Nó dành cho những người có các triệu chứng sớm của HIV hoặc có một yếu tố nguy cơ. Xét nghiệm này không tìm kiếm kháng thể mà tìm kiếm virus.
Mất từ 5-21 ngày để virus HIV có thể được phát hiện trong máu. Xét nghiệm này thường đi kèm hoặc được xác nhận lại bằng xét nghiệm kháng thể.
Ngày nay, việc xét nghiệm HIV đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Giai đoạn cửa sổ HIV là gì?
Ngay sau nhiễm HIV, virus sẽ bắt đầu phát triển trong cơ thể. Hệ miễn dịch sẽ phản ứng với các kháng nguyên (các bộ phận của virus) bằng cách sản xuất kháng thể chống lại virus.
Khoảng thời gian từ khi phơi nhiễm đến khi có thể phát hiện được virus trong máu được gọi là giai đoạn cửa sổ của HIV, khoảng thời gian này là 23-90 ngày sau khi lây nhiễm.
Nếu xét nghiệm HIV trong giai đoạn cửa sổ, có khả năng kết quả sẽ là âm tính. Tuy nhiên, người bệnh vẫn có thể lây truyền virus cho người khác.
Nếu nghi ngỡ đã phơi nhiễm với HIV nhưng xét nghiệm lại là âm tính, người đó nên làm lại xét nghiệm sau một vài tháng để cho kết quả chính xác (thời gian tùy thuộc vào xét nghiệm được sử dụng). Trong thời gian đó, họ vẫn cần sử dụng các biện pháp bảo vệ để tránh lây nhiễm HIV cho người khác.
Việc điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (Post-exposure prophylaxis - PEP) trong giai đoạn cửa sổ sẽ rất hữu ích, vì có thể ngăn ngừa virus HIV phát triển mạnh mẽ trong máu, từ đó ngăn chặn HIV tiến triển sang giai đoạn kế tiếp.
Để đạt được hiệu quả tốt nhất, PEP cần được thực hiện càng sớm càng tốt, sớm hơn 72 giờ sau khi phơi nhiễm.
Một cách khác để phòng ngừa phơi nhiễm HIV là điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (Pre-exposure prophylaxis - PrEP). Bằng việc sử dụng các loại thuốc điều trị HIV trước khi phơi nhiễm, PrEP có thể làm giảm nguy cơ nhiễm HIV khi được sử dụng đều đặn.
Thời điểm là yếu tố quan trọng nhất khi xét nghiệm HIV.
Các triệu chứng ban đầu của HIV
Khoảng thời gian vài tuần sau khi phơi nhiễm được gọi là giai đoạn cấp tính.
Lượng virus HIV trong máu bắt đầu nhân lên nhanh chóng. Hệ miễn dịch phản ứng bằng cách sản xuất nhiều kháng thể chống virus, là các protein chống lại sự lây nhiễm.
Trong giai đoạn này, một số người sẽ không có triệu chứng trong khoảng thời gian đầu. Tuy nhiên, các triệu bắt đầu xuất hiện sau 1 tháng phơi nhiễm, nhưng các triệu chứng không đặc hiệu nên rất khó phát hiện.
Điều này là do các triệu chứng của giai đoạn cấp tính rất giống với bệnh cúm hoặc các loại bệnh theo mùa khác, chẳng hạn như:
- Diễn biến từ nhẹ đến nặng
- Các triệu chứng sẽ biến mất
- Có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tuần
Các triệu chứng ban đầu của HIV bao gồm:
- Sốt
- Ớn lạnh
- Sưng hạch bạch huyết
- Đau nhức cơ thể
- Phát ban da
- Viêm họng
- Đau đầu
- Buồn nôn
- Đau bụng
Vì những triệu chứng này tương tự như những bệnh thông thường, như cảm cúm, nên người bệnh thường sẽ không đi khám.
Nhưng nếu họ có đi khám, người bác sĩ có thể nghi ngờ bệnh cúm, bệnh bạch cầu đơn nhân và thậm chí không loại trừ khả năng lây nhiễm HIV.
Cho dù có xuất hiện triệu chứng hay không, tải lượng virus trong máu ở giai đoạn này vẫn rất cao. Tải lượng virus là số lượng virus được tìm thấy trong máu.
Tải lượng cao có nghĩa là virus sẽ dễ lây nhiễm cho người khác hơn.
Các triệu chứng ban đầu của HIV thường biến mất trong vòng vài tháng khi bước vào giai đoạn không triệu chứng của HIV. Giai đoạn này có thể kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ nếu được điều trị.
Các triệu chứng này sẽ khác nhau ở mỗi người.
Các triệu chứng của HIV là gì?
Sau một tháng đầu tiên, HIV bước vào giai đoạn tiềm ẩn về lâm sàng, tức là không có triệu chứng, có thể kéo dài từ vài năm cho đến vài chục năm.
Một số người không có bất kỳ triệu chứng nào trong giai đoạn này, tuy nhiên một số người khác có thể có các triệu chứng không đặc hiệu. Triệu chứng không đặc hiệu là triệu chứng không liên quan đến một bệnh hoặc một tình trạng sức khỏe cụ thể.
Các triệu chứng không đặc hiệu này có thể bao gồm:
- Đau đầu
- Đau nhức cơ
- Sưng hạch bạch huyết
- Sốt tái phát
- Đổ mồ hôi đêm
- Suy nhược
- Buồn nôn
- Nôn
- Tiêu chảy
- Sụt cân
- Viêm da
- Nhiễm trùng miệng hoặc nấm âm đạo tái phát
- Viêm phổi
- Zona thần kinh
Giống như giai đoạn cửa sổ, HIV vẫn có thể lây truyền trong khoảng thời gian này ngay cả khi không có triệu chứng. Sẽ không có cách nào biết trừ khi làm xét nghiệm. Nếu một người xuất hiện những triệu chứng này và nghi ngờ đã phơi nhiễm HIV, điều quan trọng nhất là phải đi xét nghiệm.
Các triệu chứng ở giai đoạn này sẽ xuất hiện và biến mất, hoặc có thể tiến triển nhanh chóng, việc này có thể được làm chậm lại khi được điều trị.
Với việc sử dụng đều đặn liệu pháp kháng retrovirus từ sớm, HIV có thể sẽ không tiến triển thành AIDS trong nhiều năm.
Phát ban da có phải là triệu chứng của HIV không?
Nhiều người bệnh HIV đã trải qua những thay đổi trên da. Phát ban HIV thường là một trong những triệu chứng đầu tiên sau khi phơi nhiễm, dưới dạng nhiều vết đỏ nhỏ chìm và nổi trên da.
Phát ban HIV
HIV phá hủy các tế bào của hệ miễn dịch nên làm cho cơ thể dễ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, đặc biệt là ở da. Các nhiễm trùng cơ hội có thể gây phát ban bao gồm:
- U mềm lây
- Viêm da do Herpes Simplex
- Zona thần kinh
Nguyên nhân của phát ban được xác định qua:
- Nốt phát ban như thế nào
- Kéo dài bao lâu
- Điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân
Phát ban liên quan đến thuốc
Phát ban da cũng có thể do sử dụng thuốc gây ra. Một số loại thuốc điều trị HIV hoặc các tình trạng bệnh khác có thể gây phát ban.
Phát ban thường xuất hiện trong vòng 1-2 tuần kể từ khi bắt đầu dùng thuốc. Đôi khi các nốt phát ban sẽ tự hết. Nếu không hết, người bệnh cần chuyển sang sử dụng loại thuốc mới.
Phát ban do nguyên nhân dị ứng thuốc sẽ rất nghiêm trọng.
Các triệu chứng của phản ứng dị ứng bao gồm:
- Khó thở hoặc khó nuốt
- Chóng mặt
- Sốt
Hội chứng Stevens-Johnson (SJS) là một phản ứng dị ứng hiếm gặp với thuốc điều trị HIV. Các triệu chứng bao gồm sốt, sưng mặt và lưỡi. Các nốt phát ban phồng rộp, liên quan đến da và niêm mạc, xuất hiện nhiều và lan rộng.
Tình trạng 30% da bị ảnh hưởng được gọi là hoại tử biểu bì nhiễm độc, có thể đe dọa đến tính mạng. Nếu tình trạng này tiến triển, người bệnh cần được cấp cứu y tế.
Mặc dù tình trạng phát ban da có thể liên quan đến HIV hoặc thuốc điều trị HIV, nhưng cần lưu ý là phát ban da là bệnh phổ biến và có thể do nhiều nguyên nhân khác.
Các dấu hiệu HIV ở nam giới: Có sự khác biệt?
Các triệu chứng của HIV khác nhau ở mỗi người, nhưng giống nhau ở nam và nữ. Các triệu chứng có thể dần biến mất hoặc tiến triển ngày càng nặng.
Nếu một người đã phơi nhiễm với HIV, họ có thể cũng đã phơi nhiễm với các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STIs) khác. Bao gồm:
- Lậu
- Bệnh do vi khuẩn chlamydia
- Giang mai
- Bệnh do ký sinh trùng trichomonas
Các triệu chứng trên bộ phận sinh dục của nam giới sẽ dễ quan sát hơn ở nữ giới, chẳng hạn như vết loét trên bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, nam giới thường không đi khám thường xuyên như phụ nữ.
Các dấu hiệu HIV ở phụ nữ: Có sự khác biệt?
Các triệu chứng phần lớn cũng tương tự như ở nam giới. Tuy nhiên, các triệu chứng về tổng thể có thể khác nhau dựa vào những nguy cơ khác nhau.
Cả nam và nữ nhiễm HIV đều có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục cao hơn. Tuy nhiên, các triệu chứng ở bộ phận sinh dục của nữ giới khó quan sát hơn của nam giới.
Phụ nữ nhiễm HIV cũng có nhiều nguy cơ mắc các bệnh:
- Nhiễm trùng nấm âm đạo tái phát
- Các nhiễm trùng âm đạo khác, bao gồm cả viêm âm đạo do vi khuẩn
- Viêm vùng chậu (PID)
- Thay đổi chu kỳ kinh nguyệt
- Nhiễm HPV, gây mụn cóc sinh dục và có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung
Mặc dù không liên quan đến các triệu chứng HIV, một nguy cơ khác là lây truyền HIV sang em bé trong thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, liệu pháp điều trị ARV đã được chứng minh là an toàn trong thời kỳ mang thai.
Phụ nữ mang thai được điều trị bằng liệu pháp kháng virus có nguy cơ lây truyền HIV sang thai nhi rất thấp. Tuy nhiên, virus vẫn có thể lây truyền trong thời kỳ cho con bú.
Tại Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển, phụ nữ nhiễm HIV được khuyến khích không nên cho con bú sữa mẹ mà nên chuyển sang sử dụng các loại sữa ngoài có chất lượng cao hoặc sữa mẹ đã được tiệt trùng.
Đối với những phụ nữ có thể đã phơi nhiễm với HIV, điều quan trọng là phải nhận biết được các triệu chứng.
Các triệu chứng của bệnh AIDS là gì?
AIDS là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Trong giai đoạn này, hệ miễn dịch bị suy yếu nghiêm trọng do bệnh HIV không được điều trị trong nhiều năm.
Nếu HIV được phát hiện và điều trị sớm bằng liệu pháp kháng retrovirus, người bệnh sẽ không tiến triển thành AIDS.
Người nhiễm HIV có thể tiến triển thành AIDS nếu tình trạng của họ không được chẩn đoán sớm, hoặc họ biết tình trạng của mình nhưng từ chối điều trị hoặc họ nhiễm loại HIV không đáp ứng với thuốc kháng virus.
Nếu không được điều trị đầy đủ, người bệnh HIV có có khả năng tiến triển thành AIDS sớm hơn. Vào giai đoạn đó, hệ miễn dịch bị tổn thương khá nhiều và không đáp ứng miễn dịch.
Với việc sử dụng liệu pháp kháng retrovirus, người bệnh HIV có thể không tiến triển thành AIDS trong nhiều thập kỷ.
Các triệu chứng của AIDS có thể bao gồm:
- Sốt tái phát
- Sưng hạch bạch huyết mạn tính, đặc biệt là ở nách, cổ và bẹn
- Suy nhược
- Đổ mồ hôi về đêm
- Nổi đốm sậm màu dưới da hoặc trong miệng, mũi hoặc mí mắt
- Loét miệng, lưỡi, bộ phận sinh dục hoặc hậu môn
- Phát ban da
- Tiêu chảy mạn tính
- Sụt cân nhanh chóng
- Các vấn đề thần kinh như khó tập trung, mất trí nhớ và lú lẫn
- Lo lắng và trầm cảm
Điều trị bằng thuốc kháng virus có thể giúp kiểm soát tải lượng virus và ngăn ngừa tiến triển thành AIDS. Các bệnh nhiễm trùng cơ hội và biến chứng khác của AIDS cũng có thể được điều trị. Quá trình điều trị phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng người bệnh.
Các lựa chọn điều trị HIV
Việc điều trị nên được bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi được chẩn đoán nhiễm HIV, bất kể tải lượng virus là bao nhiêu.
Phương pháp điều trị chính cho HIV là sử dụng thuốc kháng virus. Điều này giúp bảo vệ các tế bào CD4, giữ cho hệ miễn dịch đủ mạnh để chống lại bệnh tật.
Điều trị bằng thuốc kháng virus cũng giúp HIV không tiến triển thành AIDS, đồng thời giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho người khác.
Khi được điều trị hiệu quả, tải lượng virus sẽ giảm xuống mức “không phát hiện”. Người bệnh vẫn sẽ có virus trong máu, nhưng sẽ không thấy trên kết quả xét nghiệm.
Tuy nhiên, vì virus vẫn còn trong cơ thể, cho nên nếu người bệnh ngừng điều trị thuốc kháng virus, virus sẽ sinh sôi trở lại và bắt đầu tấn công các tế bào CD4.
Thuốc điều trị HIV
Có nhiều loại thuốc kháng virus được chấp thuận để điều trị HIV. Chúng có tác dụng ngăn chặn HIV phát triển và phá hủy các tế bào CD4, từ đó giúp hệ miễn dịch tạo phản ứng với nhiễm trùng.
Điều này giúp giảm nguy cơ tiến triển các biến chứng liên quan đến HIV, cũng như lây truyền virus cho người khác.
Có 6 nhóm thuốc kháng virus:
- Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTIs)
- Thuốc ức chế men sao chép ngược không nucleoside (NNRTI)
- Thuốc ức chế protease
- Thuốc ức chế dung hợp
- Thuốc đối kháng CCR5, còn được gọi là thuốc ức chế xâm nhập
- Thuốc ức chế enzym tích hợp
Phác đồ điều trị
Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ (HHS) đã khuyến nghị một phác đồ khởi đầu gồm ba loại thuốc điều trị HIV, giúp ngăn chặn HIV hình thành khả năng kháng thuốc. (Kháng thuốc có nghĩa là thuốc không còn tác dụng điều trị.)
Nhiều loại thuốc điều trị ARV được kết hợp với những loại thuốc khác để người bệnh chỉ cần uống 1-2 viên thuốc mỗi ngày.
Bác sĩ sẽ giúp người nhiễm HIV lựa chọn chế độ điều trị dựa trên sức khỏe tổng thể và hoàn cảnh cá nhân của họ.
Những loại thuốc này phải được sử dụng hàng ngày và chính xác theo liều lượng. Nếu không, virus sẽ hình thành kháng thuốc và có thể sẽ cần một phác đồ mới.
Xét nghiệm máu sẽ giúp xác định phác đồ có hiệu quả giảm tải lượng virus và giúp số lượng CD4 tăng lên hay không. Nếu một phác đồ điều trị ARV không hiệu quả, bác sĩ sẽ chuyển sang một phác đồ khác hiệu quả hơn.
Tác dụng phụ và chi phí
Một số tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm sưng miệng lưỡi và tổn thương gan hoặc thận. Nếu các tác dụng phụ này diễn biến nặng, có thể sẽ phải điều chỉnh lại thuốc.
Chi phí điều trị ARV thay đổi tùy theo vị trí địa lý và loại hình bảo hiểm. Một số công ty dược phẩm có các chương trình hỗ trợ để giúp giảm chi phí.
Phòng chống HIV
Mặc dù nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu để phát triển nhưng hiện tại vẫn chưa có vắc-xin nào phòng ngừa lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, thực hiện những điều dưới đây cũng sẽ giúp hạn chế khả năng phơi nhiễm HIV.
Quan hệ tình dục an toàn
Con đường lây truyền HIV phổ biến nhất là quan hệ tình dục qua hậu môn hoặc âm đạo mà không dùng bao cao su hoặc các biện pháp an toàn khác. Mặc dù không thể phòng tránh hoàn toàn, nhưng biện pháp này có thể làm giảm đáng kể nguy cơ lây nhiễm HIV.
Nếu nghi ngờ bản thân đã bị phơi nhiễm HIV, người đó nên:
- Xét nghiệm HIV. Tốt nhất mọi người nên trao đổi trước với bạn tình về các tình trạng sức khỏe của bản thân.
- Xét nghiệm các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục khác (STIs). Nếu kết quả dương tính, người bệnh nên điều trị kịp thời vì mắc STI sẽ tăng nguy cơ lây nhiễm HIV.
- Sử dụng bao cao su. Tất cả mọi người nên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, cho dù qua âm đạo hay qua hậu môn. Lưu ý là dịch tiết ra trước khi nam giới xuất tinh cũng có thể chứa HIV.
- Uống thuốc đầy đủ nếu bị nhiễm HIV. Điều này làm giảm nguy cơ lây nhiễm cho bạn tình.
Các biện pháp phòng ngừa khác
Các biện khác giúp ngăn chặn lây nhiễm HIV bao gồm:
- Không dùng chung kim tiêm hoặc các vật dụng có thể dính máu khác. HIV lây truyền qua đường máu nên nếu một người tiếp xúc với máu của người bệnh HIV, họ thế bị phơi nhiễm.
- Xem xét PEP. Một người đã bị phơi nhiễm HIV nên đi khám bác sĩ để được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (PEP). PEP có thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho người khác. Phương pháp này sử dụng ba loại thuốc kháng virus sử dụng trong 28 ngày và nên được bắt đầu càng sớm càng tốt, tốt nhất là 36-72 giờ sau phơi nhiễm.
- Cân nhắc PrEP. Những người có nguy cơ cao phơi nhiễm HIV cao nên tham khảo bác sĩ về phương pháp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP). PrEP là sự kết hợp của hai loại thuốc viên kháng virus, nếu sử dụng đều đặn, nó có thể làm giảm nguy cơ phơi nhiễm HIV.
Hãy tham khảo bác sĩ để có thể chọn được phương pháp phù hợp nhất với bản thân.
Sống chung với HIV: Điều gì sẽ xảy ra và các lời khuyên
Hơn 1,2 triệu người Hoa Kỳ đang sống chung với HIV. Mặc dù khác nhau, nhưng việc điều trị có thể giúp mọi người có được chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Điều quan trọng nhất là bắt đầu điều trị ARV càng sớm càng tốt. Bằng cách dùng thuốc đúng chỉ định, người bệnh HIV có thể giữ cho tải lượng virus ở mức thấp đồng thời giúp hệ miễn dịch trở nên mạnh mẽ hơn.
Người bệnh cũng nên đi khám thường xuyên để theo dõi tình trạng sức khỏe.
Những phương pháp giúp người bệnh HIV có thể cải thiện sức khỏe bao gồm:
- Đặt sức khỏe lên hàng đầu.Những phương pháp giúp người bệnh HIV cảm thấy tốt nhất, bao gồm:
- Cung cấp năng lượng cho cơ thể bằng một chế độ ăn uống cân bằng
- Tập thể dục thường xuyên
- Nghỉ ngơi, hạn chế vận động mạnh
- Tránh thuốc lá
- Báo cáo bất kỳ triệu chứng mới nào xuất hiện cho bác sĩ
- Đừng bỏ quên sức khỏe tinh thần. Người bệnh có thể đến gặp bác sĩ tâm lý nếu cảm thấy lo lắng hoặc căng thẳng.
- Quan hệ tình dục an toàn. Trao đổi trước với bạn tình của họ, xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác và sử dụng các biện pháp an toàn mỗi khi quan hệ tình dục.
- Tham khảo ý kiến bác sĩ về PrEP và PEP. Những người không nhiễm HIV nếu tuân thủ điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) và sau phơi nhiễm (PEP) có thể giúp hạn chế nguy cơ lây nhiễm. PrEP thường được khuyến cáo cho người không nhiễm HIV đang trong một mối quan hệ với người nhiễm HIV, tuy nhiên nó cũng được sử dụng trong các tình huống khác.
- Ở cạnh những người thân yêu. Khi lần đầu tiên nói về tình trạng bệnh, người nhiễm HIV có thể bắt đầu bằng cách nói với người có thể giúp họ tự tin và an toàn. Người đó phải không phán xét và sẽ hỗ trợ họ trong việc chăm sóc sức khỏe.
- Nhận hỗ trợ. Người bệnh có thể tham gia các nhóm hỗ trợ để họ có cơ hội gặp gỡ những người có chung hoàn cảnh. Hãy hỏi bác sĩ về những nhóm hỗ trợ này.
Có nhiều cách để đạt được chất lượng sống tốt nhất khi sống chung với HIV.
Sự thật về tuổi thọ
Vào những năm 1990, người nhiễm HIV lúc 20 tuổi có tuổi thọ trung bình là thêm 19 năm. Đến năm 2011, một người 20 tuổi nhiễm HIV có thể sống thêm 53 năm.
Đây là một sự cải thiện đáng kể, phần lớn là do sự tiến bộ của các phương pháp điều trị kháng virus. Với phác đồ điều trị thích hợp, nhiều người bệnh HIV có thể có một cuộc sống gần như bình thường.
Tất nhiên, nhiều thứ ảnh hưởng đến tuổi thọ của người bệnh bao gồm:
- Số lượng tế bào CD4
- Tải lượng virus trong cơ thể
- Các bệnh nghiêm trọng liên quan đến HIV, bao gồm cả viêm gan
- Lạm dụng thuốc
- Hút thuốc
- Sự tiếp cận, tuân thủ và đáp ứng với điều trị
- Các tình trạng sức khỏe khác
- Tuổi
Môi trường sống ở đâu cũng rất quan trọng. Những người ở Hoa Kỳ và các nước phát triển khác có khả năng được tiếp cận với nhiều phương pháp điều trị tiến bộ.
Tuân thủ phương pháp điều trị giúp ngăn ngừa HIV tiến triển thành AIDS. Khi HIV chuyển sang giai đoạn AIDS, người bệnh chỉ có thể sống thêm khoảng 3 năm nếu không điều trị.
Năm 2017, khoảng 20,9 triệu người nhiễm HIV sử dụng phương pháp điều trị ARV.
Các số liệu thống kê về tuổi thọ chỉ là những số liệu chung. Người bệnh HIV nên nói chuyện với bác sĩ để hiểu rõ hơn về tình trạng của bản thân cũng như các phương pháp điều trị thích hợp.
Có vắc-xin HIV không?
Hiện nay, không có vắc-xin nào có thể phòng ngừa hoặc điều trị HIV. Việc nghiên cứu và thử nghiệm vắc-xin vẫn đang được tiến hành, tuy nhiên chưa có loại vắc-xin nào được cấp phép sử dụng.
HIV là một loại virus phức tạp. Nó đột biến rất nhanh để có thể chống lại các phản ứng của hệ miễn dịch. Chỉ một số ít người nhiễm HIV hình thành được kháng thể trung hòa diện rộng, loại kháng thể có thể chống lại các biến thể của HIV.
Nghiên cứu về tính hiệu quả của vắc-xin HIV đầu tiên trong vòng 7 năm qua đã được tiến hành ở Nam Phi vào năm 2016, đây là phiên bản cập nhật của vắc-xin được nghiên cứu năm 2009 ở Thái Lan.
Theo dõi 3,5 năm sau khi tiêm vắc-xin cho thấy vắc-xin có hiệu quả 31,2% trong việc phòng ngừa lây truyền HIV.
Một nghiên cứu trên 5.400 nam giới và phụ nữ đến từ Nam Phi. Năm 2016 ở Nam Phi có khoảng 270.000 người nhiễm HIV. Kết quả của nghiên cứu dự kiến vào năm 2021.
Nhiều nghiên cứu lâm sàng vắc-xin giai đoạn muộn đa quốc gia hiện cũng đang được tiến hành.
Mặc dù vẫn chưa có vắc-xin đặc hiệu phòng ngừa HIV, nhưng người bệnh có thể sử dụng các loại vắc-xin phòng ngừa bệnh liên quan đến HIV được CDC khuyến nghị dưới đây:
- Viêm phổi do phế cầu: khuyến cáo cho tất cả trẻ em dưới 2 tuổi và người lớn trên 65 tuổi
- Cúm: được khuyến cáo cho hầu hết mọi người trên 6 tháng tuổi sử dụng hàng năm
- Viêm gan A và B: Hãy hỏi bác sĩ về việc tiêm vắc-xin viêm gan A và B nếu người bệnh thuộc nhóm nguy cơ cao
- Viêm màng não: Việc tiêm chủng não mô cầu được khuyến cáo cho tất cả trẻ sơ sinh và thiếu niên từ 11-12 tuổi với liều nhắc lại lúc 16 tuổi, hoặc bất kỳ ai có nguy cơ cao. Tiêm chủng viêm não mô cầu nhóm huyết thanh B được khuyến cáo cho tất cả mọi người trên 10 tuổi có nguy cơ cao.
- Bệnh zona: khuyến cáo cho người lớn trên 50 tuổi
Thống kê HIV
Dưới đây số liệu về tình trạng HIV ngày nay:
- Năm 2019, khoảng 38 triệu người trên thế giới đang sống chung với HIV. Trong số đó, 1,8 triệu người trẻ em dưới 15 tuổi.
- Vào cuối năm 2019, 25,4 triệu người nhiễm HIV đang sử dụng liệu pháp điều trị ARV.
- Kể từ khi bắt đầu, 75,7 triệu người đã nhiễm HIV và các biến chứng liên quan đến AIDS đã cướp đi sinh mạng của 32,7 triệu người.
- Năm 2019, 690.000 người chết vì các bệnh liên quan đến AIDS. Đây là mức giảm so với 1,9 triệu vào năm 2005.
- Đông và Nam Phi là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Năm 2019, 20,7 triệu người đang sống chung với HIV và thêm 730.000 người nhiễm virus, chiếm hơn một nửa tổng số người nhiễm HIV trên toàn thế giới.
- Phụ nữ trưởng thành và vị thành niên chiếm 19% các ca chẩn đoán HIV mới ở Hoa Kỳ vào năm 2018, gần 50% là người Mỹ gốc Phi.
- Nếu không được điều trị, tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV lây truyền cho con khi mang thai hoặc cho con bú là 15–45%. Nếu được điều trị ARV trong suốt quá trình mang thai và hạn chế cho con bú, nguy cơ là dưới 5%.
- Vào những năm 1990, người nhiễm HIV lúc 20 tuổi có chỉ có thể sống thêm 19 năm. Đến năm 2011, người bệnh có thể sống thêm 53 năm. Ngày nay, tuổi thọ của người nhiễm HIV gần như người bình thường nếu điều trị ARV ngay sau khi phơi nhiễm.
- Khi khả năng tiếp cận phương pháp điều trị ARV tiếp tục được gia tăng trên khắp thế giới, những số liệu thống kê này hy vọng sẽ thay đổi khả quan hơn.
Xem thêm
- Phát ban HIV: Phân loại, nguyên nhân và triệu chứng kèm theo
- Những lầm tưởng về sự lây nhiễm HIV
- Các dấu hiệu sớm của nhiễm HIV
- Diễn biến các triệu chứng của HIV
- Xét nghiệm HIV khi mang thai: Những điều bạn cần biết
- Các xét nghiệm HIV: Chẩn đoán, theo dõi...
- Test nhanh HIV: Xét nghiệm tại nhà, độ chính xác và lợi ích
- 15 dấu hiệu HIV sớm ở nam giới
- 9 dấu hiệu nhiễm HIV thường thấy ở nữ giới
- HIV và AIDS có chữa được không?
- HIV: Giai đoạn cửa sổ là gì?