Ung thư cổ tử cung: Các phương pháp điều trị

Ung thư cổ tử cung là một bệnh lý ác tính, khi các tế bào ung thư hình thành trong các mô của cổ tử cung.

Video: Ung thư cổ tử cung

Nhiễm vi rút u nhú ở người (Human papillomavirus - HPV) là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư cổ tử cung.

Thường không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của ung thư cổ tử cung ở giai đoạn đầu nhưng nó có thể được phát hiện sớm khi đi khám sức khỏe định kỳ.

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư cổ tử cung bao gồm chảy máu âm đạo và đau vùng chậu.

Các xét nghiệm kiểm tra cổ tử cung được sử dụng để phát hiện và chẩn đoán ung thư cổ tử cung.

Có một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và các lựa chọn điều trị.

Tổng quan về ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung là một bệnh lý ác tính, khi các tế bào ung thư hình thành trong các mô của cổ tử cung 

Cổ tử cung là phần thấp nhất của tử cung. Nó có hình dạng như miệng cá, đường kính từ 2-4cm nối tiếp âm đạo với tử cung. Cổ tử cung có thành dày màu hồng nhạt và rất chắc với một lỗ mở rất nhỏ ở trung tâm, còn thân tử cung là nơi phát triển và chứa đựng bào thai. 

 Tổng quan

Ung thư cổ tử cung thường phát triển chậm theo thời gian. Trước khi ung thư xuất hiện ở cổ tử cung, các tế bào của cổ tử cung trải qua những thay đổi được gọi là loạn sản, trong đó các tế bào bất thường bắt đầu xuất hiện trong mô cổ tử cung. Theo thời gian, các tế bào bất thường có thể trở thành tế bào ung thư, bắt đầu phát triển và lây lan sâu hơn vào cổ tử cung và các khu vực xung quanh.

Ung thư cổ tử cung ở trẻ em rất hiếm gặp.

Nhiễm vi rút u nhú ở người (HPV) là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư cổ tử cung.

Bất cứ điều gì làm tăng khả năng mắc bệnh đều được gọi là yếu tố nguy cơ. Có một yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư; không có các yếu tố nguy cơ cũng không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư. Trao đổi với bác sĩ nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.

Các yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung bao gồm:

  • Bị nhiễm HPV. Đây là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của ung thư cổ tử cung.
  • Tiếp xúc với thuốc DES (diethylstilbestrol) khi còn trong bụng mẹ.

Ở những phụ nữ bị nhiễm HPV, các yếu tố nguy cơ sau đây làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung:

  • Sinh nhiều con.
  • Hút thuốc lá.
  • Sử dụng thuốc tránh thai trong một thời gian dài.

Ngoài ra còn có các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ nhiễm HPV:

  • Có hệ thống miễn dịch suy yếu do ức chế miễn dịch. Ức chế miễn dịch làm suy yếu khả năng của cơ thể chống lại nhiễm trùng và các bệnh khác. Khả năng chống lại nhiễm HPV của cơ thể có thể bị giảm xuống do ức chế miễn dịch lâu dài do:
    • Bị nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
    • Dùng thuốc để giúp ngăn ngừa đào thải nội tạng sau khi cấy ghép.
  • Hoạt động tình dục khi còn trẻ.
  • Có nhiều bạn tình.

Tuổi già là một yếu tố nguy cơ chính của hầu hết các bệnh ung thư. Nguy cơ mắc bệnh ung thư tăng lên khi bạn già đi.

Thường không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu nhưng nó có thể được phát hiện sớm khi đi khám sức khỏe định kỳ.

Ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu có thể không gây ra các dấu hiệu hoặc triệu chứng. Phụ nữ nên đi khám sức khỏe định kỳ, bao gồm các xét nghiệm để kiểm tra HPV hoặc các tế bào bất thường ở cổ tử cung. Tiên lượng sẽ tốt hơn khi ung thư được phát hiện sớm.

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư cổ tử cung bao gồm chảy máu âm đạo và đau vùng chậu.

Những dấu hiệu và triệu chứng này có thể do ung thư cổ tử cung hoặc các bệnh lý khác gây ra. Đi khám bác sĩ nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • Chảy máu âm đạo (kể cả chảy máu sau khi quan hệ tình dục).
  • Dịch tiết âm đạo bất thường.
  • Đau vùng chậu.
  • Đau khi quan hệ tình dục.

Các xét nghiệm kiểm tra cổ tử cung được sử dụng để phát hiện và chẩn đoán ung thư cổ tử cung.

Quy trình sau có thể được sử dụng:

  • Khám sức khỏe và khai thác tiền sử: Khám cơ thể để kiểm tra các dấu hiệu về sức khỏe chung, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu bệnh tật, chẳng hạn như cục u hoặc bất kỳ điều gì khác có vẻ bất thường. Khai thác tiền sử về thói quen sức khỏe của người bệnh, các bệnh trong quá khứ và các phương pháp điều trị.
  • Khám vùng chậu: Khám âm đạo, cổ tử cung, tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng và trực tràng. Một mỏ vịt được đưa vào âm đạo và bác sĩ hoặc y tá sẽ xem xét âm đạo và cổ tử cung để tìm các dấu hiệu của bệnh. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung (PAP test) thường được thực hiện. Bác sĩ hoặc y tá cũng có thể thăm khám âm đạo, cổ tử cung bằng 1 hoặc 2 ngón tay (sau khi đã được đeo găng và bôi trơn) và đặt bàn tay kia lên vùng bụng dưới để cảm nhận kích thước, hình dạng và vị trí của tử cung và buồng trứng. Họ cũng đưa ngón tay đeo găng tay được bôi trơn vào trực tràng để xem có u hay bất thường khác không.

Khám vùng chậu: Một bác sĩ hoặc y tá đưa một hoặc hai ngón tay đeo găng, được bôi trơn của một bàn tay vào âm đạo và dùng tay kia ấn vào bụng dưới. Điều này được thực hiện để cảm nhận kích thước, hình dạng và vị trí của tử cung và buồng trứng. Âm đạo, cổ tử cung, ống dẫn trứng và trực tràng cũng được kiểm tra.Khám vùng chậu: Một bác sĩ hoặc y tá đưa một hoặc hai ngón tay đeo găng, được bôi trơn của một bàn tay vào âm đạo và dùng tay kia ấn vào bụng dưới. Điều này được thực hiện để cảm nhận kích thước, hình dạng và vị trí của tử cung và buồng trứng. Âm đạo, cổ tử cung, ống dẫn trứng và trực tràng cũng được kiểm tra.

  • Xét nghiệm PAP test: Một biện pháp xét nghiệm nhằm thu thập các tế bào từ bề mặt của cổ tử cung và âm đạo. Một miếng bông, một bàn chải hoặc một thanh gỗ nhỏ được sử dụng để cạo nhẹ các tế bào từ cổ tử cung và âm đạo. Các tế bào được xem dưới kính hiển vi để tìm xem chúng có bất thường hay không. Xét nghiệm này được gọi là xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung hay PAP test.

 Xét nghiệm Pap. Một mỏ vịt được đưa vào âm đạo để mở rộng nó. Sau đó, một bàn chải được đưa vào âm đạo để thu thập các tế bào từ cổ tử cung. Các tế bào được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các dấu hiệu của bệnh.Xét nghiệm Pap. Một mỏ vịt được đưa vào âm đạo để mở rộng nó. Sau đó, một bàn chải được đưa vào âm đạo để thu thập các tế bào từ cổ tử cung. Các tế bào được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các dấu hiệu của bệnh.

  • Xét nghiệm vi rút u nhú ở người (HPV): Một xét nghiệm trong phòng thí nghiệm được sử dụng để kiểm tra DNA hoặc RNA để tìm kiếm HPV. Tế bào được thu thập từ cổ tử cung và DNA hoặc RNA từ các tế bào được kiểm tra để tìm xem có phải nhiễm trùng do một loại HPV có liên quan đến ung thư cổ tử cung hay không. Xét nghiệm này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng mẫu tế bào được lấy ra trong quá trình xét nghiệm PAP test. Xét nghiệm này cũng có thể được thực hiện nếu kết quả xét nghiệm PAP test cho thấy một số tế bào cổ tử cung bất thường.
  • Nạo nội mạc cổ tử cung : Là thủ thuật lấy tế bào hoặc mô từ ống cổ tử cung bằng cách sử dụng nạo (dụng cụ hình thìa). Các mẫu mô được lấy và kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các dấu hiệu của bệnh ung thư. Xét nghiệm này đôi khi được thực hiện cùng lúc với soi cổ tử cung.
  • Soi cổ tử cung: Một thủ thuật trong đó ống soi cổ tử cung (một dụng cụ phóng đại có ánh sáng) được sử dụng để kiểm tra âm đạo và cổ tử cung để tìm các khu vực bất thường. Có thể lấy mẫu mô bằng nạo (dụng cụ hình thìa) hoặc bàn chải và kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm dấu hiệu bệnh.
  • Sinh thiết: Nếu tìm thấy các tế bào bất thường trong xét nghiệm PAP, bác sĩ có thể làm sinh thiết. Một mẫu mô được cắt từ cổ tử cung và được bác sĩ giải phẫu bệnh xem dưới kính hiển vi để kiểm tra các dấu hiệu của ung thư. Sinh thiết chỉ loại bỏ một lượng nhỏ mô, thường được thực hiện tại phòng khám. Một phụ nữ có thể cần đến bệnh viện để làm khoét chóp cổ tử cung.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và các lựa chọn điều trị.

Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào những điều sau:

  • Giai đoạn của ung thư (kích thước của khối u và liệu nó ảnh hưởng đến một phần cổ tử cung hoặc toàn bộ cổ tử cung, hoặc có lây lan đến các hạch bạch huyết hoặc những nơi khác trong cơ thể không).
  • Loại ung thư cổ tử cung.
  • Tuổi và sức khỏe chung của người bệnh.
  • Người bệnh có nhiễm HPV hay không.
  • Người bệnh có nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) hay không.
  • Ung thư mới được chẩn đoán hay tái phát.

Các lựa chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau:

  • Giai đoạn của ung thư.
  • Loại ung thư cổ tử cung.
  • Mong muốn có con của người bệnh.
  • Tuổi của người bệnh.

Điều trị ung thư cổ tử cung khi mang thai phụ thuộc vào giai đoạn ung thư và giai đoạn của thai kỳ. Đối với ung thư cổ tử cung được phát hiện sớm hoặc ung thư được phát hiện trong ba tháng cuối của thai kỳ, việc điều trị có thể được trì hoãn cho đến khi em bé được sinh ra. 

Các giai đoạn của ung thư cổ tử cung

  • Sau khi ung thư cổ tử cung đã được chẩn đoán, các xét nghiệm sẽ được thực hiện để tìm xem các tế bào ung thư đã di căn trong cổ tử cung hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể hay chưa.
  • Có 3 cách ung thư lây lan trong cơ thể.
  • Ung thư có thể lây lan từ nơi nó bắt đầu đến các bộ phận khác của cơ thể.
  • Các tế bào bất thường có thể hình thành trong niêm mạc cổ tử cung (ung thư biểu mô tại chỗ).
  • Các giai đoạn sau được áp dụng cho bệnh ung thư cổ tử cung:
    1. Giai đoạn I
    2. Giai đoạn II
    3. Giai đoạn III
    4. Giai đoạn IV

Sau khi ung thư cổ tử cung đã được chẩn đoán, các xét nghiệm sẽ được thực hiện để tìm xem các tế bào ung thư đã di căn trong cổ tử cung hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể hay chưa.

Các xét nghiệm sẽ được sử dụng để tìm hiểu xem liệu ung thư đã lan rộng trong cổ tử cung hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể chưa. Các kết quả xét nghiệm sẽ được tổng hợp lại để xác định giai đoạn cho người bệnh. Điều quan trọng là phải biết giai đoạn để lập kế hoạch điều trị.

Các xét nghiệm sau đây có thể được sử dụng trong quá trình xác định giai đoạn bệnh:

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT): tạo ra một loạt các hình ảnh chi tiết của các khu vực bên trong cơ thể, được chụp từ các góc độ khác nhau. Hình ảnh được thực hiện bởi một máy tính liên kết với một máy x-quang. Một loại thuốc cản quang có thể được tiêm vào một tĩnh mạch hoặc bằng đường uống để làm các cơ quan hoặc mô xuất hiện rõ ràng hơn. 
  • Chụp chụp cắt lớp phát xạ positron (PET): giúp tìm tế bào khối u ác tính trong cơ thể. Một lượng nhỏ glucose gắn phóng xạ được tiêm vào tĩnh mạch. Máy quét PET quay xung quanh cơ thể và tạo ra hình ảnh về nơi glucose đang được sử dụng trong cơ thể. Các tế bào khối u ác tính hiển thị sáng hơn trong hình vì chúng hoạt động mạnh hơn và hấp thụ nhiều glucose hơn các tế bào bình thường.
  • Chụp cộng hưởng từ (MRI): Một biện pháp chẩn đoán hình ảnh sử dụng nam châm, sóng vô tuyến và máy tính để tạo ra một loạt các hình ảnh chi tiết về các khu vực bên trong cơ thể.
  • Siêu âm: Sử dụng sóng âm thanh năng lượng cao bị dội lại từ các mô hoặc cơ quan bên trong và tạo ra phản hồi âm. Phản hồi âm tạo thành một hình ảnh của các mô cơ thể được gọi là hình ảnh siêu âm. Hình ảnh này có thể được in ra để xem sau.
  • Chụp X-quang ngực: Chụp X -quang các cơ quan và xương bên trong ngực. X-quang là một loại tia năng lượng có thể đi qua cơ thể và lên phim, tạo ra hình ảnh của các khu vực bên trong cơ thể.
  • Sinh thiết hạch bạch huyết: là việc loại bỏ toàn bộ hoặc một phần của hạch bạch huyết. Nhà giải phẫu bệnh kiểm tra nó dưới kính hiển vi để kiểm tra các tế bào ung thư.
  • Nội soi bàng quang: Một thủ thuật để xem xét bên trong bàng quang và niệu đạo để kiểm tra các khu vực bất thường. Một ống soi bàng quang được đưa qua niệu đạo vào bàng quang. Ống soi bàng quang là một dụng cụ mỏng, hình ống, có đèn và thấu kính để quan sát. Nó cũng có thể có một công cụ để lấy các mẫu mô, sau đó kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các dấu hiệu ung thư.
  • Nội soi ổ bụng: Là phương pháp phẫu thuật nhằm xem xét các cơ quan bên trong ổ bụng để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh. Các vết rạch nhỏ được thực hiện trên thành bụng và một ống soi ổ bụng (một ống mỏng, sáng) được đưa vào một trong các vết rạch. Các dụng cụ khác có thể được đưa vào qua các vết mổ tương tự để thực hiện các thủ thuật như loại bỏ nội tạng hoặc lấy mẫu mô để kiểm tra dưới kính hiển vi xem có dấu hiệu bệnh tật hay không.
  • Phẫu thuật trước điều trị: Phẫu thuật được thực hiện để tìm xem liệu ung thư đã lan rộng trong cổ tử cung hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể hay chưa. Trong một số trường hợp, ung thư cổ tử cung có thể được loại bỏ cùng một lúc. 

Kết quả của các xét nghiệm này được đánh giá cùng với kết quả sinh thiết khối u ban đầu để xác định giai đoạn ung thư cổ tử cung.

Có 3 cách ung thư lây lan trong cơ thể.

Ung thư có thể lây lan qua đường kế cận, qua hệ thống bạch huyết và qua máu:

  • Qua đường kế cận. Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu sang các khu vực lân cận.
  • Qua hệ thống bạch huyết. Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu bằng cách xâm nhập vào hệ thống bạch huyết. Ung thư di chuyển qua các mạch bạch huyết đến các bộ phận khác của cơ thể.
  • Qua máu. Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu bằng cách xâm nhập vào máu. Ung thư di chuyển qua các mạch máu đến các bộ phận khác của cơ thể.

Ung thư có thể lây lan từ nơi nó bắt đầu đến các bộ phận khác của cơ thể.

Khi ung thư lây lan đến một phần khác của cơ thể, nó được gọi là di căn. Tế bào ung thư tách khỏi nơi chúng bắt đầu (khối u nguyên phát) và di chuyển qua hệ thống bạch huyết hoặc máu.

  • Hệ thống bạch huyết. Ung thư xâm nhập vào hệ thống bạch huyết, di chuyển qua các mạch bạch huyết và tạo thành một khối u (khối u di căn) ở một bộ phận khác của cơ thể.
  • Máu. Ung thư xâm nhập vào máu, di chuyển qua các mạch máu và tạo thành một khối u (khối u di căn) ở một bộ phận khác của cơ thể.

Khối u di căn là loại ung thư giống như khối u nguyên phát. Ví dụ, nếu ung thư cổ tử cung di căn đến phổi, các tế bào ung thư trong phổi thực sự là các tế bào ung thư cổ tử cung. Nó là ung thư cổ tử cung di căn, không phải ung thư phổi.

Nhiều trường hợp tử vong do ung thư xảy ra khi ung thư di chuyển từ khối u ban đầu và lan sang các mô và cơ quan khác. Đây được gọi là ung thư di căn. 

Các tế bào bất thường có thể hình thành trong niêm mạc cổ tử cung (ung thư biểu mô tại chỗ).

Trong ung thư biểu mô tại chỗ, các tế bào bất thường được tìm thấy ở lớp niêm mạc trong cùng của cổ tử cung. Những tế bào bất thường này có thể trở thành ung thư và lây lan sang các mô bình thường lân cận.

Các giai đoạn sau được áp dụng cho bệnh ung thư cổ tử cung:

Giai đoạn I

Ở giai đoạn I, ung thư đã hình thành và chỉ được tìm thấy ở cổ tử cung.

Giai đoạn I được chia thành giai đoạn IA và IB, dựa trên kích thước của khối u và điểm xâm lấn sâu nhất của khối u.

  • Giai đoạn IA: Giai đoạn IA được chia thành các giai đoạn IA1 và IA2, dựa trên điểm xâm lấn sâu nhất của khối u.  

Ung thư cổ tử cung giai đoạn IA1 và IA2. Một lượng rất nhỏ ung thư chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi được tìm thấy trong các mô của cổ tử cung. Ở giai đoạn IA1, ung thư không sâu quá 3 mm. Ở giai đoạn IA2, ung thư sâu hơn 3 mm nhưng không quá 5 mm.Ung thư cổ tử cung giai đoạn IA1 và IA2. Một lượng rất nhỏ ung thư chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi được tìm thấy trong các mô của cổ tử cung. Ở giai đoạn IA1, ung thư không sâu quá 3 mm. Ở giai đoạn IA2, ung thư sâu hơn 3 mm nhưng không quá 5 mm.

    • Trong giai đoạn IA1, một lượng rất nhỏ ung thư chỉ có thể nhìn thấy bằng kính hiển vi được tìm thấy trong các mô của cổ tử cung. Điểm xâm lấn sâu nhất của khối u là từ 3 mm trở xuống.
    • Trong giai đoạn IA2, một lượng rất nhỏ ung thư chỉ có thể nhìn thấy bằng kính hiển vi được tìm thấy trong các mô của cổ tử cung. Điểm xâm lấn sâu nhất của khối u là hơn 3 mm nhưng không quá 5 mm.
Milimét (mm). Đầu bút chì nhọn khoảng 1 mm, điểm bút chì màu mới khoảng 2 mm và tẩy bút chì mới khoảng 5 mm.Milimét (mm). Đầu bút chì nhọn khoảng 1 mm, điểm bút chì màu mới khoảng 2 mm và tẩy bút chì mới khoảng 5 mm.

 

  • Giai đoạn IB: Giai đoạn IB được chia thành các giai đoạn IB1, IB2 và IB3, dựa trên kích thước của khối u và điểm xâm lấn sâu nhất của khối u.
    • Ở giai đoạn IB1, khối u có kích thước từ 2 cm trở xuống và điểm xâm lấn sâu nhất của khối u là hơn 5 mm.


Giai đoạn IB1 ung thư cổ tử cung. Ung thư có kích thước nhỏ hơn hoặc bằng 2 cm và sâu hơn 5 mm.Giai đoạn IB1 ung thư cổ tử cung. Ung thư có kích thước nhỏ hơn hoặc bằng 2 cm và sâu hơn 5 mm.

Ở giai đoạn IB2, khối u lớn hơn 2 cm nhưng không lớn hơn 4 cm.

Giai đoạn IB2 và IB3 ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IB2, ung thư lớn hơn 2 cm nhưng không lớn hơn 4 cm. Trong giai đoạn IB3, ung thư lớn hơn 4 cm.Giai đoạn IB2 và IB3 ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IB2, ung thư lớn hơn 2 cm nhưng không lớn hơn 4 cm. Trong giai đoạn IB3, ung thư lớn hơn 4 cm.Ở giai đoạn IB3, khối u lớn hơn 4 cm.

Kích thước khối u thường được đo bằng cm (cm). Các loại thực phẩm phổ biến có thể được sử dụng để hiển thị kích thước khối u tính bằng cm bao gồm: hạt đậu (1 cm), đậu phộng (2 cm), nho (3 cm), quả óc chó (4 cm), chanh (5 cm), một quả trứng (6 cm), một quả đào (7 cm) và một quả bưởi (10 cm).Kích thước khối u thường được đo bằng cm (cm). Các loại thực phẩm phổ biến có thể được sử dụng để hiển thị kích thước khối u tính bằng cm bao gồm: hạt đậu (1 cm), đậu phộng (2 cm), nho (3 cm), quả óc chó (4 cm), chanh (5 cm), một quả trứng (6 cm), một quả đào (7 cm) và một quả bưởi (10 cm). 
Giai đoạn II

Ở giai đoạn II, ung thư đã lan đến 2/3 trên của âm đạo hoặc đến các mô xung quanh tử cung.

Giai đoạn II được chia thành các giai đoạn IIA và IIB, dựa trên mức độ di căn của ung thư.

Giai đoạn II ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IIA1 và IIA2, ung thư đã lan từ cổ tử cung đến 2/3 phía trên của âm đạo nhưng chưa lan đến các mô xung quanh tử cung. Ở giai đoạn IIA1, ung thư có kích thước 4 cm hoặc nhỏ hơn. Trong giai đoạn IIA2, ung thư lớn hơn 4 cm. Trong giai đoạn IIB, ung thư đã lan từ cổ tử cung đến các mô xung quanh tử cung.Giai đoạn II ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IIA1 và IIA2, ung thư đã lan từ cổ tử cung đến 2/3 phía trên của âm đạo nhưng chưa lan đến các mô xung quanh tử cung. Ở giai đoạn IIA1, ung thư có kích thước 4 cm hoặc nhỏ hơn. Trong giai đoạn IIA2, ung thư lớn hơn 4 cm. Trong giai đoạn IIB, ung thư đã lan từ cổ tử cung đến các mô xung quanh tử cung.
  • Giai đoạn IIA: Ung thư đã lan từ cổ tử cung đến 2/3 phía trên của âm đạo nhưng chưa lan đến các mô xung quanh tử cung. Giai đoạn IIA được chia thành giai đoạn IIA1 và IIA2, dựa trên kích thước của khối u.
    • Ở giai đoạn IIA1, khối u có kích thước 4 cm hoặc nhỏ hơn.
    • Ở giai đoạn IIA2, khối u lớn hơn 4 cm.
  • Giai đoạn IIB: Ung thư đã lan từ cổ tử cung đến mô xung quanh tử cung.

Giai đoạn III

Ở giai đoạn III, ung thư đã lan đến 1/3 dưới của âm đạo và / hoặc đến thành chậu, và / hoặc đã gây ra các vấn đề về thận, và / hoặc liên quan đến các hạch bạch huyết.

Giai đoạn III được chia thành các giai đoạn IIIA, IIIB và IIIC, dựa trên mức độ di căn của ung thư.

  • Giai đoạn IIIA: Ung thư đã lan đến 1/3 dưới của âm đạo nhưng chưa lan đến thành chậu.

Giai đoạn IIIA ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến 1/3 dưới của âm đạo nhưng chưa lan đến thành chậu.Giai đoạn IIIA ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến 1/3 dưới của âm đạo nhưng chưa lan đến thành chậu.

  • Giai đoạn IIIB: Ung thư đã lan đến thành chậu; và / hoặc khối u đã trở nên đủ lớn để chèn ép một hoặc cả hai niệu quản hoặc khiến một hoặc cả hai thận to hơn hoặc ngừng hoạt động.

Giai đoạn IIIB ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến thành chậu và / hoặc khối u đã trở nên đủ lớn để chèn ép một hoặc cả hai niệu quản hoặc khiến một hoặc cả hai thận to hơn hoặc ngừng hoạt động.Giai đoạn IIIB ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến thành chậu và / hoặc khối u đã trở nên đủ lớn để chèn ép một hoặc cả hai niệu quản hoặc khiến một hoặc cả hai thận to hơn hoặc ngừng hoạt động.

  • Giai đoạn IIIC: Giai đoạn IIIC được chia thành giai đoạn IIIC1 và IIIC2, dựa trên sự lây lan của ung thư đến các hạch bạch huyết. 
Giai đoạn IIIC ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IIIC1, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết trong xương chậu. Trong giai đoạn IIIC2, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở bụng gần động mạch chủ.Giai đoạn IIIC ung thư cổ tử cung. Trong giai đoạn IIIC1, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết trong xương chậu. Trong giai đoạn IIIC2, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở bụng gần động mạch chủ.


  1. Trong giai đoạn IIIC1, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết trong xương chậu.
  2. Trong giai đoạn IIIC2, ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở bụng gần động mạch chủ.

Giai đoạn IV

Ở giai đoạn IV, ung thư đã lan ra ngoài khung chậu hoặc đã lan đến niêm mạc của bàng quang hoặc trực tràng, hoặc đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể.

Giai đoạn IV được chia thành các giai đoạn IVA và IVB, dựa trên nơi ung thư đã di căn.

•        Giai đoạn IVA: Ung thư đã lan đến các cơ quan lân cận , chẳng hạn như bàng quang hoặc trực tràng.

Giai đoạn IVA ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến các cơ quan lân cận, chẳng hạn như bàng quang hoặc trực tràng.Giai đoạn IVA ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến các cơ quan lân cận, chẳng hạn như bàng quang hoặc trực tràng.

  • Giai đoạn IVB: Ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như gan, phổi, xương hoặc các hạch bạch huyết ở xa.

Giai đoạn IVB ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như các hạch bạch huyết, phổi, gan hoặc xương.Giai đoạn IVB ung thư cổ tử cung. Ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như các hạch bạch huyết, phổi, gan hoặc xương.

Ung thư cổ tử cung tái phát

Ung thư cổ tử cung tái phát là ung thư xuất hiện lại sau khi đã được điều trị. Ung thư có thể quay trở lại cổ tử cung hoặc ở các bộ phận khác của cơ thể.

Tổng quan về biện pháp điều trị

Những điểm chính 

  • Có nhiều biện pháp điều trị khác nhau cho người bệnh ung thư cổ tử cung.
  • 5 biện pháp chính được sử dụng:
    1. Phẫu thuật
    2. Xạ trị
    3. Hóa trị liệu
    4. Liệu pháp nhắm mục tiêu
    5. Liệu pháp miễn dịch
  • Các biện pháp điều trị mới đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng.
  • Điều trị ung thư cổ tử cung có thể gây ra tác dụng phụ.
  • Các xét nghiệm theo dõi có thể cần thiết.

Có nhiều biện pháp điều trị khác nhau cho người bệnh ung thư cổ tử cung.

Có nhiều biện pháp điều trị cho người bệnh ung thư cổ tử cung. Một số biện pháp điều trị là tiêu chuẩn (phương pháp điều trị hiện đang được sử dụng) và một số phương pháp đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng điều trị là một nghiên cứu nhằm giúp cải thiện các phương pháp điều trị hiện tại hoặc thu thập thông tin về các phương pháp điều trị mới cho người bệnh ung thư. Khi các thử nghiệm lâm sàng cho thấy phương pháp điều trị mới tốt hơn phương pháp điều trị tiêu chuẩn thì phương pháp điều trị mới có thể trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn. 

5 biện pháp chính được sử dụng:

Phẫu thuật

Phẫu thuật đôi khi được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung. Các thủ thuật phẫu thuật sau đây có thể được sử dụng:

  • Khoét chóp cổ tử cung: Một thủ thuật loại bỏ một mảnh mô hình nón từ cổ tử cung và ống cổ tử cung. Bác sĩ giải phẫu bệnh kiểm tra mô dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Khoét chóp cổ tử cung có thể được sử dụng để chẩn đoán hoặc điều trị bệnh. 

Quá trình khoét chóp có thể được thực hiện bằng một trong các cách sau:

  1. Khoét chóp bằng dao lạnh: thủ thuật phẫu thuật sử dụng một con dao mổ để loại bỏ các mô bất thường hoặc ung thư.
  2. Khoét chóp bằng vòng điện (LEEP): quy trình phẫu thuật sử dụng dòng điện chạy qua một vòng dây mỏng như một con dao để loại bỏ các mô bất thường hoặc ung thư.
  3. Phẫu thuật laser: thủ thuật phẫu thuật sử dụng chùm tia laser (chùm ánh sáng cường độ hẹp) như một con dao để tạo ra các vết cắt không chảy máu hoặc để loại bỏ một tổn thương trên bề mặt chẳng hạn như khối u .

Khoét chóp cổ tử cung được sử dụng phụ thuộc vào vị trí của các tế bào ung thư trong cổ tử cung và loại ung thư cổ tử cung.

  • Cắt tử cung toàn bộ: Nếu thân tử cung và cổ tử cung được đưa ra ngoài qua âm đạo, phẫu thuật được gọi là cắt tử cung qua đường âm đạo. Nếu thân tử cung và cổ tử cung được đưa ra ngoài thông qua một vết rạch lớn ở bụng, phẫu thuật được gọi là cắt tử cung toàn phần qua đường bụng. Nếu tử cung và cổ tử cung được đưa ra ngoài qua một vết rạch nhỏ ở bụng bằng phương pháp nội soi, phẫu thuật được gọi là phẫu thuật cắt tử cung nội soi toàn bộ.
Cắt bỏ tử cung. Tử cung được phẫu thuật cắt bỏ kèm có hoặc không có các cơ quan hoặc mô khác. Trong phẫu thuật cắt tử cung toàn phần, tử cung và cổ tử cung được loại bỏ. Trong phẫu thuật cắt tử cung toàn phần kèm phẫu thuật cắt vòi trứng, (a) tử cung cộng với một buồng trứng và ống dẫn trứng được cắt bỏ; hoặc (b) tử cung cộng với cả hai buồng trứng và ống dẫn trứng đều bị cắt bỏ. Trong phẫu thuật cắt tử cung triệt để, tử cung, cổ tử cung, cả hai buồng trứng, cả hai ống dẫn trứng và các mô lân cận sẽ bị loại bỏ. Các phẫu thuật này được thực hiện bằng cách sử dụng một đường rạch ngang thấp hoặc một đường rạch dọc.Cắt bỏ tử cung. Tử cung được phẫu thuật cắt bỏ kèm có hoặc không có các cơ quan hoặc mô khác. Trong phẫu thuật cắt tử cung toàn phần, tử cung và cổ tử cung được loại bỏ. Trong phẫu thuật cắt tử cung toàn phần kèm phẫu thuật cắt vòi trứng, (a) tử cung cộng với một buồng trứng và ống dẫn trứng được cắt bỏ; hoặc (b) tử cung cộng với cả hai buồng trứng và ống dẫn trứng đều bị cắt bỏ. Trong phẫu thuật cắt tử cung triệt để, tử cung, cổ tử cung, cả hai buồng trứng, cả hai ống dẫn trứng và các mô lân cận sẽ bị loại bỏ. Các phẫu thuật này được thực hiện bằng cách sử dụng một đường rạch ngang thấp hoặc một đường rạch dọc.

 

  • Cắt bỏ tử cung triệt để: Phẫu thuật cắt bỏ tử cung, cổ tử cung, một phần âm đạo, và một phần dây chằng rộng và mô xung quanh các cơ quan này. Các buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc lân cận hạch bạch huyết cũng có thể được gỡ bỏ.
  • Cắt tử cung triệt để một phần: Phẫu thuật cắt bỏ tử cung, cổ tử cung, phần trên của âm đạo, dây chằng và các mô bao quanh các cơ quan này. Các hạch bạch huyết gần đó cũng có thể bị loại bỏ. Trong loại phẫu thuật này, không có nhiều mô và / hoặc cơ quan bị loại bỏ như trong phẫu thuật cắt bỏ tử cung triệt để.
  • Cắt bỏ tử cung toàn bộ: Phẫu thuật cắt bỏ cổ tử cung, mô lân cận và các hạch bạch huyết, và phần trên của âm đạo. Tử cung và buồng trứng không bị cắt bỏ.
  • Cắt bỏ phần phụ hai bên: Phẫu thuật cắt bỏ cả hai buồng trứng và cả hai ống dẫn trứng.
  • Phẫu thuật vùng chậu mở rộng: Phẫu thuật cắt bỏ đại tràng dưới, trực tràng và bàng quang. Cổ tử cung, âm đạo, buồng trứng và các hạch bạch huyết gần đó cũng bị cắt bỏ. Các lỗ mở nhân tạo được tạo ra để nước tiểu và phân chảy từ cơ thể đến túi thu gom. Có thể cần phẫu thuật thẩm mỹ để tạo âm đạo nhân tạo sau cuộc phẫu thuật này.

Xạ trị

Xạ trị là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng tia X năng lượng cao hoặc các loại bức xạ khác để tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn không cho chúng phát triển. Có 2 loại xạ trị:

  • Xạ trị bên ngoài sử dụng một máy bên ngoài cơ thể để chiếu bức xạ về phía khối ung thư. Một số cách xạ trị nhất định có thể giúp ngăn bức xạ không làm tổn hại đến các mô khỏe mạnh lân cận. Loại xạ trị này bao gồm những loại sau đây:
    • Xạ trị điều biến cường độ (IMRT): IMRT là một loại xạ trị 3 chiều (3-D) sử dụng máy tính để tạo ra hình ảnh về kích thước và hình dạng của khối u. Các chùm bức xạ mỏng có cường độ khác nhau nhằm vào khối u từ nhiều góc độ.
  • Xạ trị bên trong sử dụng một chất phóng xạ được đặt trong kim tiêm, hoặc ống thông, sau đó được đặt trực tiếp vào hoặc gần khối ung thư.

Cách thức xạ trị được thực hiện tùy thuộc vào loại và giai đoạn của bệnh ung thư được điều trị. Xạ trị bên ngoài và bên trong được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung và cũng có thể được sử dụng như liệu pháp giảm nhẹ để làm giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Hóa trị liệu

Hóa trị là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng thuốc để ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, bằng cách giết chết tế bào hoặc ngăn chúng phân chia. Khi hóa trị liệu được thực hiện bằng đường uống hoặc tiêm vào tĩnh mạch hoặc cơ, thuốc sẽ đi vào máu và có thể tiếp cận các tế bào ung thư khắp cơ thể (hóa trị toàn thân). Khi hóa trị liệu được đặt trực tiếp vào dịch não tủy, một cơ quan hoặc khoang cơ thể như bụng, thuốc chủ yếu ảnh hưởng đến các tế bào ung thư ở những khu vực đó (hóa trị vùng). Cách thức hóa trị được thực hiện tùy thuộc vào loại và giai đoạn ung thư được điều trị.

Liệu pháp nhắm mục tiêu

Liệu pháp nhắm mục tiêu là một loại điều trị sử dụng thuốc hoặc các chất khác để xác định và tấn công các tế bào ung thư cụ thể mà không gây hại cho các tế bào bình thường.

Liệu pháp kháng thể đơn dòng là một loại liệu pháp nhắm mục tiêu sử dụng các kháng thể được tạo ra trong phòng thí nghiệm từ một loại tế bào của hệ thống miễn dịch. Các kháng thể này có thể xác định các chất trên tế bào ung thư hoặc các chất bình thường có thể giúp tế bào ung thư phát triển. Các kháng thể gắn vào các chất này và tiêu diệt các tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển của chúng hoặc ngăn chúng lây lan. Kháng thể đơn dòng được sử dụng bằng cách tiêm truyền. Chúng có thể được sử dụng một mình hoặc mang thuốc, chất độc hoặc chất phóng xạ trực tiếp đến các tế bào ung thư.

Bevacizumab là một kháng thể đơn dòng liên kết với một protein được gọi là yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) và có thể ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu mới mà khối u cần phát triển. Bevacizumab được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung đã di căn và ung thư cổ tử cung tái phát.

Liệu pháp miễn dịch

Liệu pháp miễn dịch là một phương pháp điều trị sử dụng hệ thống miễn dịch của người bệnh để chống lại ung thư. Các chất do cơ thể tạo ra hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm được sử dụng để thúc đẩy, chỉ đạo hoặc khôi phục khả năng phòng thủ tự nhiên của cơ thể chống lại bệnh ung thư.

Chất ức chế điểm kiểm tra miễn dịch. Các protein điểm kiểm soát, chẳng hạn như PD-L1 trên tế bào khối u và PD-1 trên tế bào T, giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch. Sự liên kết của PD-L1 với PD-1 ngăn các tế bào T giết chết các tế bào khối u trong cơ thể (bảng bên trái). Việc ngăn chặn sự liên kết của PD-L1 với PD-1 bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (chống PD-L1 hoặc chống PD-1) cho phép tế bào T tiêu diệt tế bào khối u (bảng bên phải).Chất ức chế điểm kiểm tra miễn dịch. Các protein điểm kiểm soát, chẳng hạn như PD-L1 trên tế bào khối u và PD-1 trên tế bào T, giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch. Sự liên kết của PD-L1 với PD-1 ngăn các tế bào T giết chết các tế bào khối u trong cơ thể (bảng bên trái). Việc ngăn chặn sự liên kết của PD-L1 với PD-1 bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (chống PD-L1 hoặc chống PD-1) cho phép tế bào T tiêu diệt tế bào khối u (bảng bên phải).

 

Liệu pháp ức chế điểm kiểm tra miễn dịch là một loại liệu pháp miễn dịch.

  • Liệu pháp ức chế điểm kiểm tra miễn dịch: PD-1 là một protein trên bề mặt tế bào T giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch của cơ thể. Khi PD-1 gắn vào một protein khác gọi là PDL-1 trên tế bào ung thư, nó sẽ ngăn tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Chất ức chế PD-1 gắn vào PDL-1 và cho phép tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Pembrolizumab là một loại chất ức chế điểm kiểm tra miễn dịch được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung tái phát.

Điều trị ung thư cổ tử cung có thể gây ra tác dụng phụ.

Các tác dụng phụ khi điều trị ung thư cổ tử cung cũng giống như khi điều trị các loại ung thư khác:

  • Thiếu máu
  • Mất cảm giác ngon miệng
  • Chảy máu và bầm tím (Giảm tiểu cầu)
  • Táo bón
  • Mê sảng
  • Tiêu chảy
  • Phù 
  • Mệt mỏi
  • Các vấn đề về khả năng sinh sản 
  • Các triệu chứng giống như cúm
  • Rụng tóc 
  • Nhiễm trùng và giảm bạch cầu trung tính
  • Phù bạch huyết
  • Các vấn đề về trí nhớ hoặc sự tập trung
  • Các vấn đề về miệng và cổ họng
  • Buồn nôn và ói mửa
  • Các vấn đề về thần kinh (Bệnh thần kinh ngoại biên)
  • Liệu pháp miễn dịch và chứng viêm liên quan đến nội tạng
  • Đau
  • Các vấn đề sức khỏe tình dục 
  • Những thay đổi về da và móng
  • Các vấn đề về giấc ngủ 
  • Các vấn đề về tiết niệu và bàng quang

Các xét nghiệm theo dõi có thể cần thiết.

Một số xét nghiệm đã được thực hiện để chẩn đoán ung thư hoặc để tìm ra giai đoạn ung thư có thể được thực hiện lại. Một số xét nghiệm sẽ được lặp lại để xem việc điều trị có đáp ứng không. Quyết định về việc tiếp tục, thay đổi hoặc ngừng điều trị có thể dựa trên kết quả của các xét nghiệm này.

Một số xét nghiệm sẽ tiếp tục được thực hiện theo thời gian sau khi điều trị kết thúc. Kết quả của các xét nghiệm này có thể cho biết tình trạng của bạn có thay đổi hay không hoặc ung thư có tái phát hay không. 

Bác sĩ sẽ hỏi nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào sau đây, có thể có nghĩa là ung thư đã tái phát:

  • Đau ở bụng, lưng hoặc chân.
  •  Phù ở chân.
  • Khó đi tiểu.
  • Ho.
  • Cảm thấy mệt.

Đối với ung thư cổ tử cung, các xét nghiệm theo dõi thường được thực hiện 3 đến 4 tháng một lần trong 2 năm đầu tiên, sau đó là kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần. Việc kiểm tra bao gồm khai thác tình trạng sức khỏe hiện tại và kiểm tra cơ thể để kiểm tra các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư cổ tử cung tái phát và các biến chứng muộn của việc điều trị.

Thông tin chung về ung thư cổ tử cung khi mang thai

Điều trị ung thư cổ tử cung khi mang thai phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư và người bệnh đã mang thai được bao lâu. Sinh thiết và chụp kiểm tra có thể được thực hiện để xác định giai đoạn của bệnh. Để tránh cho thai nhi tiếp xúc với bức xạ, MRI (chụp cộng hưởng từ) được sử dụng.

Các lựa chọn điều trị ung thư cổ tử cung khi mang thai

Để biết thông tin về các phương pháp điều trị được liệt kê bên dưới, hãy xem phần Tổng quan về biện pháp điều trị.

Ung thư biểu mô tại chỗ trong thời kỳ mang thai

Thông thường, không cần điều trị ung thư biểu mô tại chỗ trong thai kỳ. Soi cổ tử cung có thể được thực hiện để kiểm tra ung thư xâm lấn hay chưa.

Ung thư cổ tử cung giai đoạn I khi mang thai

Phụ nữ mang thai bị ung thư cổ tử cung giai đoạn I phát triển chậm có thể trì hoãn điều trị cho đến quý thứ hai của thai kỳ hoặc sau khi sinh.

Phụ nữ mang thai bị ung thư cổ tử cung giai đoạn I phát triển nhanh có thể cần được điều trị ngay lập tức. Điều trị có thể bao gồm:

  • Khoét chóp cổ tử cung.
  • Cắt tử cung toàn bộ.

Người bệnh nên được xét nghiệm để tìm xem liệu ung thư đã di căn đến các hạch bạch huyết hay chưa. Nếu ung thư đã di căn đến các hạch bạch huyết, có thể cần điều trị ngay lập tức.

Ung thư cổ tử cung giai đoạn II, III và IV khi mang thai

Điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn II, giai đoạn III và giai đoạn IV trong thời kỳ mang thai có thể bao gồm:

  • Hóa trị để thu nhỏ khối u trong quý hai hoặc quý ba của thai kỳ. Phẫu thuật hoặc xạ trị có thể được thực hiện sau khi sinh.
  • Xạ trị cộng với hóa trị. Trao đổi với bác sĩ về ảnh hưởng của bức xạ đối với thai nhi. Có thể cần phải kết thúc thai kỳ trước khi bắt đầu điều trị.

Xem thêm:

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!