Bệnh uốn ván: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do vi khuẩn Clostridium tetani gây ra. Loại vi khuẩn này tiết ra một loại độc tố ảnh hưởng đến não và hệ thần kinh, dẫn đến tình trạng co cứng các cơ.

Nếu các bào tử Clostridium tetani đọng lại ở vết thương, chất độc thần kinh do chúng tiết ra sẽ làm cản trở các dây thần kinh điều khiển hoạt động cơ bắp.

Video Làm sao phòng ngừa uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh và uốn ván ở trẻ em?

Nhiễm trùng có thể gây co cứng cơ nghiêm trọng, suy hô hấp và cuối cùng có thể gây tử vong. Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị uốn ván nhưng vẫn chưa có hiệu quả đồng nhất. Cách tốt nhất để phòng bệnh uốn ván là tiêm phòng uốn ván.

Bệnh uốn ván là gì?

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn tồn tại trong đất, phân và các tác nhân môi trường khác. Những vết thương do vật bẩn gây ra có thể bị nhiễm trùng, có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể và gây tử vong. 

Tại Hoa Kỳ, có khoảng 30 trường hợp mắc uốn ván mỗi năm. Hầu hết các trường hợp là những người chưa được tiêm phòng uốn ván hoặc chưa tiêm phòng nhắc lại định kỳ 10 năm một lần.

Uốn ván là một bệnh cấp cứu. Bệnh nhân cần được chăm sóc vết thương vết thương kỹ lưỡng và sử dụng thuốc kháng sinh.

Triệu chứng uốn ván

Vết thương cần được làm sạch kỹ lưỡng để tránh nhiễm trùng.  Nguồn ảnh: https://www.pinterest.comVết thương cần được làm sạch kỹ lưỡng để tránh nhiễm trùng.Nguồn ảnh: https://www.pinterest.comCác triệu chứng uốn ván thường xuất hiện sau nhiễm trùng ban đầu khoảng 7 đến 10 ngày. Tuy nhiên, thời gian này có thể thay đổi từ 4 ngày đến khoảng 3 tuần, và trong một số trường hợp, có thể mất vài tháng.

Nói chung, vị trí tổn thương càng xa hệ thần kinh trung ương thì thời gian ủ bệnh càng dài. Những bệnh nhân có thời gian ủ bệnh ngắn hơn thường có các triệu chứng nghiêm trọng hơn. Các triệu chứng về cơ bao gồm co thắt cơ và cứng cơ. Co cứng thường bắt đầu từ các cơ nhai, do đó uốn ván có tên khác là cứng hàm. Sau đó co thắt cơ lan đến các cơ cổ và hầu họng, gây nuốt khó. Bệnh nhân thường bị co cứng các cơ mặt.

Khó thở có thể do co cứng các cơ cổ và ngực. Ở một số người, cơ bụng và cơ tay chân cũng bị ảnh hưởng.

Trong một số trường hợp nặng, cột sống sẽ cong về phía sau do các cơ ở lưng bị ảnh hưởng. Trường hợp này thường gặp ở trẻ em hơn.

Một số triệu chứng có thể gặp ở bệnh nhân uốn ván bao gồm:

Điều trị uốn ván

Bất kỳ vết cắt hoặc vết thương nào cũng phải làm sạch kỹ lưỡng để tránh nhiễm trùng. Vết thương do uốn ván cần được xử lý và điều trị ngay lập tức.

Vết thương có nguy cơ tiến triển thành bệnh uốn ván:

  • Vết thương hoặc vết bỏng cần can thiệp phẫu thuật bị trì hoãn hơn 6 giờ
  • Vết thương hoặc vết bỏng bị mất một lượng lớn tổ chức
  • Bất kỳ vết đâm nào có tiếp xúc với phân hoặc đất
  • Gãy xương phức tạp mà nơi gãy có nguy cơ tiếp xúc với các chất bẩn, chẳng hạn như gãy xương hở
  • Vết thương hoặc vết bỏng ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết.

Bất kỳ bệnh nhân nào có vết thương được liệt kê ở trên cần được tiêm globulin miễn dịch chống uốn ván (TIG) càng sớm càng tốt, ngay cả khi họ đã được tiêm phòng. Globulin miễn dịch chống uốn ván chứa các kháng thể tiêu diệt Clostridium tetani. Nó được tiêm vào tĩnh mạch và tạo miễn dịch ngắn hạn chống lại bệnh uốn ván ngay lập tức sau tiêm.

TIG chỉ có tác dụng ngắn hạn và không thay thế các tác dụng lâu dài của việc tiêm chủng. Các chuyên gia cho rằng TIG có thể an toàn khi sử dụng cho các bà mẹ mang thai và cho con bú.

Các bác sĩ có thể kê đơn penicillin hoặc metronidazole để điều trị uốn ván. Những loại thuốc kháng sinh này ngăn không cho vi khuẩn nhân lên và tiết ra chất độc thần kinh gây triệu chứng co thắt và cứng cơ. Những bệnh nhân bị dị ứng với penicillin hoặc metronidazole có thể được dùng tetracycline thay thế.

Trong điều trị co thắt và cứng cơ, bệnh nhân có thể được chỉ định:

  • Thuốc chống co giật, như diazepam (Valium), có tác dụng giãn cơ để ngăn ngừa co thắt, giảm lo lắng và có tác dụng như một loại thuốc an thần.
  • Thuốc giãn cơ, như baclofen, ngăn chặn các tín hiệu thần kinh từ não đến tủy sống, giúp các cơ ít bị căng cứng hơn.
  • Các thuốc chẹn thần kinh cơ ngăn chặn các tín hiệu từ dây thần kinh đến các sợi cơ và giúp kiểm soát sự co thắt cơ, bao gồm pancuronium và vecuronium.

Phẫu thuật

Nếu bác sĩ cho rằng vết thương có nguy cơ uốn ván rất cao, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật để cắt lọc các cơ bị đụng dập và nhiễm trùng nhiều nhất có thể (cắt bỏ mô hoại tử). Cắt bỏ mô hoại tử là phẫu thuật loại bỏ các mô chết hoặc bị ô nhiễm, hoặc dị vật. Trong trường hợp vết thương bị uốn ván, dị vật có thể là chất bẩn hoặc phân.

Dinh dưỡng

Do các cơ tăng hoạt động nên các bệnh nhân bị uốn ván cần một lượng lớn calo hàng ngày.

Máy thở

Một số bệnh nhân có thể cần đến sự hỗ trợ của máy thở để hỗ trợ nếu dây thanh âm hoặc cơ hô hấp bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân gây uốn ván

Uốn ván do vi khuẩn Clostridium tetani gây ra. Bào tử clostridium tetani có khả năng tồn tại rất lâu bên ngoài cơ thể. Chúng thường được tìm thấy nhiều nhất trong phân động vật và đất bị ô nhiễm, nhưng có thể tồn tại hầu như ở bất cứ đâu.

Khi Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể, chúng nhân lên nhanh chóng và tiết ra tetanospasmin, một chất độc thần kinh. Khi tetanospasmin đi vào máu, nó sẽ nhanh chóng lan truyền khắp cơ thể, gây ra các triệu chứng uốn ván.

Tetanospasmin ngăn chặn các tín hiệu từ não đến các dây thần kinh trong tủy sống, và sau đó đến các cơ, gây ra co thắt và cứng cơ. Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua vết thương, vết cắt hoặc vết đâm thủng da. Làm sạch kỹ bất kỳ vết cắt nào giúp ngăn ngừa nhiễm trùng phát triển.

Những con đường lây truyền bệnh uốn ván thường gặp như:

  • Vết thương đã bị nhiễm nước bọt hoặc phân
  • Bỏng
  • Vết thương dập nát
  • Vết thương có các mô chết
  • Vết đâm

Một số con đường lây truyền bệnh uốn ván hiếm gặp như:

  • Phẫu thuật
  • Vết thương ngoài da
  • Côn trung cắn
  • Gãy xương hở
  • Sử dụng thuốc tiêm tĩnh mạch
  • Tiêm vào cơ
  • Nhiễm trùng răng miệng

Phòng bệnh uốn ván

Hầu hết các trường hợp uốn ván xảy ra ở những người chưa bao giờ tiêm vắc xin hoặc không tiêm nhắc lại trong vòng mười năm trở lại đây. 

Tiêm phòng

Vaccin phòng uốn ván thường được tiêm cho trẻ em là một thành phần của vaccine phòng bệnh bạch hầu, uốn ván và bệnh ho gà (DTaP).

Vaccin DTaP bao gồm năm mũi, thường được tiêm ở cánh tay hoặc đùi của trẻ em ở các độ tuổi:

  • 2 tháng
  • 4 tháng
  • 6 tháng
  • 15 đến 18 tháng
  • 4 đến 6 tuổi

Một mũi nhắc lại thường được tiêm trong khoảng 11 đến 18 tuổi, sau đó tiêm nhắc lại sau mỗi 10 năm một lần. Nếu một người đi du lịch đến một khu vực thường xảy ra bệnh uốn ván thì họ nên tham khảo ý kiến bác sĩ về vấn đề tiêm phòng.

Tôi có cần tiêm phòng uốn ván không?

Bất cứ ai bị vết thương sâu hoặc bẩn và chưa tiêm mũi nhắc lại trong vòng 5 năm qua nên tiêm nhắc lại.

Nếu bệnh nhân trong tình huống này cũng có thể tiêm globulin miễn dịch chống uốn ván có tác dụng ngăn ngừa nhiễm trùng. Điều quan trọng là phải nhanh chóng đến các cơ sở y tế vì globulin miễn dịch chống uốn ván chỉ có tác dụng trong một thời gian ngắn sau khi bị thương.

Chẩn đoán

Ở nhiều nước, các bác sĩ bình thường có thể không bao giờ gặp bệnh nhân uốn ván. Do tiêm phòng uốn ván là một phần của chương trình tiêm chủng ở trẻ em và bệnh uốn ván rất hiếm gặp. Ví dụ, ở Hoa Kỳ vào năm 2009, chỉ có 19 trường hợp được báo cáo.

Bệnh nhân được chẩn đoán uốn ván càng sớm thì hiệu quả điều trị càng cao. Một bệnh nhân vừa có triệu chứng co cứng cơ và cứng người vừa có vết thương hoặc vết cắt thường được chẩn đoán nhanh chóng.

Chẩn đoán có thể lâu hơn ở những bệnh nhân tiêm chích ma túy vì họ thường mắc các bệnh lý khác. Những người bệnh này cần một số xét nghiệm máu để chẩn đoán xác định. Bất kỳ ai gặp phải tình trạng co thắt cơ và cứng cơ nên đi khám ngay lập tức.

Biến chứng của uốn ván

Nếu bệnh nhân không được điều trị, nguy cơ gặp các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng càng cao. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), hiện nay bệnh uốn ván có tỷ lệ tử vong khoảng 11%.

Các biến chứng bao gồm:

  • Gãy xương: Đôi khi, trong những trường hợp nặng, co thắt cơ và co giật có thể dẫn đến gãy xương.
  • Viêm phổi do hít: Nếu hít phải dịch tiết hoặc dịch, thức ăn trong dạ dày có thể gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới và dẫn đến viêm phổi.
  • Co thắt thanh quản: Thanh quản bị co thắt có thể kéo dài đến một phút và gây khó thở. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân có thể bị ngạt thở.
  • Co giật do uốn ván: Nếu nhiễm trùng lan đến não, người bệnh có thể xuất hiện các cơn giật.
  • Thuyên tắc động mạch phổi: Một mạch máu trong phổi có thể bị tắc nghẽn và ảnh hưởng đến hô hấp và tuần hoàn. Bệnh nhân cần điều trị cấp cứu bằng oxy và thuốc chống đông.
  • Suy thận nặng (suy thận cấp): Co thắt cơ nghiêm trọng có thể dẫn đến tiêu các cơ xương khiến các protein cơ rò rỉ vào nước tiểu. Điều này dẫn đến suy thận nặng.

Xem thêm:

Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!