Ung thư trực tràng và các yếu tố góp phần cải thiện tỷ lệ sống sót

Khi đối mặt với căn bệnh ung thư, không có gì có thể chắc chắn, con người luôn muốn tìm hiểu càng nhiều càng tốt về căn bệnh này và mọi thứ sau đó sẽ diễn ra như thế nào. Tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư trực tràng được trình bày ở đây sẽ giúp bạn hiểu được phần nào vấn đề đang gặp phải, nhưng điều quan trọng cần nhớ là tỷ lệ sống sót chỉ mang tính khái quát và cơ hội sống sót của từng cá nhân là khác nhau. Những con số này được thống kê dựa trên tỷ lệ sống sót trong quá khứ. Ví dụ, tỷ lệ sống sót sau 5 năm được ghi nhận vào năm 2017 sẽ áp dụng cho những người được chẩn đoán bắt đầu từ năm 2012 trở về trước. Do có các phương pháp điều trị mới trong vài năm qua, những tỷ lệ này có thể không phản ánh chính xác cho những bệnh nhân bị ung thư trực tràng hiện nay.

Video dấu hiệu sớm cảnh báo ung thư đại trực tràng?

Các yếu tố không thể thay đổi 

Dưới đây là một số yếu tố không thể thay đổi được, nhưng chính biến số đó có thể là một yếu tố tiên lượng của bệnh.

Nơi sống

Theo một nghiên cứu năm 2018 trên tạp chí ung thư dành cho bác sĩ lâm sàng, tỷ lệ sống của ung thư trực tràng thay đổi theo từng quốc gia. Trong khi tỷ lệ sống sót sau 5 năm tổng thể đối với ung thư trực tràng ở Mỹ là 67%,thì ở Châu Âu là 61%. Chất lượng chăm sóc y tế có thể là một yếu tố, nhưng yếu tố khác có thể là chương trình tầm soát ung thư đại trực tràng từng quốc gia. Nhìn chung, ung thư trực tràng càng được phát hiện sớm thì càng có khả năng điều trị cao. 

Giai đoạn bệnh

Giai đoạn bệnh ở thời điểm chẩn đoán ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống sót và tuổi thọ trung bình của người bệnh ung thư trực tràng, nhưng một lần nữa, hãy nhớ rằng một số biến số khác cũng góp phần trong tỷ lệ sống này. 

Chủng tộc và giới tính

Nhìn chung, tỷ lệ sống sót của người Mỹ gốc Phi mắc bệnh ung thư trực tràng thấp hơn so với người da trắng.

Giới tính là một yếu tố khác trong tỷ lệ sống sót của bệnh ung thư trực tràng. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, không giống như nhiều loại ung thư khác, phụ nữ có xu hướng có tỷ lệ sống sót sau ung thư trực tràng thấp hơn nam giới. 

Các dấu ấn khối u (marker ung thư)

Các xét nghiệm phát hiện chất chỉ điểm khối u trong máu có thể cung cấp thông tin tốt hơn về tiên lượng ung thư trực tràng. Việc xác định các dấu ấn này có thể sẽ giúp tiên lượng sống còn tốt hơn và giúp hướng tới và các loại điều trị cho bệnh ung thư riêng lẻ. 

Các yếu tố có thể thay đổi

Các yếu tố chúng ta đã thảo luận cho đến nay hầu hết nằm ngoài tầm kiểm soát của người bệnh. Nơi bạn sống, quá trình bạn lớn lên có thể cũng góp phần vào sự hình thành nên ung thư. Vậy bạn có thể làm gì để cải thiện cơ hội sống? Nếu bạn điều chỉnh, thay đổi được các yếu tố sau đây, không những giúp bạn đối phó với bệnh ung thư mà còn có thể cải thiện ít nhiều hiệu quả điều trị của mình. 

Tập thể dục

Các nhà nghiên cứu tại viện ung thư Dana-Farber ở Boston phát hiện ra rằng tập thể dục mức độ hợp lý có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Hãy tìm hiểu thêm về tác động của tập thể dục đối với sự sống còn của bệnh nhân ung thư đại trực tràng.

Thể dục vừa sức là một yếu tố góp phần cải thiện tỷ lệ sống sau chẩn đoán ung thư trực tràng. Nguồn ảnh: https://www.eatthis.com/ Thể dục vừa sức là một yếu tố góp phần cải thiện tỷ lệ sống sau chẩn đoán ung thư trực tràng. Nguồn ảnh: https://www.eatthis.com/ 

Bảo hiểm y tế

Những người có bảo hiểm y tế nói chung có xu hướng có kết quả điều trị tốt hơn những người không có bảo hiểm, một phần vì những người không có bảo hiểm bị hạn chế về việc nhận được chăm sóc sức khỏe dự phòng và có thể không tiếp cận được những dịch vụ chăm sóc y tế cần thiết cho các vấn đề sức khỏe lớn vì chi phí - không được bảo hiểm hỗ trợ. Đây không phải là một yếu tố có thể thay đổi theo phạm vi bảo hiểm khi bắt đầu, nhưng những bệnh nhân không có bảo hiểm hoặc không được bảo hiểm hỗ trợ chi trả trong quá trình điều trị nên cân nhắc các lựa chọn. Nhân viên xã hội của trung tâm ung thư có thể là một nguồn hỗ trợ đắc lực giúp bệnh nhân ung thư có những lựa chọn thích hợp nhất. 

Aspirin

Một số nghiên cứu cho thấy rằng dùng aspirin làm tăng tỷ lệ sống sót của ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, người bệnh cần tham khảo ý kiến của bác sĩ vì đôi khi aspirin lại cản trở kế hoạch điều trị ung thư. 

Vitamin D

Cũng như aspirin, một số nghiên cứu cho thấy rằng vitamin D có thể đóng một vai trò trong việc tăng khả năng sống sót của bệnh ung thư đại trực tràng. Thêm vào đó, thực tế là hầu hết người Mỹ đều thiếu vitamin D. Các bác sĩ có thể chỉ định xét nghiệm máu đơn giản để đánh giá tình trạng thiếu vitamin D của người bệnh và kê đơn vitamin D3   nếu cần thiết. Luôn tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị trước khi dùng bất cứ thuốc, thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh nào. Đôi khi, một số chế phẩm vitamin và khoáng chất có thể gây trở ngại cho việc điều trị ung thư. 

Chương trình hỗ trợ cộng đồng

Mặc dù không được nghiên cứu riêng với những bệnh nhân ung thư trực tràng, nhưng người ta đã phát hiện ra rằng những người bị ung thư phổi giai đoạn cuối có xu hướng sống lâu hơn đáng kể khi họ nhận nhiều hỗ trợ xã hội hơn. Hãy nhớ rằng bạn có thể nhận được sự hỗ trợ bất cứ đâu, ngay cả khi bạn quá yếu không thể rời khỏi nhà. Nhiều cộng đồng hỗ trợ người bệnh ung thư trực tràng trực tuyến không chỉ cung cấp những hỗ trợ về mặt chuyên môn mà còn cho phép người bệnh trò chuyện với những người cùng hoàn cảnh.  

Huyết khối

Huyết khối tĩnh mạch sâu như tĩnh mạch ở chân, có thể nứt vỡ ra và di chuyển đến phổi gây thuyên tắc phổi, là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong cho những người bệnh ung thư. Hãy tìm hiểu về các triệu chứng của huyết khối cũng như những gì bạn có thể làm để giảm nguy cơ hình thành huyết khối do ung thư .

Các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ lệ sống trong ung thư trực tràng

Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư đại trực tràng như:

  • Độ tuổi: Nói chung, những người trẻ tuổi có tiên lượng tốt hơn những người lớn tuổi - mặc dù điều này có thể có hai mặt. Bởi vì những người trẻ hơn có thể có khuynh hướng di truyền và do đó khối u có thể ác tính hơn, nhưng thể trạng của họ có thể tốt hơn và do đó họ có thể chịu đựng được những kế hoạch điều trị tích cực nhất.
  • Thể trạng của người bệnh: thể trạng người bệnh là một khía cạnh để đánh giá xem liệu một bệnh nhân có thể hoạt động, sinh hoạt hàng ngày bình thường không. Yếu tố này thường dùng để đánh giá xem người bệnh có đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng hay không, ngoài ra bác sĩ cũng xem thể trạng người bệnh như một yếu tố tiên lượng.
  • Sức khỏe tổng thể của người bệnh: tình trạng sức khỏe người bệnh ngoài việc quyết định phương pháp điều trị thích hợp với khả năng chịu đựng của họ, còn có thể ảnh hưởng đến khả năng tập thể dục-một thói quen có thể thay đổi giúp cải thiện khả năng tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư.
  • Các phương pháp điều trị và mức độ đáp ứng với điều trị.
  • Typ ung thư và mức độ ác tính của ung thư trực tràng.
  • Thủng hoặc tắc ruột do ung thư: làm giảm tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư. 

Thống kê không phải là dự đoán

Ngay cả khi tính đến tất cả các yếu tố trên, rất khó để biết chắc thời gian sống của một bệnh nhân ung thư trực tràng.

Số liệu thống kê có thể đưa ra giá trị trung bình, nhưng con người không phải là con số. Nhìn chung, các số liệu thống kê cho chúng ta biết bệnh nhân đã chống chọi với ung thư đại trực tràng như thế nào trong những năm trước đó. Số liệu thống kê toàn diện gần đây nhất mà các nhà khoa học có được thường là bốn hoặc năm năm, nhưng trong thời gian đó, y học không ngừng tiến bộ và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong điều trị ung thư. Về bản chất, tỷ lệ sống sót cho biết một người có chẩn đoán tương tự đáp ứng thế nào với một phương pháp điều trị tại thời điểm đó, nhưng kết quả của các phương pháp điều trị tân tiến, mới hơn lại không được chỉ ra. 

Số liệu thống kê về thời gian sống của bệnh nhân ung thư ruột đại trực tràng

Ung thư trực tràng thường liên quan đến ung thư đại tràng trong các thống kê về tỷ lệ sống sót của bệnh ung thư; tuy nhiên, chúng có tỷ lệ sống khác nhau.

Theo chương trình giám sát, dịch tễ học và kết quả cuối cùng (SEER) của Viện ung thư quốc gia, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của ung thư đại tràng theo từng giai đoạn (dựa trên những người được chẩn đoán từ năm 2009 đến 2015) là:

  • Giới hạn: 90%
  • Vùng: 71%,
  • Di căn xa: 14%
  •  Tất cả các giai đoạn kết hợp: 63%

Tỷ lệ sống sót sau năm năm đối với ung thư trực tràng của từng giai đoạn là:

  • Giới hạn: 89%
  • Vùng: 71%,
  • Di căn xa: 15%
  • Tất cả các giai đoạn được kết hợp: 67% 

Lưu ý rằng số liệu thống kê của SEER chỉ áp dụng cho giai đoạn của bệnh ung thư khi bệnh được chẩn đoán lần đầu tiên, không bao gồm ung thư phát triển, di căn hay tái phát sau khi điều trị. Cũng nên nhớ rằng tỷ lệ sống sót được phân nhóm dựa trên mức độ di căn của ung thư, nhưng tuổi tác, sức khỏe tổng thể, mức độ đáp ứng của bệnh nhân ung thư với điều trị và các yếu tố khác cũng sẽ ảnh hưởng đến tiên lượng của người bệnh. Và một lần nữa, hãy nhớ rằng những người hiện được chẩn đoán mắc bệnh ung thư đại trực tràng có thể có triển vọng tốt hơn những con số này, bởi vì các phương pháp điều trị không ngừng được cải thiện theo thời gian. 

Kết luận

Nhiều nghiên cứu chỉ ra nhiều yếu tố tác động đến tỷ lệ sống còn của bệnh nhân ung thư. Các phương pháp điều trị mới hơn đã được chấp thuận trong những năm gần đây và những phương pháp khác đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng. Các phương pháp điều trị trong các thử nghiệm lâm sàng phải được đánh giá kỹ càng trước khi đưa ra áp dụng cho người bệnh. Viện ung thư quốc gia khuyến cáo bệnh nhân nên cân nhắc lợi ích của việc tham gia thử nghiệm lâm sàng với tình trạng bệnh hiện tại. Có nhiều lầm tưởng về các thử nghiệm lâm sàng, nhưng sự thật là nhiều phương pháp điều trị tốt nhất trong 5 năm tới có thể lại có trong chính những lâm sàng thử nghiệm hiện nay.

Xem thêm:

Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!