Video Làm sao phát hiện sớm ung thư đại trực tràng?
Ung thư trực tràng giai đoạn IV đã di căn nhiều nơi
Ở một số bệnh nhân, tế bào ung thư chỉ di căn duy nhất tới một cơ quan và có thể điều trị triệt để khối di căn. Tuy nhiên phần lớn bệnh nhân ung thư trực tràng giai đoạn IV, ung thư đã lan rộng và di căn tới nhiều vị trí hơn do đó phẫu thuật không thể loại bỏ hoàn toàn được.
Nếu ung thư đã di căn nhưng không gây ra triệu chứng, phương pháp điều trị có thể bao gồm hóa trị, thuốc điều trị đích và liệu pháp miễn dịch hoặc phối hợp các phương pháp, thường xác định dựa vào xét nghiệm dấu ấn sinh học - gen của ung thư. Một số cá nhân chỉ được điều trị bằng liệu pháp nhắm đích hoặc liệu pháp miễn dịch mà không hóa trị đồng thời. Những bệnh nhân bị ung thư đã di căn đến một hoặc hai cơ quan cũng có thể được điều trị bằng phẫu thuật hoặc xạ trị trực tiếp những cơ quan bị di căn đó. Việc lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp điều trị dựa trên:
- Kiểm tra dấu ấn sinh học gen
- Vị trí của ung thư nguyên phát
- Lựa chọn của bệnh nhân.
Hóa trị dùng fluorouracil (5-FU)
Đây là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư trực tràng giai đoạn IV không có đột biến gen ung thư – cơ sở để áp dụng liệu pháp nhắm đích. 5-FU thường được sử dụng kết hợp với leucovorin (LV) - một loại thuốc có cấu trúc và chức năng tương tự như acid folic thiết yếu cho cơ thể. Leucovorin làm tăng cường tác dụng chống ung thư của fluorouracil bằng cách tăng sự liên kết và kéo dài thời gian thuốc trong tế bào hơn, giúp kéo dài tác dụng chống ung thư hơn. Việc bổ sung các loại thuốc khác vào phác đồ 5-FU / LV và phát hiện ra giải pháp thay thế bằng đường uống đã mang lại lợi ích cho người bệnh nhiều hơn so với khi dùng riêng 5-FU đơn độc hay các hóa trị liệu tiêu chuẩn trong ung thư đại trực tràng giai đoạn tiến triển – áp dụng với những bệnh nhân ung thư không đột biến gen. Một số phác đồ hiện nay dùng như:
- FOLFOX (LV / 5-fluorouracil + Eloxatin (oxaliplatin)
- CAPEOX (Xeloda (capecitabine) + Eloxatin)
- FOLFIRI (LV / 5-fluorouracil + Camptosar (irinotecan)
- FOLFOXIRI (LV / 5-fluorouracil + Camptosar + Eloxatin)
Các phác đồ điều trị này thường được kết hợp với Avastin® (bevacizumab) và là phương pháp điều trị ban đầu tiêu chuẩn cho hầu hết bệnh nhân, giúp cải thiện khả năng sống sót. Các phác đồ này có thể gây ra tác dụng phụ như tiêu chảy, mệt mỏi và tổn thương thần kinh.
Liệu pháp nhắm đích
Các đột biến di truyền được xác định trong ung thư trực tràng được điều trị bằng liệu pháp nhắm đích. Không phải tất cả các tế bào ung thư trực tràng đều giống nhau, chúng có thể có những đột biến gen khác nhau. Xét nghiệm di truyền nên được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân ung thư trực tràng để đánh giá các đột biến gen. Thông qua việc tìm các dấu ấn sinh học đặc trưng của từng gen đột biến, các bác sĩ có thể chỉ định liệu pháp nhắm đích điều trị ung thư – cá nhân hóa cho từng bệnh nhân. Các đột biến ung thư trực tràng đang được nghiên cứu và xác định, đồng thời phát triển các loại thuốc mới nhắm trúng mục tiêu đánh vào các đột biến đó.
Các thuốc điều trị trong liệu pháp nhắm đích
- Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì
(EGFR) xuất hiện trong ung thư trực tràng và có thể được điều trị nhắm đích bằng Erbitux® (cetuximab) và Vectibix (panitumumab) - kháng thể đơn dòng hoạt động bằng cách liên kết với EGFR và khi kết hợp với hóa trị liệu có thể cải thiện kết quả ở những bệnh nhân dương tính với EGFR và không có đột biến RAS.
- BRAFV600
Bệnh nhân mang gen BRAF đột biến trước đây có tiên lượng kém hơn. Nhưng với sự phát triển của các loại thuốc điều trị ung thư nhắm vào đột biến V600E BRAF, tiên lượng của những bệnh nhân trên được cải thiện đáng kể. Điều trị kết hợp các loại thuốc nhắm đích đã được chứng minh là giúp tăng gấp 2 lần thời gian sống cho những bệnh nhân bị ung thư tái phát. Các bác sĩ hiện đang đánh giá việc sử dụng các thuốc nhắm mục tiêu như điều trị ban đầu cho các trường hợp ung thư có đột biến BRAF.
- Mất ổn định vi vệ tinh (MSI-H)
MSI-H là một bất thường DNA được tìm thấy trong một số bệnh nhân ung thư trực tràng, thấy nhiều nhất trong các khối u liên quan đến hội chứng di truyền như hội chứng Lynch. Thể này có thể được điều trị hiệu quả hơn bằng các liệu pháp miễn dịch nhắm đích - "ức chế chốt kiểm soát". Keytruda và Opdivo đều đã được chứng minh là cải thiện điều trị những bệnh nhân MSI-High.
- HER 2
Các liệu pháp nhắm mục tiêu yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER 2) có thể cải thiện đáng kể kết quả trong điều trị ung thư trực tràng. Tất cả các bệnh nhân ung thư trực tràng nên được xét nghiệm HER 2 tại thời điểm chẩn đoán. Điều này rất quan trọng vì những bệnh nhân bộc lộ HER2 quá mức không cải thiện kết quả khi điều trị bằng các chất ức chế EGFR thường sử dụng hiện nay, do đó nên tránh dùng những loại thuốc này. Bệnh nhân có thể được hưởng lợi khi điều trị bằng một trong một số cách kết hợp thuốc điều trị ung thư nhắm mục tiêu khác nhau nhắm vào HER2 như Herceptin (trastuzumab), Tykerb (lapatinib) và Tucatinib.
- NTRK
Thụ thể kinase tropomyosin thần kinh (gen NTRK, mã hóa cho thụ thể kinase tropomyosin thần kinh có thể kết hợp một cách bất thường với các gen khác, kích hoạt tín hiệu tăng trưởng dẫn đến sự phát triển tế bào ung thư . Chính do cơ chế này mà ung thư có đột biến gen NTRK được điều trị bằng các loại thuốc nhắm đích.
Các đột biến thúc đẩy ung thư và các dấu ấn sinh học được ứng dụng trong phát triển thuốc điều trị ung thư nhắm đích- đang được liên tục xác định và kết hợp vào bảng xét nghiệm bộ gen. Tất cả bệnh nhân nên được bác sĩ tư vấn về vai trò của xét nghiệm dấu ấn sinh học bộ gen trong điều trị ung thư.
Điều trị ung thư trực tràng di căn một cơ quan duy nhất
Ung thư trực tràng có thể di căn đến gan, phổi hoặc các vị trí khác trong cơ thể. Khi ung thư chỉ di căn đến một cơ quan duy nhất, chẳng hạn như gan hoặc phổi, bệnh nhân có thể được điều trị cục bộ tại vị trí di căn duy nhất đó mà bệnh vẫn có khả năng chữa khỏi.
Bệnh nhân ung thư trực tràng di căn ở một cơ quan duy nhất có thể được chữa khỏi nếu khối u nguyên phát ở trực tràng và khối di căn được phẫu thuật cắt bỏ triệt để. Trước hết, điều trị bắt đầu bằng liệu pháp toàn thân như hóa trị, xạ trị, hóa trị liệu,...Nếu ung thư ở trực tràng đáp ứng với điều trị và giảm kích thước thì có thể cân nhắc phẫu thuật cắt bỏ khối u vào thời điểm đó.
Ung thư di căn gan
- Phẫu thuật
Vị trí di căn phổ biến nhất của ung thư trực tràng là gan. Khi có thể phẫu thuật để loại bỏ hoàn toàn khối di căn ở gan thì phẫu thuật là phương pháp điều trị ưu tiên. Một số bệnh nhân có thể phẫu thuật cắt bỏ u ở cả gan và trực tràng trong một ca phẫu thuật, những bệnh nhâ khác có thể tiến hành hai ca phẫu thuật: một để lấy bỏ khối u trực tràng và một để loại bỏ khối di căn tại gan.
- Hóa trị hoặc hóa xạ trịkết hợp
Phương pháp này có thể được sử dụng trước và / hoặc sau khi phẫu thuật. Mặc dù phẫu thuật mang lại cơ hội chữa khỏi cho một số bệnh nhân, nhưng phần lớn bệnh nhân di căn gan không phải là đối tượng để phẫu thuật do phụ thuộc vào kích thước, vị trí của khối u hoặc thể trạng bệnh nhân. Những bệnh nhân này có thể được phẫu thuật nếu điều trị ban đầu đường toàn thân làm thu nhỏ các khối u đủ cho phép phẫu thuật cắt bỏ triệt để.
- Các phương pháp khác
Nếu các khối u sau điều trị toàn thân không có khả năng loại bỏ bằng phẫu thuật, các liệu pháp điều trị khác có thể được xem xét như đốt sóng cao tần (sử dụng nhiệt để tiêu diệt tế bào ung thư), áp lạnh (sử dụng lạnh để tiêu diệt tế bào ung thư), tiêm hóa chất trực tiếp vào gan và xạ trị. Có tương đối ít thông tin từ các thử nghiệm lâm sàng về rủi ro và lợi ích của các phương pháp điều trị trên này nhưng chúng có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân được chọn.
Trong khi một số tiến bộ đã đạt được trong điều trị ung thư trực tràng giai đoạn IV, nhiều bệnh nhân vẫn không chống chọi được với bệnh ung thư và rõ ràng cần có các chiến lược điều trị tốt hơn. Tiến hành các thử nghiệm lâm sàng thích hợp có thể là bước tiến trong tương lai về điều trị ung thư trực tràng. Hiện nay, có một số lĩnh vực thăm dò tích cực nhằm cải thiện việc điều trị ung thư trực tràng như:
- Điều trị đích
Phương pháp này sử dụng các loại thuốc nhắm mục tiêu và liệu pháp miễn dịch có vai trò tấn công trực tiếp các tế bào ung thư trực tràng bị những đột biến nhất định mà không gây tổn thương các tế bào bình thường khác. Việc phát triển các loại thuốc điều trị nhắm đích trong ung thư trực tràng đang diễn ra và những loại thuốc mới này lần đầu tiên được sử dụng cho những bệnh nhân mắc bệnh ung thư tái phát và sau khi được chứng minh hiệu quả, chúng sẽ được đưa ra sử dụng sau khi thông qua các thử nghiệm lâm sàng để điều trị bệnh ở giai đoạn trước. Tất cả bệnh nhân sử dụng liệu pháp nhắm đích cần được phân tích gen nhằm phát hiện đột biến liên quan tới ung thư trực tràng. Xác định gen đột biến có thể thực hiện một mẫu mô hoặc máu - bằng cách sử dụng "sinh thiết lỏng" - nếu mô không có sẵn.
- Các phương pháp tiếp cận mới để điều trị di căn gan
Các nhà khoa học tiếp tục khám phá ra những phương pháp mới để điều trị ung thư trực tràng di căn gan. Một phương pháp mới đang được nghiên cứu là tắc mạch phóng xạ. Chiến lược này sử dụng các vi cầu phóng xạ tiêm vào hệ thống mạch máu của gan - nơi cung cấp máu và nuôi dưỡng các tế bào ung thư. Khi được đặt tại chỗ, chất phóng xạ tự phát ra bức xạ đến vùng ung thư xung quanh đồng thời hạn chế tối đa ảnh hưởng tới các phần khỏe mạnh khác của gan.
Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu các giải pháp thay thế cho phương pháp đốt sóng cao tần để phá hủy các khối u gan, cũng như các phương pháp mới về hóa trị cho gan. Phát triển các phác đồ điều trị hóa trị đa thuốc mới kết hợp các liệu pháp chống ung thư mới hoặc bổ sung là một lĩnh vực nghiên cứu lâm sàng tích cực.
Xem thêm: