U não: Phân loại, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

U não, hay còn được gọi là u nội sọ, là một mô bất thường, trong đó các tế bào phát triển và nhân lên một cách không kiểm soát, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển bình thường của cơ thể. Hơn 150 loại u não khác nhau đã được ghi nhận, nhưng hai nhóm chính của u não là u não nguyên phát và u não di căn ( u não thứ phát).

Video U não - bệnh lý nguy hiểm

U não nguyên phát bao gồm các u bắt nguồn từ não hoặc từ nhu mô não. Các u nguyên phát được phân loại là u thần kinh đệm (bao gồm các tế bào thần kinh đệm) hoặc không thần kinh đệm (phát triển trên hoặc trong các cấu trúc của não, bao gồm dây thần kinh, mạch máu và các tuyến) và lành tính hoặc ác tính.

U não di căn bao gồm các u phát sinh ở những nơi khác trong cơ thể (chẳng hạn như vú hoặc phổi) và di căn đến não, thường là qua đường máu. U di căn được coi là ung thư và là u ác tính.

Cứ một trong bốn bệnh nhân ung thư sẽ bị u di căn não, tương đương ước tính khoảng 150.000 người mắc u di căn não mỗi năm. Có đến 40% những người bị ung thư phổi sẽ phát triển các u não di căn. Trước đây, kết quả của những bệnh nhân được chẩn đoán mắc các u này rất kém, với tỷ lệ sống sót điển hình chỉ vài tuần. Ngày càng nhiều thiết bị chẩn đoán tinh vi hơn, cùng với các phương pháp điều trị phẫu thuật và xạ trị, đã giúp tỷ lệ sống sót tăng lên mỗi năm, và cũng cho phép cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân sau khi chẩn đoán.

Phân loại u não

Các loại u não lành tính

  • U nguyên sống (chordoma) là những u lành tính, phát triển chậm, phổ biến nhất ở những người từ 50 đến 60 tuổi. Vị trí phổ biến nhất của chúng là mặt dốc xương đá và xương cùng. Mặc dù những u này là lành tính, chúng có thể xâm lấn vào xương bên cạnh và gây chèn ép lên các mô thần kinh gần đó. Đây là những u hiếm gặp, chỉ chiếm 0,2% tổng số u não nguyên phát.
  • U sọ hầu thường lành tính, nhưng là u khó phẫu thuật cắt bỏ vì vị trí của chúng gần các cấu trúc quan trọng sâu trong não. Chúng thường phát sinh từ vị trí gần cuống tuyến yên (tuyến nội tiết bài tiết nhiều hormone trong cơ thể), vì vậy gần như tất cả bệnh nhân sẽ được chỉ định một số liệu pháp thay thế hormone.
  • U tế bào hạch, u hạch thần kinh và u hạch thần kinh đệm giảm biệt hóa là những u hiếm gặp bao gồm các tế bào thần kinh tân sinh được biệt hóa tương đối tốt, chủ yếu xảy ra ở người trẻ.
  • U cuộn tĩnh mạch (glomus jugulare tumor) thường là lành tính và thường nằm ngay dưới nền sọ, ở đầu tĩnh mạch cảnh. Chúng là dạng phổ biến nhất của u cuộn mạch (glomus tumor). Tuy nhiên, các u cuộn mạch chỉ chiếm 0,6% các u ở đầu và cổ.
  • U màng não là những u nội sọ lành tính phổ biến nhất, chiếm 10 đến 15% trong tất cả các u não, mặc dù một tỷ lệ rất nhỏ là ác tính. Những u này bắt nguồn từ màng não, cấu trúc giống như màng bao quanh não và tủy sống.
  • U tuyến tùng là những tổn thương lành tính phát sinh từ các tế bào tuyến tùng, chủ yếu xảy ra ở người lớn. Chúng thường có ranh giới rõ ràng, không xâm lấn, đồng nhất và phát triển chậm.
  • U tuyến yên là những u nội sọ thường gặp nhất sau u thần kinh đệm, u màng não và u bao dây thần kinh (schwannoma). Phần lớn các u tuyến yên là lành tính và phát triển khá chậm. Ngay cả những u tuyến yên ác tính cũng hiếm khi di căn sang các bộ phận khác của cơ thể. U tuyến yên cho đến nay là bệnh phổ biến nhất ảnh hưởng đến tuyến yên. Chúng thường ảnh hưởng đến những người ở độ tuổi 30 hoặc 40, mặc dù chúng cũng gặp ở trẻ em. Hầu hết các u này có thể được điều trị thành công.
  • U bao dây thần kinh (schwannoma) là u não lành tính thường gặp ở người lớn. Chúng phát sinh dọc theo dây thần kinh, chúng nằm xung quanh các sợi trục tạo thành lớp vỏ cách điện của myelin trong lớp tế bào thần kinh. U dây thần kinh âm thanh là u bao dây thần kinh phổ biến nhất, phát sinh từ dây thần kinh sọ VIII, hay dây thần kinh tiền đình, đi từ não đến tai. Mặc dù những u này là lành tính, chúng có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và thậm chí tử vong nếu chúng phát triển và gây chèn ép các dây thần kinh và não. Các vị trí khác phát sinh u bao dây thần kinh bao gồm cột sống và hiếm hơn là dọc theo các dây thần kinh đi đến các chi.

Các loại u não ác tính

U thần kinh đệm là loại u não phổ biến nhất, chiếm 78% các u não ác tính. Chúng phát sinh từ các tế bào hỗ trợ của não, được gọi là tế bào thần kinh đệm. Những tế bào này được chia nhỏ thành tế bào hình sao, tế bào biểu mô nội tủy và tế bào thần kinh đệm ít gai. Các u thần kinh đệm bao gồm:

  • U tế bào hình sao là loại u thần kinh đệm phổ biến nhất, chiếm khoảng một nửa tổng số các u nguyên phát ở não và tủy sống. U tế bào hình sao phát triển từ các tế bào hình sao (tế bào thần kinh đệm có hình sao), một phần của mô nâng đỡ của não. Chúng có thể xuất hiện ở nhiều phần của não, nhưng phổ biến nhất là ở đại não. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc u tế bào hình sao, nhưng chúng phổ biến hơn ở người lớn - đặc biệt là đàn ông trung niên. Các u tế bào hình sao ở tiểu não phổ biến hơn ở trẻ em hoặc người trẻ và chiếm phần lớn các u não của trẻ em. Ở trẻ em, hầu hết các u này có độ ác tính thấp, trong khi ở người lớn, hầu hết là độ ác tính cao.
  • U màng não thất có nguồn gốc từ một sự biến đổi tân sinh của các tế bào đệm lót trong hệ thống não thất và chiếm từ 2-3 % của tất cả các u não. Hầu hết đều được xác định rõ ràng, nhưng một số thì không.
  • U nguyên bào thần kinh đệm đa hình thái (Glioblastoma multiforme-GBM) là loại u thần kinh đệm xâm lấn nhất. Các u này có xu hướng phát triển nhanh chóng, lây lan sang các mô khác và tiên lượng xấu. Chúng có thể bao gồm một số loại tế bào khác nhau, chẳng hạn như tế bào hình sao và tế bào thần kinh đệm ít gai. U nguyên bào thần kinh đệm đa hình thái phổ biến hơn ở những người từ 50 đến 70 tuổi và phổ biến hơn ở nam giới so với phụ nữ.
  • U nguyên bào tủy thường phát sinh trong tiểu não, thường gặp nhất ở trẻ em. Chúng là những u có độ ác tính cao, nhưng chúng thường đáp ứng với xạ trị và hóa trị.
  • U nguyên bào thần kinh đệm ít nhánh có nguồn gốc từ các tế bào tạo ra myelin, là chất cách điện cho hệ thống dẫn truyền thần kinh của não.

Các loại u não khác

  • U nguyên bào mạch máu là những u phát triển chậm, thường nằm ở tiểu não. Chúng bắt nguồn từ các mạch máu, có thể có kích thước lớn và thường đi kèm với u nang. Những u này phổ biến nhất ở những người từ 40 đến 60 tuổi và phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ.
  • U hình que điển hình (Rhabdoid tumor) là những u hiếm gặp, độ ác tính cao và có xu hướng di căn khắp hệ thống thần kinh trung ương. Chúng thường xuất hiện ở nhiều vị trí trên cơ thể, đặc biệt là ở thận. Chúng phổ biến hơn ở trẻ nhỏ, nhưng cũng có thể xảy ra ở người lớn.

U não ở trẻ em

Các u não ở trẻ em thường xuất phát từ các mô khác với những u tương tự ở người lớn. Các phương pháp điều trị đáp ứng khá tốt ở người lớn (chẳng hạn như xạ trị) nhưng có thể ngăn cản sự phát triển bình thường của não trẻ em, đặc biệt là ở trẻ em dưới 5 tuổi.

Theo Hiệp hội U não Trẻ em, khoảng 4.200 trẻ em được chẩn đoán mắc u não ở Hoa Kỳ. 72% trẻ em được chẩn đoán mắc u não dưới 15 tuổi. Hầu hết các u não này phát triển ở vùng hố sau của não. Trẻ em thường có biểu hiện của não úng thủy (chất lỏng tích tụ trong não) hoặc mặt hoặc cơ thể không hoạt động bình thường.

Một số loại u não thường gặp ở trẻ em hơn người lớn. Các loại u phổ biến nhất ở trẻ em là u nguyên bào tuỷ, u tế bào hình sao bậc thấp (u sao bào lông), u màng não thất, u sọ hầu và u tế bào thần kinh đệm thân não.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phát triển một hệ thống phân loại để chỉ ra độ ác tính hoặc lành tính của u dựa trên các đặc điểm mô học của u dưới kính hiển vi.

  • Hầu hết ác tính
  • Tăng trưởng, tiến triển nhanh
  • Di căn rộng rãi
  • Tái phát nhanh chóng
  • Dễ bị hoại tử

Phân loại u não của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)


Phân độ 

Đặc điểm

Loại u

Biệt hóa thấp

Biệt hóa độ I

  • Ít ác tính (lành tính)
  • Có thể chữa khỏi chỉ bằng phẫu thuật
  • Không xâm lấn
  • Tồn tại lâu dài
  • Phát triển chậm
  • U sao bào lông
  • U sọ hầu
  • U tế bào hạch
  • U hạch thần kinh đệm

Biệt hóa độ II

  • Phát triển tương đối chậm
  • Xâm lấn ít
  • Có thể tái phát

 

  • U sao bào lan tỏa
  • U bạch cầu
  • U thần kinh đệm ít nhánh đơn thuần

Biệt hóa cao

Biệt hóa độ III

  • Ác tính
  • Di căn
  • Dễ tái phát
  • U tế bào hình sao không biệt hóa
  • U màng não thất chưa biệt hóa
  • U thần kinh đệm ít nhánh chưa biệt hóa 

Biệt hóa độ IV

  • Hầu hết ác tính
  • Tăng trưởng, tiến triển nhanh
  • Di căn rộng rãi
  • Tái phát nhanh chóng
  • Dễ bị hoại tử
  • U nguyên bào thần kinh đệm đa hình thái 
  • U nguyên bào tuyến tùng
  • U nguyên bào tủy
  • U nguyên bào màng não thất

 

Tỷ lệ mắc bệnh ở người lớn

Viện Ung thư Quốc gia ước tính rằng 22.910 người trưởng thành (12.630 nam và 10.280 nữ) sẽ được chẩn đoán mắc các u ở não và hệ thần kinh vào năm 2012. Nghiên cứu cũng ước tính rằng trong năm 2012, 13.700 trong số các chẩn đoán này sẽ dẫn đến tử vong.

Từ năm 2005 đến năm 2009, độ tuổi trung bình tử vong do ung thư não và các cơ quan khác của hệ thần kinh là 64 tuổi.

Nguyên nhân dẫn đến u não

Các u não hình thành khi một số gen trên nhiễm sắc thể của tế bào bị hư hỏng và không còn hoạt động bình thường. Những gen này thường quy định tốc độ phân chia tế bào (nếu nó phân chia hoàn toàn) và sửa chữa các khiếm khuyết của gen khác, cũng như các gen điều hoà sự tự hủy tế bào nếu tế bào đó tổn thương không thể sửa chữa được. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể bị đột biến ở một hoặc nhiều gen này. Môi trường độc hại cũng là yếu tố nguy cơ dẫn đến đột biến gen. Chưa có cơ chế rõ ràng để giải thích tại sao một số người sống trong cùng môi trường sẽ phát triển các u não, trong khi những người khác thì không.

Một khi tế bào đang phân chia nhanh chóng và các gen kiểm soát sự phân chia của nó bị hỏng, tế bào có thể phát triển thành một u. Một tuyến phòng thủ khác là hệ thống miễn dịch của cơ thể, hệ thống này sẽ phát hiện ra tế bào bất thường và tiêu diệt nó. Các u có thể tạo ra các chất ngăn chặn hệ thống miễn dịch nhận ra các tế bào u bất thường và cuối cùng kìm hãm tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài mà ngăn cản sự phát triển của tế bào ung thư.

Một u phát triển nhanh chóng cần nhiều oxy và chất dinh dưỡng hơn mức cung cấp bình thường của mạch máu cục bộ nuôi dưỡng mô đó. Các u có thể tạo ra các yếu tố tăng sinh mạch để kích thích tăng sinh các mạch máu. Các mạch mới phát triển làm tăng cung cấp chất dinh dưỡng cho u, và cuối cùng, u ngày càng phát triển bởi các mạch mới này. Nhiều nghiên cứu sâu rộng trong lĩnh vực này, hướng đến các liệu pháp điều trị đích tiềm năng nhằm tiêu diệt triệt để u.

Triệu chứng của u não

Các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào vị trí của u não, nhưng những triệu chứng sau đây thường gặp ở các loại u não:

  • Đau đầu,thường đau đầu nhiều hơn vào buổi sáng hoặc cơn đau làm bệnh nhân thức giấc vào ban đêm
  • Động kinh hoặc co giật
  • Nói khó
  • Thay đổi tính cách
  • Yếu hoặc liệt một phần hoặc một bên cơ thể
  • Giữ thăng bằng kém hoặc chóng mặt
  • Thay đổi thị giác
  • Thay đổi thính giác
  • Tê hoặc ngứa ran ở mặt
  • Buồn nôn hoặc nôn, nuốt khó
  • Lú lẫn và mất phương hướng

Chẩn đoán

Các kỹ thuật hình ảnh tinh vi có thể xác định chính xác các u não. Các công cụ chẩn đoán bao gồm chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ. Các lát cắt hình ảnh cộng hưởng từ có thể giúp bác sĩ phẫu thuật lập kế hoạch cắt bỏ u dựa trên vị trí của u trong của não. Chụp cộng hưởng từ trong khi phẫu thuật để hướng dẫn sinh thiết mô và loại bỏ u. Quang phổ cộng hưởng từ được sử dụng để kiểm tra cấu trúc hóa học của u và xác định bản chất của các tổn thương được nhìn thấy trên chụp cộng hưởng từ. Chụp cắt lớp phát xạ positron có thể giúp phát hiện các u não tái phát.

Đôi khi, cách duy nhất để chẩn đoán xác định u não là sinh thiết. Bác sĩ giải phẫu thần kinh thực hiện sinh thiết và bác sĩ giải phẫu bệnh đưa ra chẩn đoán cuối cùng, xác định xem u là lành tính hay ác tính và phân loại nó cho phù hợp.

Điều trị u não

Các u não (cho dù nguyên phát hay thứ phát, lành tính hay ác tính) thường được điều trị bằng phẫu thuật, xạ trị và / hoặc hóa trị - đơn liệu pháp hoặc đa liệu pháp. Mặc dù xạ trị và hóa trị thường được sử dụng cho các u ác tính, còn sót lại hoặc tái phát, nhưng quyết định điều trị bằng liệu pháp nào còn tùy từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. Mỗi liệu pháp điều trị đều có những rủi ro và tác dụng phụ khác nhau.

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn hoặc bán phần u não thường mang nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Thách thức của bác sĩ phẫu thuật thần kinh là loại bỏ càng nhiều u càng tốt, mà không làm tổn thương nhu mô não quan trọng đối với chức năng thần kinh của bệnh nhân (chẳng hạn như khả năng nói, đi lại, v.v.). Thông thường, các bác sĩ phẫu thuật thần kinh mở hộp sọ thông qua phẫu thuật cắt bỏ sọ để đảm bảo họ có thể tiếp cận u và loại bỏ càng nhiều các u có thể cắt bỏ càng tốt. Một ống dẫn lưu có thể được đặt trong các khoang chứa dịch não tủy tại thời điểm phẫu thuật để dẫn lưu dịch não tủy bình thường khi não hồi phục sau phẫu thuật.

Một thủ thuật khác thường được thực hiện, đôi khi trước khi phẫu thuật mở hộp sọ, được gọi là sinh thiết có định vị cố định. Thủ thuật này cho phép bác sĩ giải phẫu bệnh đưa ra chẩn đoán xác định. Thông thường, bệnh nhân được cố định đầu vào khung của hệ thống định vị dẫn đường, nhập dữ liệu cộng hưởng từ của bệnh nhân vào hệ thống định vị, sau đó định vị điểm sinh thiết trên da bệnh nhân, mở da và xương sọ theo vị trí đã đánh dấu, phẫu thuật mở màng cứng và lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh. Dựa trên vị trí của u não, một số bệnh viện sẽ chỉ định sinh thiết não định vị không khung (với quy trình tương tự mà không cần sử dụng khung). Một mẫu mô nhỏ được lấy để kiểm tra dưới kính hiển vi.

Vào đầu những năm 1990, các thiết bị máy tính được gọi là hệ thống định vị phẫu thuật đã được giới thiệu. Các hệ thống này đã hỗ trợ bác sĩ phẫu thuật thần kinh hướng dẫn, xác định vị trí và định hướng cho các u. Điều này làm giảm tỉ lệ rủi ro và cải thiện mức độ chính xác khi cắt bỏ u. Trong nhiều trường hợp, hệ thống định vị phẫu thuật cho phép loại bỏ các u không thể phẫu thuật trước đây với những rủi ro có thể chấp nhận được. Một số hệ thống này cũng có thể được sử dụng để sinh thiết mà không cần phải gắn khung vào hộp sọ. Một hạn chế của các hệ thống này là chúng sử dụng hình ảnh cắt lớp (CT hoặc MRI) thu được trước khi phẫu thuật để định vị cho các bác sĩ giải phẫu thần kinh. Do đó, chúng không thể dự đoán các chuyển động của nhu mô não có thể xảy ra trong phẫu thuật. Các nhà nghiên cứu đang phát triển các kỹ thuật sử dụng sóng siêu âm và thực hiện phẫu thuật trong máy cộng hưởng từ MRI để giúp cập nhật dữ liệu hệ thống định vị trong quá trình phẫu thuật.

Lập bản đồ ngôn ngữ trong phẫu thuật được coi là một kỹ thuật cực kỳ quan trọng đối với những bệnh nhân có u ảnh hưởng đến chức năng ngôn ngữ, chẳng hạn như u thần kinh đệm bán cầu não trội. Quy trình này liên quan đến việc phẫu thuật khi bệnh nhân tỉnh táo và lập bản đồ ngôn ngữ của họ trong quá trình phẫu thuật. Sau đó, bác sĩ quyết định phần nào của u là an toàn để cắt bỏ. Các nghiên cứu gần đây đã xác định rằng lập bản đồ ngôn ngữ vỏ não có thể được sử dụng như một phương pháp hỗ trợ an toàn và hiệu quả để tối ưu hóa việc cắt bỏ u thần kinh đệm trong khi bảo tồn các vùng não chi phối ngôn ngữ thiết yếu.

Một số bệnh nhân bị u não có thể phải đặt dẫn lưu não thất - ổ bụng. Mọi người đều có dịch não tủy luôn lưu thông trong não và cột sống. Nếu dòng chảy này bị tắc nghẽn, các khoang chứa dịch não tủy (não thất) sẽ bị giãn rộng, tăng áp lực nội sọ, dẫn đến tình trạng não úng thủy. Nếu không được điều trị, não úng thủy có thể gây tổn thương não và thậm chí tử vong. Bác sĩ giải phẫu thần kinh có thể chỉ định đặt một ống shunt để dẫn lưu bớt dịch não tủy ra khỏi não, do đó giảm áp lực nội sọ. Ống shunt đưa dịch não tủy trong não thất đến các khoang khác trong cơ thể để được hấp thu như ổ phúc mạc (khu vực bao quanh các cơ quan trong ổ bụng). Shunt thường được đặt cố định. Nếu nó bị tắc nghẽn, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng tương tự như tình trạng ban đầu của não úng thủy và có thể kèm theo đau đầu, nôn mửa, các vấn đề về thị giác và / hoặc lú lẫn hoặc hôn mê và những triệu chứng khác. Một phương pháp khác có thể được sử dụng để kiểm soát sự tắc nghẽn của các đường dẫn dịch não tủy là phẫu thuật nội soi phá thông sàn não thất III. Điều này giúp tạo ra một đường dẫn mới cho dòng chảy dịch não tủy mà không cần đặt shunt. 

Xạ trị

Xạ trị sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và các tế bào não bất thường và thu nhỏ các u. Xạ trị có thể là một lựa chọn nếu u không thể được điều trị hiệu quả thông qua phẫu thuật.

  • Xạ trị bằng tia bên ngoài sử dụng nhiều chùm tia bức xạ khác nhau để tạo ra một vùng bao phủ u đồng thời giảm lượng phóng xạ đi qua các mô lành xung quanh. Nguy cơ tác dụng phụ của xạ trị bằng các phương pháp hiện đại là rất thấp. Các kỹ thuật mới hơn ngoài xạ trị không gian 3 chiều (3DCRT-Three-dimensional conformal radiation therapy) bao gồm xạ trị ung thư chuẩn hóa (IMRT- Intensity modulated radiation therapy).
  • Xạ trị bằng tia proton sử dụng một loại bức xạ cụ thể trong đó các proton, một dạng phóng xạ, được hướng cụ thể đến u. Ưu điểm là ít mô xung quanh u bị tổn thương hơn.
  • Xạ phẫu (chẳng hạn như máy Gamma Knife, Novalis và Cyberknife) là một kỹ thuật tập trung bức xạ với nhiều chùm tia khác nhau vào mô đích. Phương pháp điều trị này có xu hướng ít gây tổn thương hơn cho các mô lân cận u. Hiện tại, không có dữ liệu nào cho thấy loại máy nào tốt hơn về kết quả lâm sàng, và mỗi loại máy đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.

Hóa trị 

Hóa trị thường được coi là có hiệu quả đối với các u đặc biệt ở trẻ em, như u lympho và u nguyên bào thần kinh đệm ít nhánh. Mặc dù đã được chứng minh rằng hóa trị giúp cải thiện khả năng sống sót tổng thể ở những bệnh nhân có u não nguyên phát ác tính nhất, nhưng điều này chỉ xảy ra ở khoảng 20% tổng số bệnh nhân và các bác sĩ không thể dễ dàng dự đoán bệnh nhân nào sẽ được lợi trước khi điều trị. Do đó, một số bác sĩ chọn không sử dụng hóa trị vì các tác dụng phụ tiềm ẩn (xơ hóa phổi, ức chế hệ thống miễn dịch, buồn nôn, v.v.).

Hóa trị hoạt động bằng cách gây ra tổn thương tế bào mà được sửa chữa tốt hơn ở mô bình thường so với mô u. Kháng hóa trị có thể do u không đáp ứng với thuốc hoặc thuốc không tới được u. Một hàng rào đặc biệt tồn tại giữa dòng máu và nhu mô não được gọi là hàng rào máu não. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng cải thiện hiệu quả của hóa trị bằng cách phá vỡ hàng rào này hoặc bằng cách tiêm thuốc trực tiếp vào u hoặc não. Mục tiêu của một số nhóm thuốc khác không phải là tiêu diệt các tế bào u mà là để ngăn chặn sự phát triển thêm của u. Trong một số trường hợp, các chất điều chỉnh tăng trưởng (chẳng hạn như thuốc điều trị ung thư vú Tamoxifen) đã được sử dụng để cố gắng ngăn chặn sự phát triển của các u kháng với các phương pháp điều trị khác.

Năm 1996, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt việc đặt những miếng xốp nhỏ chứa hóa chất diệt ung thư trực tiếp vào u, có thể được bác sĩ giải phẫu thần kinh áp dụng tại thời điểm phẫu thuật. Các miếng xốp từ từ tan ra, tiết thuốc vào u, và bệnh nhân được hóa trị với hiệu quả như hóa trị liệu toàn thân.

Liệu pháp nhiệt kẽ bằng Laser (Laser Interstitial Thermal Therapy -LITT)

Cắt đốt nhiệt bằng Laser là một kỹ thuật mới hơn mà một số trung tâm đang sử dụng để điều trị các u nhỏ hơn, đặc biệt là ở những khu vực có thể khó tiếp cận hơn bằng các thủ thuật mổ mở trước đây. Điều này liên quan đến việc đặt một ống thông cực nhỏ bên trong tổn thương, có thể hoàn thành sinh thiết, sau đó sử dụng tia laser để cắt bỏ tổn thương bằng nhiệt. Kỹ thuật này chỉ mới được sử dụng gần đây trong điều trị u não, do đó hiệu quả lâu dài vẫn chưa được ghi nhận.

Các liệu pháp điều trị mới

Nhiều loại liệu pháp mới hiện đang được nghiên cứu, đặc biệt là trên các u mà tiên lượng thường kém hơn so với các liệu pháp điều trị hiện có. Không chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ đáp ứng với những liệu pháp này hay không. Các liệu pháp như vậy được đưa ra theo một phác đồ và bao gồm đa liệu pháp như liệu pháp miễn dịch, liệu pháp sử dụng độc tố nhắm mục tiêu, liệu pháp chống quá trình tạo mạch máu, liệu pháp gen và liệu pháp biệt hóa. Kết hợp đa liệu pháp trong điều trị cũng có thể cải thiện triển vọng cho bệnh nhân, đồng thời giảm các tác dụng phụ. 

Xem thêm:

Câu hỏi liên quan

Một vài trường hợp hoá trị và xạ trị đem lại kết quả tốt, người bệnh có thể kéo dài thời gian từ 10 – 15 năm.
Xem thêm
Theo các y bác sỹ chuyên khoa, thời gian sống của bệnh nhân u não thường kéo dài từ 6-12 tháng kể từ thời điểm chẩn đoán mắc bệnh. Nếu bệnh được phát hiện sớm, khả năng kéo dài sự sống cao hơn.
Xem thêm
Di truyền là nguyên nhân chính gây khối u não. Nếu mắc hội chứng Turcot hoặc Neurofibromatosis, bạn sẽ có nguy cơ cao phát triển các khối u não.
Xem thêm
Câu trả lời không giống nhau cho tất cả mọi người. Một số bệnh nhân u não có thể sống khỏe mạnh bình thường và tuổi thọ không giảm đáng kể sau khi được điều trị u não
Xem thêm
Thời gian để bệnh nhân có thể bình phục có thể chỉ mất vài ngày. Nhưng cũng có một số trường hợp, thời gian hồi phục lại có thể kéo dài vài tuần hoặc đôi khi là vài tháng.
Xem thêm
Các triệu chứng phổ biến bao gồm: nhức đầu (thường nặng hơn vào buổi sáng và khi ho hoặc căng thẳng), phù (co giật), thường xuyên cảm thấy buồn nôn (nôn mửa), các vấn đề về trí nhớ
Xem thêm
Đau đầu trầm trọng là triệu trứng phổ biến, có thể bắt gặp ở khoảng 50% số bệnh nhân u não.
Xem thêm
Câu trả lời không giống nhau cho tất cả mọi người. Một số bệnh nhân u não có thể sống khỏe mạnh bình thường và tuổi thọ không giảm đáng kể sau khi được điều trị u não
Xem thêm
U não là tình trạng các tế bào bất thường tăng trưởng trong não. U não gồm hai loại là u não lành tính (không phải ung thư) và u não ác tính (ung thư).
Xem thêm
Xem tất cả hỏi đáp với chuyên mục: U não
Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!