Hướng dẫn chữa lậu hiệu quả và các biện pháp phòng bệnh

Bệnh lậu là một bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) do vi khuẩn lậu (vi khuẩn có tên khoa học là Neisseria gonorrhoeae) gây ra. Bệnh lây truyền từ người này sang người khác qua đường quan hệ tình dục bằng đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng mà không sử dụng các biện pháp bảo vệ. Bệnh có thể gây tổn thương ở dương vật, âm đạo hoặc cổ và một số vị trí khác của cơ thể.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, 555.608 trường hợp mắc mới đã được ghi nhận ở Hoa Kỳ trong năm 2017.

Tại Việt Nam, theo báo cáo hàng năm có hơn 3000 trường hợp, tuy nhiên theo ước tính có khoảng vài chục ngàn trường hợp mỗi năm. 

Bệnh lậu có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng khi không được điều trị. Vì vậy điều quan trọng là phải điều trị càng sớm càng tốt. Hầu hết các trường hợp bệnh lậu có thể được chữa khỏi nếu điều trị kịp thời bằng các thuốc phù hợp.

Điều trị bệnh lậu như thế nào?

Thuốc kháng sinh có thể làm giảm các triệu chứng và chữa khỏi bệnh lậu nếu điều trị đúng phác đồ. Việc điều trị sẽ được bắt đầu ngay khi có chẩn đoán.

Kháng sinh là biện pháp điều trị hiệu quả bệnh lậu. Nguồn ảnh: wikihow.com

Bệnh lậu sinh dục

Đối với phụ nữ không mang thai mắc lậu gây tổn thương cổ tử cung, niệu đạo hoặc trực tràng, CDC khuyến cáo sử dụng đồng thời các loại thuốc sau:

  • Ceftriaxone 250 miligam (mg), tiêm bắp liều duy nhất
  • Azithromycin (Zithromax) 1g, uống một liều duy nhất

Nếu không có ceftriaxone, kháng sinh lựa chọn thay thế được khuyến nghị là:

  • Cefixime (Suprax) 400 mg, uống một liều duy nhất
  • Azithromycin (Zithromax) 1 g, uống một liều duy nhất

Ceftriaxone và cefixime đều thuộc nhóm kháng sinh cephalosporin. 

Bệnh lậu ở miệng

Nhiễm trùng lậu vùng họng khó điều trị hơn so với nhiễm trùng lậu vùng sinh dục. Mặc dù, theo khuyến cáo vẫn sử dụng các loại thuốc đó để điều trị nhiễm trùng lậu ở miệng, nhưng hiệu quả đạt được thường kém hơn. 

Bác sĩ có thể tiến hành cấy dịch vùng họng từ 5 đến 7 ngày sau khi điều trị để xác định xem có còn vi khuẩn không. Điều trị kéo dài là cần thiết nếu triệu chứng vẫn còn sau thời gian điều trị nói trên. 

Bạn có biết? Thuốc kháng sinh nhóm fluoroquinolon, chẳng hạn như ciprofloxacin (Cipro) và ofloxacin (Floxin), không còn được khuyến cáo để điều trị bệnh lậu. Spectinomycin, một loại kháng sinh khác thì đôi khi được khuyên dùng để điều trị bệnh lậu, cũng không còn được cung cấp ở Hoa Kỳ.

Bệnh lậu ở miệng. Nguồn ảnh: lybrate.com

Nhiễm lậu cầu lan tỏa được điều trị như thế nào?

Nhiễm lậu cầu lan tỏa là một biến chứng hiếm gặp xảy ra khi vi khuẩn lậu xâm nhập vào máu. Những người bị nhiễm lậu lan tỏa cần phải nhập viện ngay từ giai đoạn đầu của bệnh.  Họ cũng nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa truyền nhiễm. 

Viêm khớp do lậu cầu

Đối với những người bị viêm khớp do lậu cầu, CDC khuyến cáo điều trị giai đoạn đầu, gồm: 

  • Ceftriaxone 1 g, tiêm cơ hoặc tiêm tĩnh mạch mỗi 24 giờ
  • Azithromycin (Zithromax) 1 g, uống một liều duy nhất

Trường hợp, chống chỉ định với ceftriaxone như dị ứng, có thể dùng: 

  • Cefotaxime 1 g, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần
  • Ceftizoxime 1 g, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần

Giai đoạn đầu điều trị kéo dài cho đến khi lâm sàng có dấu hiệu cải thiện trong ít nhất 24 đến 48 giờ. Trong giai đoạn thứ hai, nếu bệnh có dấu hiệu cải thiện, bệnh nhân sẽ được chuyển sang dùng thuốc kháng sinh đường uống. Tổng thời gian điều trị nên kéo dài ít nhất 1 tuần. 

Viêm màng não và viêm nội tâm mạc do lậu cầu

Đối với những người bị viêm màng não do lậu cầu và viêm nội tâm mạc do lậu cầu, CDC khuyến cáo điều trị ban đầu: 

  • Ceftriaxone 1-2 g tiêm tĩnh mạch mỗi 12-24 giờ
  • Azithromycin (Zithromax) 1 g, uống một liều duy nhất

Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch, cũng được khuyến khích. Tổng thời gian điều trị viêm màng não nên kéo dài ít nhất 10 ngày, trong khi tổng thời gian điều trị viêm nội tâm mạc nên kéo dài ít nhất 4 tuần.

Điều trị bệnh lậu cho phụ nữ mang thai

Thuốc điều trị dùng cho phụ nữ mang thai mắc bệnh lậu về cơ bản cũng giống như thuốc dùng cho phụ nữ không mang thai.

Điều trị là cần thiết giúp ngăn ngừa việc lây bệnh hoặc các biến chứng cho em bé. 

Bệnh lậu ở trẻ sơ sinh thường có biểu hiện như viêm kết mạc, hay đau mắt đỏ. Ở một số nơi yêu cầu tất cả trẻ sơ sinh phải được nhỏ mắt kháng sinh, chẳng hạn như erythromycin, như một biện pháp phòng bệnh. 

Phụ nữ mang thai được chẩn đoán mắc bệnh lậu cũng nên được xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Các tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra khi điều trị bệnh lậu là gì?

Tác dụng phụ là mối quan tâm khi nói đến liệu pháp kháng sinh. Tất cả các loại thuốc kháng sinh có thể gây ra biến đổi hệ vi khuẩn đường ruột và âm đạo.

Điều này có thể khiến phụ nữ dễ bị tiêu chảy hoặc nấm âm đạo. Rối loạn tiêu hóa là một tác dụng phụ phổ biến khác của thuốc kháng sinh.

Nguồn ảnh: medicalnewstoday.com

Một số tác dụng phụ khác có thể gặp tùy thuộc vào loại kháng sinh đang được sử dụng. 

Cephalosporin có thể gây ra các triệu chứng như: 

Azithromycin có thể gây ra các triệu chứng như: 

Các biện pháp phòng bệnh lậu

Một số biện pháp phòng ngừa sẽ giúp ngăn ngừa sự lây truyền của bệnh lậu. Ngoài ra còn có các biện pháp phòng ngừa để không mắc bệnh lậu. 

Những cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa việc mắc bệnh là: 

  • Hạn chế quan hệ tình dục
  • Luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, miệng hoặc hậu môn
  • Có bạn tình chung thủy một vợ một chồng và không bị mắc bệnh lậu

Vì bệnh lậu thường không biểu hiện triệu chứng nên điều quan trọng để phòng bệnh là phải đi xét nghiệm thường xuyên. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn tình đã được chẩn đoán mắc bệnh lậu.

Xem xét, trao đổi với bác sĩ về tần suất làm xét nghiệm bệnh lậu và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. 

Ngăn ngừa sự lây lan rộng của bệnh 

Để giảm thiểu nguy cơ lây truyền bệnh lậu cho người khác, tránh quan hệ tình dục ít nhất bảy ngày sau khi điều trị xong. Đồng thời khuyến khích mọi đối tượng có quan hệ tình dục với người bệnh trong vòng 60 ngày qua đến gặp bác sĩ để được tư vấn, xét nghiệm. 

Nếu một người đang điều trị bệnh lậu mà có quan hệ tình dục thì bạn tình của họ vẫn có thể mắc bệnh lậu.

Nếu cả bệnh nhân và bạn tình đều được chẩn đoán mắc bệnh lậu, việc điều trị của cả hai sẽ giống nhau. Họ sẽ cần kiêng quan hệ tình dục cho đến khi họ hoàn thành điều trị và khỏi bệnh.  

Tổng kết

Trong những năm gần đây, vi khuẩn lậu đã trở nên kháng với một số loại kháng sinh, bao gồm cả penicillin và tetracycline. Điều này có nghĩa là những loại thuốc này hiệu quả kém trong việc điều trị và chữa khỏi bệnh. 

Tại Hoa Kỳ, hầu như tất cả những người mắc bệnh đều được điều trị kết hợp của hai loại kháng sinh: ceftriaxone và azithromycin. 

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Hóa trị liệu kháng khuẩn cho rằng vi khuẩn lậu có thể ngày càng kháng lại nhiều loại thuốc hơn. 

Nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, bệnh lậu có thể dẫn đến bệnh viêm vùng chậu (PID) ở phụ nữ hoặc sẹo niệu đạo ở nam giới.

Những người gần đây đã được chẩn đoán mắc bệnh lậu cũng nên được xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, bao gồm: 

  • Bệnh giang mai
  • Chlamydia
  • Herpes
  • HPV (vi rút u nhú ở người)
  • HIV

Xem thêm: 

Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!