Cảm nghĩ về bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà
Đề bài: Viết đoạn văn cảm nghĩ về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà”.
I. Khái niệm ca dao
- Là loại thơ trữ tình dân gian.
- Nội dung: biểu hiện đời sống tâm hồn, tình cảm của người bình dân.
- Ngôn ngữ ca dao: giản dị, trong sáng, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động.
II. Tìm hiểu sơ lược về tác phẩm
1. Thể loại: Thơ lục bát và lục bát biến thể
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
+ Bài 1, 3 : Trích “Kho tàng ca dao người Việt”, tập 1
+ Bài 2: Trích “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”
3. Phương thức biểu đạt : Biểu cảm
4. Tóm tắt:
Với chùm ca dao về quê hương, đất nước, hình ảnh các miền quê hiện lên thật phong phú: vẻ đẹp thơ mộng, tưởng như mơ màng, lặng lẽ nhưng ẩn chứa sức sống bền bỉ, mãnh liệt của Hồ Tây; con đường lên xứ Lạng sơn thủy hữu tình; con đò trên sông Hương và những miền quê xứ Huế êm đềm, … Đồng thời qua những bài ca dao, tác giả dân gian cũng thể hiện được sâu sắc tình yêu quê hương, đất nước, lòng yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của các vùng miền khác nhau. Tình yêu đó có khi lặng lẽ, kín đáo nhưng cũng có khi thốt lên thành lời tha thiết.
5. Bố cục:
+ Bài 1: Vẻ đẹp thơ mộng, tưởng như mơ màng, lặng lẽ nhưng ẩn chứa sức sống bền bỉ, mãnh liệt của Hồ Tây.
+ Bài 2: Con đường lên xứ Lạng sơn thủy hữu tình.
+ Bài 3: Con đò trên sông Hương và những miền quê xứ Huế êm đềm.
6. Giá trị nội dung:
+ Các bài ca dao về quê hương đất nước thường nói đến những danh thắng, những tên núi, tên sông, những vùng địa linh nhân kiệt, những công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng,… Ẩn trong mỗi bài ca dao là niềm tự hào dân tộc, là tình yêu thiết tha dành cho quê hương, xứ sở, con người.
7. Giá trị nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể.
+ Giọng điệu tha thiết, tự hào.
+ Mỗi bài có cách cấu tứ, cách thể hiện riêng độc đáo. Điều này khiến chùm ca dao thêm phong phú, đa dạng.
III) Đoạn văn mẫu: Cảm nghĩ về bài ca dao gió đưa cành trúc la đà:
Bài văn mẫu 01
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương.
Mịt mờ khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Bài ca dao đã đem đến cho người đọc cảm nhận về một bức tranh hồ Tây vào buổi sớm mai trong những ngày mùa thu. Chỉ bằng vài nét chấm phá, tác giả dân gian đã vẽ nét một bức tranh đầy thơ mộng, trữ tình. Bầu trời mùa thu trong xanh, khoáng đạt. Những cơn gió khe khẽ đưa làm lay động cành trúc. Âm thanh của tiếng chuông ngân vang hòa cùng tiếng gà gáy báo canh gợi ra một cuộc sống sôi động. Cùng với đó là làn sương khói mờ ảo bao phủ không gian khiến cho khung cảnh thêm thơ mộng. Tiếng chày nhịp nhàng đã gợi ra vẻ đẹp truyền thống của người dân đất Thăng Long xưa với nghề làm giấy ở làng Yên Thái. Cuối cùng là vẻ đẹp của mặt hồ Tây ẩn trong khói sương mịt mù chợt hiện ra như một tấm gương long lanh dưới ánh nắng mai. Những âm thanh nhịp nhàng vang vọng từ tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy đến tiếng chày giã giấy cũng báo hiệu cho một ngày mới đã bắt đầu. Sức sống đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Bài thơ khiến cho người đọc yêu thêm mảnh đất Thăng Long. Đồng thời, tác giả dân gian cũng muốn thể hiện niềm tự hào, yêu mến dành cho vẻ đẹp của quê hương mình
Bài văn mẫu 02
Một trong những bài ca dao nói về vẻ đẹp của quê hương, đất nước đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc đó là:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương.
Mịt mờ khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Vẻ đẹp của mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến đã được tác giả dân gian gói lại trong vỏn vẹn bốn câu thơ. Với bút phát chấm phá, khung cảnh Thăng Long hiện lên giống như một bức tranh thủy mặc mang đậm nét cổ điển. Tác giả dân gian đã vẽ lên những hình ảnh sinh động, giàu sức gợi như cành trúc la đà, khói tỏa ngàn sương, mặt gương Tây Hồ. Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên với vẻ trữ tình, thơ mộng. Cùng với đó là những âm thanh đặc trưng báo hiệu một ngày mới đã bắt đầu. Tiếng chuông Trấn Võ vang lên cùng với tiếng gà Thọ Xương báo canh. Tiếng chày nhịp nhàng gợi nhắc về một nét đẹp truyền thống lâu đời của mảnh đất Thăng Long xưa với nghề làm giấy ở làng Yên Thái. Và không thể thiếu được đó là vẻ đẹp của mặt hồ Tây ẩn hiện trong làn sương sớm. Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên khiến người đọc say mê, yêu mến. Từ đó, chúng ta thêm tự hào về quê hương, đất nước mình.
Bài văn mẫu 03
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh mùa thu vào buổi sáng sớm nơi kinh thành Thăng Long. Mỗi câu thơ là một cảnh đẹp được chấm phá qua ngòi bút đặc sắc của các tác giả dân gian nhằm ca ngợi cảnh đẹp quê hương. Ca dao dân ca xưa và kể cả không ít những nhà thơ đã tả nhiều về vẻ đẹp thanh bình kinh thành Thăng Long. Cảnh mùa thu thật đẹp, gió nhẹ nhẹ đủ làm gợn sóng mặt hồ Tây, bên bờ hồ liễu rủ biêng biếc. Câu thơ mở đầu cho thấy gió rất nhẹ, gió không thổi mà chỉ đưa nhẹ nhàng làm đung đưa những cành trúc rậm rạp la đà sát mặt đất. Cành trúc được làn gió thu trong trẻo, mát lành vuốt ve êm dịu, cùng vói gió cành trúc khẽ lay động bay cùng chiều gió. Cảnh đẹp thật gợi cảm, gợi tình trong khí thu mát mẻ trong lành. Câu thơ có màu xanh của trúc, khe khẽ của gió, và đương nhiên khí thu, tiết thu, bầu trời khoáng đạt, những cánh diều vi vu trên không, đằng sau những cành trúc la đà là tiếng oanh vàng thánh thót. Xa xa văng vẳng tiếng chuông Trấn Vũ êm êm gây không khí rộn ràng náo động. Tiếng gà tàn canh Thọ Xương vọng tới. Tiếng chuông ngân vang hoà cùng tiếng gà gáy le te. Âm thanh như tan ra hoà cùng đất trời sương khói mùa thu…Tiếng chày đều tay từ phường Yên Thái ngân vang dồn dập. Nhịp chày chính là nhịp đập của cuộc sống, sức sống mạnh mẽ của kinh đô này. Bình minh ửng hồng phía đằng Đông xua tan làn sương khói. Quê hương đang ngày ngày thay da đổi thịt, cảnh tình thấm vào nhau rung động mãi trong hồn ta. Tâm hồn tác giả thật say sưa mới có những vần thơ hay đến vậy.
Bài văn mẫu 04
Bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà” là một bức tranh đầy chất thơ và nét nhạc cảnh Tây Hồ về sắc thu vào buổi sớm nơi kinh thành Thăng Long. Hiện lên một bức tranh thủy mặc Phương Đông, mang sắc thái êm đềm mà lại cổ điển. Bằng vài nét chấm phá, tác giả dân gian đã vẽ lên những hình ảnh sinh động, giàu sức gợi: cành trúc la đà, khói tỏa ngàn sương, mặt gương Tây Hồ. Cảnh đẹp thật gợi cảm, gợi tình trong khí thu mát mẻ trong lành .Trong câu thơ có màu xanh của trúc, khe khẽ của gió, và đương nhiên khí thu, tiết thu, bầu trời khoáng đạt, những cánh diều vi vu trên không, đằng sau những cành trúc la đà là tiếng oanh vàng thánh thót. Tiếng gà tàn canh Thọ Xương vọng tới, ngay khi đó tiếng chuông ngân vang hoà cùng tiếng gà gáy le te như tan ra hoà cùng đất trời sương khói mùa thu, khi ánh sáng đêm thu bao phủ tràn khắp mọi nẻo, nhịp chuông vang vọng cùng gà gáy như làm cho mọi vật càng mơ màng thơ mộng hơn. Mà trên mặt Hồ Tây, sương tuy mịt mù thành rừng khói mà chỉ nhẹ nhàng lan tỏa, tô đậm cảm giác tĩnh lặng, thanh bình của cảnh vật Hồ Tây. Mặt hồ ẩn trong khói sương mịt mù chợt hiện ra như một tấm gương long lanh dưới ánh nắng mai. Trước cảnh đêm chuyển dần về sáng, người ngắm cảnh tựa hồ cảm nhận được bước đi êm ả của thời gian. Một loạt âm thanh nhịp nhàng vang vọng từ tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy đến tiếng chày giã giấy cũng báo hiệu cho một ngày mới. Bài thơ miêu tả cảnh đẹp kinh thành Thăng Long, và qua đó, tác giả dân gian đã thể hiện niềm tự hào, yêu mến dành cho quê hương, đất nước mình.
Bài văn mẫu 05
Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt với, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc (tức cái bến có sóng lớn), hay còn gọi là Dâm Đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sơm và chiều tồi, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía Tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái (vùng Bưởi) chuyên nghề làm giấy (vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rồi cán mỏng thành giấy), phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan , thi sĩ nổi tiếng của nước ta.
Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ.
Mở đầu là nét chấm phá đơn xơ nhưng sinh động: Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc nặng trĩu sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ.
Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cảm giác quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hòa quyện, làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng.
Ai đã một lần đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của câu : Mịt mù khói tỏa ngàn sương, để rồi thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy.
Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động bỗng hiện ra rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao.
Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một gương mặt khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ!
Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xua vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến hồn người. Xứ Lạng ở Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phố phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột… Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang : Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sềnh, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng: Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về…
Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khá
Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt.
Bài văn mẫu 06
Ca dao, dân ca phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người xưa. Trong đó miêu tả cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn.
Mỗi bài ca dao nói về cảnh đẹp là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp hồ tây ở thủ đô hà nội đã được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian và trở thành lời ru quen thuộc của bao bà mẹ:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày yên thái mặt gương tây hồ.
Hồ tây xưa kia có tên là hồ lãng bạc (tức cái bến có sông lớn), hay gọi là dâm đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía tây nên sau này nó được đổi tên thành hồ tây. Xung quanh.là những địa danh nổi tiếng của đất thăng long: chùa trấn vũ, huyện lị thọ xương, làng yên thái (vùng bưởi) chuyên làm nghề giấy (vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rỗi cán mỏng thành giấy), phường nghi tàm, quê hương của bà huyện thanh quan, nữ thi sĩ nổi tiếng của đất nước ta.
Bức tranh về hồ tây là bức tranh toàn cảnh mang ý nghĩa bao quát. Đây là cảnh hồ vào buổi sáng tinh mơ thanh bình, yên ả.
Mở đầu bài ca dao là nét chấm phá đơn sơ: gió đưa cành trúc la đà. Làn gió sớm mai thổi nhè nhẹ làm đung đưa cành trúc, trĩu nặng sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại rất nên thơ. Đường nét của bức tranh duy nhất chỉ có một nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mờ ảo của bầu trời, mặt hồ buổi sớm mai. Hình ảnh ấy tiêu biểu cho bao làng quê Việt Nam. Trong bài thu vịnh của nguyễn khuyến cũng có câu: cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Ở câu tiếp theo không có hình ảnh mà chỉ có âm thanh nối tiếp nhau: tiếng chuông trấn vũ, canh gà thọ xương. Tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệư một ngày mới bắt đầu. Đêm chuyển dần về sáng. Xa xa, tiếng chuông chùa vọng làm cho cảnh trở nên huyền ảo, cổ kính, trang nghiêm. Tiếng gà gáy gợi lên cuộc sống đời thường nơi thôn dã, gần gũi, đầm ấm. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hòa quyện với nhau, nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian mênh mông, càng làm tăng vẻ thanh khiết, tĩnh lặng của một vùng đất nước.
Những ai đã đến hồ tây vào buổi sáng, khi ngàn sương dày đặc bao phủ mặt hồ thì mới thấy được cái hay, cái đẹp của câu: mịt mù
Khói tỏa ngàn sươngvà mới thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp hư hư thực thực của hồ.
Nếu ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng của cuộc sống, thì ở câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động đã hiện ra khá rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của làng dân yên thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống người dân cần cù.
Ba âm thanh: tiếng chuông chùa, tiếng gà báo sáng, tiếng chày hòa quyện với nhau, gợi cảm giác về một khung cảnh thanh bình, êm ả, lắng sâu vào hồn người. Hình ảnh mặt gương tây hồ làm bừng sáng cả bài ca dao, bừng sáng cả lòng người đang say mê thưởng thức vẻ đẹp của hồ. Dưới nắng sớm, sương tan, mật trời lên tỏa ánh sáng xuống mặt nước, hồ tây trở thành một tấm gương soi không lồ, vô cùng đẹp đẽ.
Vẻn vẹn chỉ bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp hồ tây đã được ngòi bút tài hoa vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. An chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến và gắn bó sâu nặng với quê hương của người dân thăng long ngàn năm văn vật.
Trên khắp đất nước Việt Nam, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến lòng người. Xứ lạng với: đồng đăng có phố ki lừa, có nàng tô thị có chùa tam thanh, hà nội với ba sáu phố phường, với hồ tây, hồ gươm, gò đống đa, chùa một cột.
Miền trung với đường vô xứ nghệ quanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm tư của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông hương với núi ngự bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước hương giang: đò từ đông ba đò qua đập đá, đò về vĩ dạ thẳng ngã ba sình, lờ đờ bóng ngả trăng chềnh, tiếng hò xa vọng nặng tình nước non.
Người dân nam bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu, bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng: cần thơ gạo trắng nước trong, ai đi đến đó chẳng mong ngày về…
Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp thơ mộng của đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao nói về vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc, bài ca dao về cảnh đẹp hồ tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thận của nhiều thế hệ.
Bài văn mẫu 07
Vẻ đẹp của mảnh đất Thăng Long đã được tác giả dân gian gói lại trong bốn câu ca dao:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương.
Mịt mờ khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Kinh thành Thăng Long hiện lên giống một bức tranh thủy mặc qua nét miêu tả chấm phá. Những hình ảnh sinh động, giàu sức gợi như cành trúc la đà, khói tỏa ngàn sương, mặt gương Tây Hồ hiện lên thật sinh động. Cùng với đó là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông Trấn Võ vang lên cùng với tiếng gà Thọ Xương báo canh. Tiếng chày nhịp nhàng gợi nhắc về một nét đẹp truyền thống lâu đời của mảnh đất Thăng Long xưa với nghề làm giấy ở làng Yên Thái. Và không thể thiếu được đó là vẻ đẹp của mặt hồ Tây ẩn hiện trong làn sương sớm. Có thể thấy rằng, khung cảnh kinh thành Thăng Long hiện lên khiến người đọc say mê, yêu mến.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 6 bộ Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Cảm nghĩ về một danh lam thắng cảnh của quê hương đất nước
Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài ca dao Đường lên xứ Lạng bao xa
Cảm nhận của em về đoạn thơ Đời cha ông với đời tôi
Suy nghĩ về vẻ đẹp tâm hồn người Việt trong Chuyện cổ nước mình
Từ văn bản Cây tre Việt Nam, nêu cảm nhận của em về hình ảnh cây tre