Đề bài: Phân tích đây thôn vĩ dạ đoạn 3.
Dàn ý: Phân tích đây thôn vĩ dạ đoạn 3.
1. Mở bài
- Nêu sơ lược về tác giả: Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê quán
- Quảng Bình. Là một nhà thơ gặp nhiều bi thương trong cuộc sống nhưng hồn thơ của ông lại luôn dồi dào nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Giới thiệu khổ thơ thứ 3: là sự bộc lộ những tâm trạng và sự hoài nghi của nhân vật trữ tình, nhưng nổi bật lên là niềm khát khao được sống, được giao hòa cùng với thiên nhiên và con người ở xứ Huế.
2. Thân bài
- Nội dung
- Tha thiết hướng về con người ở Vĩ Dạ trong sự hư ảo giữa thực và mơ: đó là hình ảnh của một người khách đường xa về một người con gái trong màu áo trắng tinh khôi, trinh nguyên nhưng mờ ảo (2 câu đầu).
- Tâm trạng hoài nghi, suy tư về cuộc đời và tình người: sự chìm đắm trong hai không gian của tâm tưởng và thực tại, sự hoài nghi về tình người ở thôn Vĩ sau bao nhiêu năm xa cách, mong chờ.
- Nghệ thuật
- Hình ảnh “khách đường xa” gợi lên nỗi nhớ và khát khao được gặp lại người xưa, chốn cũ của nhân vật trữ tình.
- Điệp ngữ (khách đường xa, ai): sự chìm đắm trong vô thức với khát vọng được gặp lại cố nhân (khách đường xa), sự ngậm ngùi tiếc nuối (ai).
- Điệp ngữ "khách đường xa" được lặp lại hai lần như chứa đựng hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là khát vọng: mơ về khách đường xa, mơ được gặp lại người xa, cảnh cũ (mơ khách đường xa); là thực tại: sự vô vọng khi có quá nhiều khát vọng, mơ ước không thể trở thành hiện tại (khách đường xa).
- Đại từ phiếm chỉ (ai), đại từ (đây): làm bật lên cảm giác của sự vô định và hoài nghi của nhân vật trữ tình.
- "Ở đây" nhằm chỉ về không gian hiện thực nơi xứ Huế hay là không gian tâm tưởng, không gian nơi tác giả đang đắm chìm trong đau thương, tuyệt vọng.
- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”: để hỏi người mà cũng để hỏi mình, vừa gần gũi nhưng cũng xa xôi, vừa hoài nghi nhưng cũng giận hờn, trách móc.
- Từ Hán – Việt (nhân ảnh): từ Hán – Việt duy nhất được tác giả sử dụng trong bài, có sự dự cảm về chính cuộc đời của tác giả.
- Nhịp thơ 4/3 (Mơ khách đường xa\ khách đường xa) tạo ra sự khác biệt với luật thơ của những câu thơ thất ngôn.
- Ngôn từ trong sáng, giản dị, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế.
- Nghệ thuật cực tả (sắc trắng): tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, trinh nguyên của nhân vật “em” nhưng đồng thời cũng làm bật lên sự bất lực về thị giác, bất lực về tâm hồn của một trái tim khi phải xa cách cuộc sống thực ngoài kia.
3. Kết bài
- Tóm lược lại ý chính của giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ thứ 3.
- Giá trị nội dung: nỗi lòng hướng về xứ Huế sau bao nhiêu năm xa cách trong sự mờ nhòa giữa hiện thực và mộng ảo của nhân vật trữ tình.
- Giá trị nghệ thuật: sử dụng những biện pháp tu từ hiệu quả làm toát lên được những cung bậc, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Một số bài văn mẫu: Phân tích đây thôn vĩ dạ đoạn 3.
Đoạn văn mẫu số 1
Trong vườn Thơ mới với trăm hương sắc ngọt ngào, người ta đã phong cho Hàn Mặc Tử là thống soái của một trường thơ: Thơ điên. Chỉ với 28 tuổi đời (1912 — 1940) mà ông đã để lại cho nền văn học dân tộc hàng trăm vần thơ đẹp. Đến với thơ Hàn Mặc tử, ta bắt gặp một tâm hồn say trăng đến kì lạ:
Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
Khép phòng đốt nến, nến châu rơi
Thơ của ông rợn ngợp trong “hồn” và “trăng” vừa thực vừa mơ. Hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và thể xác. Những tưởng bước vào đó chỉ có “hồn” và “trăng”, cuồng điên và bệnh hoạn nhưng những vần thơ trong trẻo như Đây thôn Vĩ Dạ buộc mỗi độc giả chúng ta phải có cái nhìn khác đi về nhà thơ đa tài nhưng bạc mệnh này. Đây thôn Vĩ Dạ khiến lòng người phải nghiêng nghiêng về một tình yêu vô bờ bến của tác giả đối với Vĩ Dạ, với những con người Huế
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
....
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Nhắc đến Đây thôn Vĩ Dạ, ta không thể quên được mối tình tuyệt vọng của thi nhân và giai nhân xứ Huế là Hoàng Thị Kim Cúc. Bệnh tật đã đứt lìa nhà thơ ra khỏi nhiều ước mơ của tuổi trẻ trong đó có khát khao về tình yêu đôi lứa. Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử đã nhận được một bức bưu ảnh “có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cá ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước” cùng mây lời thăm hỏi của cố nhân, xúc động với tấm lòng của bạn cũ, tác giả đã sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với 3 khổ thơ 12 câu tả cảnh ngụ tình để đáp lại tình cảm của người xưa. Nhớ đến người xưa, cảnh xưa ta sẽ nhớ đến Vĩ Dạ thôn.
Mở đầu cho một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc ấy, không phải là một câu miêu tả mà là một câu hỏi tu từ, một câu trách yêu hờn dỗi, là lời mời tha thiết, nhẹ nhàng với giọng thơ êm dịu, tình tứ như giọng nói dịu dàng của người con gái Huế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi như hàm chứa lời trách yêu rằng: lâu quá rồi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ, về thăm em?”. Cảnh cũ, người xưa vẫn cứ thấp thoáng gợi lên bao hoài niệm thân quen. Câu hỏi sử dụng từ “chơi” thay cho từ “thăm” càng tạo nên sự gần gũi, thân thương đối với cảnh vật và con người nơi thôn Vĩ. Chúng ta ngẫm kĩ thêm chút nữa sẽ thấy ẩn chứa bên trong câu hỏi là một lời tự vấn của chính bản thân tác giả. Ông mượn những lời thôn nữ Vĩ Dạ hỏi “anh” nhưng cũng chính là câu hỏi tự đặt ra để hỏi chính bản thân của mình rằng sao lâu quá rồi không về thăm nơi thôn Vĩ? Đây cũng chính là nỗi giãi bày nỗi niềm thương nhớ của tác giả làm cho bao kỉ niệm xa xưa nay lại sống dậy trong lòng, trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người nơi xứ Huế mộng mơ, với những khu vườn tươi tốt, hoa trái ngọt, phong cảnh hữu tình. Như lời ca ngợi của nhà thơ Bích Khê về Vĩ Dạ:
Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biết che cần trúc không buồn mà say.
Đối với riêng Hàn Mặc Từ, Vĩ Dạ đã từng in đậm dấu ấn của người thương để lại trong lòng bao nỗi khắc khoải:
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ.
Về với Vĩ Dạ là về với bao cảm xúc mới và đón chào những điều đặc biệt:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Cảnh vật được mở ra với muôn cây tươi tốt, một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Cau từng hàng mọc vươn lên trong nắng mới như đón chào những vị khách phương xa. Cảnh sắc bình minh rực rỡ với ánh “nắng mới lên” là những ánh nắng sớm, là những nắng đầu tiên trong ngày, nắng còn lẫn sương với khơi một cảm giác hư vô trong trẻo tinh khôi đến lạ thường. Cấu trúc câu thơ rất đẹp (nắng – cau – nắng), gợi sự quân quýt giữa cau thôn Vĩ và ánh nắng ban mai. Cảnh thật hữu tình! Dường như hàng cau được phát sáng nhờ những tia nắng mới và ngược lại, nắng đẹp hơn lung linh hơn khi chiếu rọi xuống những hàng cau thôn Vĩ. Cả hai tô điếm cho nhau làm nên một ý thơ đầy thi vị.
Sang đến dòng thơ sau, không gian nghệ thuật hạ xuống thấp hơn. E ấp dưới hàng cau xanh vững chãi là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá, màu xanh mơn mởn non tơ ngồi lên, bóng lên dưới ánh bình minh trông “mướt quá”. Mướt” là vì mượt mà, óng ả, mượt của một màu xanh rất đặc trưng được liên tưởng độc đáo “xanh như ngọc”. Xanh như ngọc chứ không phải là xanh ngọc. Cách so sánh tinh tế khiến cả khu vườn thôn Vĩ đẹp tuyệt vời như một viên ngọc bích. Câu thơ gợi vẻ quyến rũ, long lanh tươi trẻ đầy sức sống dưới bàn tay chăm sóc của người Vĩ Dạ cần cù và đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên cảnh vật quanh năm tươi tốt, xum xuê. Nhưng khu vườn ấy là của ai? Có cụ thể không? Với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai”, thi nhân đã nhìn cảnh vật bằng đôi mắt trữ tình, bởi lẽ từ ai không xác định cụ thể, rõ ràng, nó gợi lên những tình cảm sâu kín, những yêu thương e ấp.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Từ “ai” được nhắc đến và cụ thể hơn ở: Lá trúc che ngang mặt chữ điền “Ai” ở đây là giai nhân, người xuất hiện sau lá trúc e lệ, kín đáo và tình tứ của người con gái xứ Huế mộng mơ. Dùng một vài nét ước lệ, nhà thơ mượn thơ trong nhân gian để gợi tâm hồn, gợi lên tâm lòng của người thiếu nữ:
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo em đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.
(Ca dao)
Gương mặt chữ điền phúc hậu lại ẩn hiện qua đường nét thanh mảnh của lá trúc gợi ra sự duyên dáng, đằm thắm của các cô gái xứ Huế. Nhưng đằng sau cái cảnh vật nên thơ ấy đang chứa đựng những tình cảm kín đáo nơi niềm nhớ thương mong đợi của thi nhân. Dù xa xôi nhưng tác giả vẫn hướng mình về Vĩ Dạ. Và Vĩ Dạ mãi mong anh trở về thăm. Lời thơ tha thiết một chân tình chưa thể nói hết. Người ấy, tình ấy, khiến cảnh thôn Vĩ càng thơ mộng hơn.
Sang đến khổ thơ thứ hai vẫn nối tiếp mạch thơ, vẫn là những vần thơ trong trẻo, dịu dàng, Nhưng một không gian thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm lại được mở ra cảnh vật giờ đây chỉ còn là sự tan tác chia li ;
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Làn gió ở đây thổi rất nhẹ không đủ sức để cuốn trôi mây, không đủ sức để làm cho nước gợn, bởi thế nên dòng nước đã phớt lờ nhưng không buồn cuộn chảy. Gió chỉ đủ sức làm cho hoa bắp lay động càng gợi lên nỗi buồn hiu hắt Trong tiếng Việt từ “lay” vốn không nảy sinh cảm xúc nhưng đặt trong hoàn cảnh này thì nó lại chất chứa một nỗi niềm tâm sự. Đã hơn một lần ta bắt gặp động từ này trong ca dao Huế.
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em.
Với giọng thơ nhẹ nhàng thoáng buồn, cảnh vật trở nên êm đềm, không gian vắng lộng, mơ buồn. Nghệ thuật đối lập “Gió theo lối gió” đối với “mây đường mây” khiến câu thơ như gãy đôi ra gợi sự chia lìa đôi ngả. Nhưng cái đáng nói ở đây lại là sự chia lìa giữa những hình ảnh thiên nhiên vốn đi liền với nhau (Gió thổi mây theo về), đằng này thì gió đường gió // mây đường mây. Phải chăng trong hình ảnh thiên nhiên ấy chứa đựng nỗi sầu chia li của lòng người? Một dự cảm buồn và lòng khao khát giao hòa với đời, với người của thi nhân đã lan tỏa ra cảnh vật, khiến dòng nước cũng trở nên buồn thiu trĩu nặng một tâm sự, một niềm trắc ẩn khôn nguôi.
Nỗi niềm ấy bật lên thành hai câu hỏi da diết, khắc khoải:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ gợi tả cảnh Vĩ Dạ đò giang tuyệt đẹp nhưng đượm buồn. Hỏi nhưng thật ra tác giả đang hỏi chính lòng mình khi nhớ đến đò xưa bến cũ. Sông Hương bây giờ là sông trăng/ hình ảnh trăng là hình ảnh quen trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ anh ngập tràn ánh trăng, thừa mứa ánh trăng đến mức đem đi rao bán. Trăng đối với thi nhân là bạn tri âm tri ki. Nói vậy, ta có thể hiếu trăng theo nghĩa đó. Trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho tình người tình đời mà Tử đang khao khát. . Khao khát lại càng tội nghiệp hơn khi ta chợt nhớ đến bi kịch của thiên tài đang phải đối mặt. Đó chính là căn bệnh quái ác đang hành hạ lính hồn và thể xác anh.
Chính bi kịch ấy khiến cho một người yêu trăng, say trăng, giờ đây lại đang đói trăng, đang khát thèm trăng. Hai dòng thơ bật lên, vẽ ra hai không gian đối lập: Ngoài ấy (cuộc đời) và trong này (thi nhân). Nếu ngoài ấy trăng dư giả, đầy tràn cả không gian (sông trăng, bến trăng, thuyền trăng), cả thời gian (cả một đêm trăng). Thì ngược lại, trong này, thi nhân đang khao khát trăng đến cháy bỏng đến khắc khoải thành một nỗi niềm băn khoăn, trăn trở:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu thơ là một nỗi đau, nỗi đau dày vò về thể xác, cơn đau tính thần giằng xé, bệnh tật, cô độc, tuyệt vọng:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cổ vô biên
Giữa lớp lớp những dòng thơ điên loạn, ma quái khổ đau đó, chính tác giả đang mang trong mình một tâm trạng lo lắng. Từ “kịp” làm tăng thêm sự băn khoăn, lo âu, đau buồn của tác giả. “Chở trăng” như chờ những tình yêu thương nhưng lại phải kịp tối nay. Câu thơ nghe sao mà xót xa lòng. Phải chăng chỉ tối nay? Chỉ tối nay thôi sao? Đúng vậy. Nếu không kịp tối nay thì rất có thể đây sẽ là lần chia tay vĩnh viễn. Câu thơ khắc khoải một nỗi niềm, một dự cảm xót xa, đồng thời cũng thể hiện một niềm khát khao muốn được giao cảm với đời của thi nhân. Thật không nỗi khổ đau nào hơn là phải sống trong xa lánh, cô độc với người đời. Đối với thi nhân thì đây là một án tử mà anh phải đeo mang, gánh chịu.
Ông sợ cuộc sống của ông không thể kéo dài được nữa, ông sợ mình sẽ không còn cơ hội để về thăm Vĩ Dạ, về thăm những con người nơi xứ Huế. Giữa muôn trùng câu nhớ và vẻ đẹp hữu tình nơi xứ Huế đã nói lên một tình yêu thầm kín của tác giả, một tình yêu kín đáo dịu dàng.
Để cho kỉ niệm đưa tâm hồn mình về với thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử như chìm đắm trong cảnh vật nhưng cũng không thôi trăn trở với tâm trạng của một người luôn mang mặc cảm của tình yêu đơn phương, mặc cảm bệnh tật, mặc cảm bị xa lánh. Và, trước hình ảnh người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo, gần mà như xa, thực mà mơ khiến tác giả phải thốt lên:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
“Khách đường xa” gợi sự xa vắng. “Khách đường xa” ở đây có thể là con người thôn Vĩ, những người du khách hay chính những người giai nhân mà chính tác giả đã từng mơ ước. Với nghệ thuật điệp từ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” gọi ta liên tưởng đến trong giấc mơ khắc khoải mà dường như mỹ nhân đó đang đi xa nhà thơ, nên câu thơ giống như một tiếng lòng thảng thốt. Hình ảnh “áo trắng” kết hợp với ” khách đường xa” trong không gian mơ hồ tựa như trinh nữ. sắc trắng thường đem đến cảm giác thanh thoát tinh khôi. Nhung ở đây, ta lại có cảm giác bất thường. Bởi sắc trắng đó như làm mờ nhòe thị lực của nhà thơ, khiến “nhìn không ra”. Câu thơ chập chờn bâng khuâng, mờ ảo của “sương khói” Vĩ Dạ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Tất cả ý thơ của hai câu đầu tạo nền đề cho hai câu sau, bao dồn nén cho trăn trở, nhức nhối của “sương khói”, của đại từ phiếm chỉ “ai”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong thơ Đường gắn liền với tình cố hương. Ở đây “sương khói” đã làm nhòe đi, đã che khuất bóng người. Còn tác giả thì đã biết mình mắc căn bệnh hiểm nghèo, một bên là cõi sống non tơ và tình thơ hé mở, một bên là nỗi cô đơn, bệnh tật với cõi hư vô đang ám ảnh giày vò. Cuộc đời của Hàn Mặc Tử càng trở nên cay đắng, đau khổ ở trong lòng thể hiện rõ nhất ở câu thơ cuối: Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi tu từ không lời đáp và đó còn là tiếng kêu tuyệt vọng đớn đau, hai đại từ phiếm chỉ “ai” cùng tô đậm thêm tính đa nghĩa cho câu thơ và nhất là đã khơi gợi lên một nỗi niềm u ẩn, mênh mang sâu lắng trong lòng thi nhân. Và đây cũng như là câu trả lời cho câu hỏi đầu bài “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Kết cấu đầu cuối hô ứng tạo nên một bài thơ đặc sắc. với cấu tứ rất đẹp va tình của thi nhân đối với Huế cũng rất sâu sắc. Không chỉ thế bài thơ giúp người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình tha thiết nhưng suốt đời phải sống trong bệnh tật. Ngoài ra, ta cũng cần nhìn nhận đôi chút về đại lừ “ai”, “ai” trong bài thơ có tất cả 4 lần xuất hiện, cả 4 lần đều mơ hồ, ảo ảnh. Đều nói về cái xa vời, khó với, nhà thơ cảm thấy mình hụt hẫng, chới với giữa hư và thực; mộng và ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi trong sương khói.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho to một tứ thơ đẹp : cảnh và người, mộng và thực ,say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ, bao hình ảnh đẹp hội tụ trong 3 khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tuyệt vời. Tuy có ngậm ngùi xót xa nhưng vẫn thiết tha yêu đời, , yêu thiên nhiên. Bài thơ đã tô đậm thêm tình thương, tình yêu, tình người, tình đời và cả tình yêu quê hương đất nước, làm nên một kiệt tác xinh xắn của thi ca Việt Nam. Chế Lan Viên đã nhìn nhận “Mai sau những cái tầm thường mực thước sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”
Đoạn văn mẫu số 2
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa, có sức sáng tạo mạnh mẽ bậc nhất trong phong trào thơ Mới ở Việt Nam những năm 30. Tài hoa là thế nhưng cuộc đời Hàn Mặc Tử là một chuỗi những nỗi buồn, nỗi cô đơn đến ám ảnh. Những tâm sự, suy tư của ông được thể hiện đầy ám ảnh trong những sáng tác thơ văn, đặc biệt thông qua những biểu tượng thơ “máu”, “trăng”, “vầng trăng máu”. Giữa những bài thơ có phần điên loạn, dữ dội ấy vẫn có những bài thơ thật trong sáng, tinh khôi, Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ như thế. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba của bài, hình ảnh vầng trăng một lần nữa xuất hiện nhưng đó không phải vầng trăng máu đầy dữ dội nữa mà ánh trăng thật nhẹ nhàng cũng thật buồn khi thể hiện niềm khát khao tình đời, tình người của người thi sĩ.
Nếu như khổ thơ đầu tác giả Hàn Mặc Tử đã kỳ công vẽ ra bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong trẻo, đắm say lòng người trong ánh nắng của ngày mới, khổ thơ thứ hai là khung cảnh sông nước, mây trời tuyệt đẹp nhưng thấm đượm nỗi đau đớn, xót xa của con người da diết yêu đời nhưng sắp phải lìa xa cuộc đời ấy thì đến khổ thơ cuối của bài, tác giả đã đắm chìm trong thế giới hư ảo với ánh trăng ảo mộng cùng khát khao mãnh liệt đối với cuộc đời.
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Cuộc đời của người thi sĩ là một chuỗi những nỗi buồn không dứt nhưng dù bị cuộc đời vùi dập, tuyệt giao thì tình yêu cuộc đời của người thi sĩ ấy càng trở nên mãnh liệt hơn, tha thiết hơn. Thực tại quá đau đớn, tác giả đã thoát ly hiện tại để trở về với cõi mộng để tìm chút bình yên cho tâm tâm hồn. Cảm xúc bao trùm khổ thơ cuối là màu sắc hư vô, huyền ảo với thực giả lẫn lộn.
Tác giả Hàn Mặc Tử đã nhấn mạnh trạng thái mộng tưởng bằng cách điệp hai lần từ “mơ” “mơ khách đường xa, khách đường xa”. Tuy hoàn toàn chìm đắm trong mộng tưởng nhưng ẩn sâu bên trong giấc mộng ấy lại là khát khao đầy thành thực. Mơ khách đường xa là khát khao được một lần gặp lại người xưa trước khi lìa khỏi cõi đời của tác giả nhưng càng mong mỏi thì giấc mơ càng trở nên xa vời, khắc khoải.
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Trong không gian hư ảo của cõi mộng, hình ảnh áo trắng của “em” như bị lẩn khuất trong cái bằng bạc của sương khói khiến cho thị giác khó có thể tiếp nhận, để phân biệt thực hư “áo em trắng quá nhìn không ra”. Câu thơ thể hiện sự choáng ngợp, nghẹn ngào lại có chút xót của thi sĩ vì dù cố gắng nhưng chẳng thể nhìn rõ ràng, sự tồn tại của em mãi trong thế giới tâm tưởng mà không thể trở thành hiện thực.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đây” có thể là không gian hiện thực của xứ Huế với khung cảnh sáng sớm vẫn còn thấm hơi sương cũng có thể là sương khói mờ ảo của không gian tâm tưởng, nơi tác giả đang chìm đắm với những tâm sự, nỗi đau, sự tuyệt vọng riêng. Sự mờ ảo của không gian cũng làm cho câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà” trở nên khắc khoải hơn, da diết hơn.
Câu hỏi tu từ không có lời giải chứa đựng sự bất an đầy hoài nghi về tình cảm của người con gái xứ Huế dành cho mình, đó liệu có phải chân tình hay chỉ là sự ảo tưởng từ bản thân của nhà thơ. Với tình cảnh hiện tại, liệu rằng tình cảm người xưa có đổi thay. Sự bất an thường xuyên xuất hiện trong những câu thơ của Hàn Mặc Tử “Cảnh xưa còn đó, lòng người đổi thay”.
Như vậy, khổ thơ cuối của bài “Đây thôn Vĩ Dạ” đượm màu sắc đượm buồn, có chút hoài nghi, bất an lại tha thiết chân thành của một tâm hồn cô đơn đang khát khao sống mãnh liệt.
Đoạn văn mẫu số 3
Hàn Mặc Tử là cái tên nổi bật thuộc trường phái thơ siêu thực với quan niệm thi ca độc đáo và ngôn ngữ lạ hóa. Ông gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả bằng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" mang phong cách và hương vị trong trẻo, thiết tha. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cùng niềm khao khát mãnh liệt của trái tim yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người tha thiết. Điều này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất qua khổ thơ kết thúc bài thơ:
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Nếu như khổ thơ trước, nhà thơ diễn tả những mặc cảm, xa cách bằng giọng thơ khoắc khoải, da diết thì đến đây, trái tim người đọc không khỏi xúc động bởi sự gấp gáp, khẩn khoản đầy nghẹn ngào:
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra"
"khách đường xa, khách đường xa" vang lên tiếng gọi chất chứa bao mặc cảm chia lìa. Nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3 càng nhấn mạnh, gia tăng nỗi cách trở chia li lên gấp nhiều lần. Xót xa biết nhường nào, người thương đã trở thành khách đường xa, xa vời, hư ảo. Trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng ấy vừa chợt hiện lên đã vội vàng mờ dần, khuất xa. Khách vốn đã xa vời, hiện vào trong "mơ" lại càng hư ảo. Dường như những hình bóng ấy đẹp đến nhường nào vẫn thuộc về thế giới xa xôi ngoài kia, là điều Hàn Mặc Tử khó lòng chạm tới.
Hình ảnh thơ độc đáo được đặc tả qua chi tiết "áo em trắng quá". Thi nhân choáng ngợp, nghẹn ngào và xót xa bởi lẽ dù khao khát được chạm tới nhưng bệnh tật đã ngăn cách ông với cuộc đời, lạc mất vào cõi hư không "nhìn không ra". Màu trắng ấy không rõ là màu áo của "em" hay mau của những hồi ức xưa cũ chỉ biết rằng nó là sắc trắng mới, tươi trẻ hơn, tinh khôi, tinh khiết thể hiện quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại trong thơ Hàn Mặc Tử.
Câu thơ tưởng chừng vô lý nhưng rất có lý và bất ngờ: "Áo em trắng quá nhìn không ra". Màu trắng choáng hết tâm tư, tình cảm của thi nhân khiến bóng hình trước mắt trở nên mờ nhòe, ảo ảnh. Bài thơ tả cảnh đến đây đã trở thành bài thơ thổ lộ tình yêu đơn phương đầy rung động:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Nơi không gian tâm tưởng, tác giả như đang chìm đắm trong đau thương, tuyệt vọng đến cùng cực để rồi bật thốt lên "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đó là câu hỏi tu từ chất chứa hoài nghi, vô vọng về mối tình đơn phương định sẵn không có đáp án. "Sương khói mờ nhân ảnh" chính là sương khói đang che lấp trong mối tình thi nhân ấp ủ. Đâu còn cảnh thiên nhiên như họa nơi xứ Huế, chỉ còn sương khói che khuất bóng người.
Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" vang lên đầy khắc khoải về tình cảm đơn phương tội nghiệp. Kết hợp với đại từ phiếm chỉ "ai" đa nghĩa càng khiến cho ý thơ mênh mang không xác định. Nhà thơ ước ao được trở về chốn xưa, gặp lại cố nhân. Bài thơ khép lại trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn cuộn trào trong đó niềm khát khao mãnh liệt của thi nhân với cuộc đời với tình người.
Có thể nói, chỉ một khổ thơ ngắn nhưng Hàn Mặc Tử đã sáng tạo thành công những hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm, ngôn ngữ thơ biến ảo giàu âm điệu và chất chứa tâm trạng. Nhịp thơ tha thiết, trong trẻo kết hợp cùng các biện pháp nghệ thuật và câu hỏi tu từ khéo léo. Qua đó giúp nhà thơ phác họa khung cảnh thiên nhiên không tuân theo tính thống nhất về không gian và thời gian nhưng đặc biệt ấn tượng. Đặc biệt bộc lộ tình yêu mãnh liệt của mình với thiên nhiên, cuộc sống, bộc lộ khát khao sống mãnh liệt. Khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" và phong cách thơ Hàn Mặc Tử.
Được sáng tác cách đây gần tám thập kỉ, trong hoàn cảnh nhà thơ cận kề với cái chết nhưng bài thơ với đầy suy tư, khắc khoải đến hiện tại vẫn dễ dàng làm rung động trái tim hàng triệu độc giả. Trân trọng thơ cũng như trân trong và đồng cảm với cái tôi Hàn Mặc Tử - thi nhân tài năng bạc mệnh của thế hệ những nhà thơ Mới.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 25 bài Phân tích khổ 1 trong bài thơ Từ ấy 2024 SIÊU HAY
TOP 20 bài Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng 2024 CHI TIẾT NHẤT
TOP 30 bài Phân tích bài thơ Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 2024 SÚC TÍCH NHẤT
TOP 10 bài Phân tích đánh giá bài thơ bức tranh quê của Hà Thu (2024) HAY NHẤT