TOP 20 bài Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng 2024 CHI TIẾT NHẤT

1900.edu.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh những bài văn mẫu Phân tích khổ 3 Từ ấy đạt điểm cao,bao gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và những bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

PHÂN TÍCH BỨC TRANH TỨ BÌNH NHỚ RỪNG

Sơ đồ tư duy

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Thế Lữ (1907- 1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ

- Quê quán: Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội)

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

   + Ông là nhà thơ tiêu biểu trong thơ mới hiện đại (1932 - 1945)

   + Ngoài viết thơ, Thế Lữ còn viết truyện với nhiều thể loại như trinh thám, truyện kinh dị...

   + Ông cũng hoạt động trên lĩnh vực sân khấu, có công trong xây dựng ngành kịch nói ở nước ta

   + Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000

   + Tác phẩm tiêu biểu: Bên đường Thiên lôi, Mấy vần thơ…

- Phong cách sáng tác: Thơ ông dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những ẩn ý sâu sắc vô cùng.

2. Tác phẩm

2.1. Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (Đoạn 1 + 4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú.

- Phần 2 (Đoạn 2 + 3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ.

- Phần 3 (Đoạn 5): Niềm khát khao tự do mãnh liệt.

2.2. Nội dung chính: Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú cũng là tâm trạng chung của người dân Việt nam bị đàn áp và bị cướp đi cuộc sống tự do. Họ khao khát có một cuộc sống tự do vốn dĩ họ có quyền có được.

2.3. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.

2.4. Thể thơ: Tám chữ.

2.5. Giá trị nội dung: Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.

2.6. Giá trị nghệ thuật:

- Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình.

- Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu tính biểu cảm.

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Đôi nét chính về tác giả Thế Lữ: người cầm lá cờ chiến thắng cho phong trào Thơ mới…

- Giới thiệu tác phẩm Nhớ rừng của Thế Lữ: nêu khái quát tư tưởng cùng nội dung của bài thơ.

- Dẫn dắt đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng.

II. Thân bài

- Bức tranh đêm trăng và sự say sưa của con hổ.

- Bức tranh ngày mưa và sự điềm nhiên của chúa sơn lâm.

- Bức tranh lúc bình minh với sự uy nghi của con hổ.

- Bức tranh chiều tàn cùng những sắc màu bi tráng.

III. Kết bài

- Khái quát lại toàn bộ giá trị nội dung và nghệ thuật điển hình trong tác phẩm.

- Nhấn mạnh lại ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Nhớ rừng.

- Khẳng định bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng là một điểm nhấn mang đến giá trị lớn cho tác phẩm này.

Top 6 bài Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng hay nhất (ảnh 1)

Bài phân tích mẫu

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 1

“Thi trung hữu họa” Các cụ xưa đã nói như thế. Thế Lữ bằng chất liệu ngôn ngữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng” của mình. Bức tranh một vẽ chân dung tâm hồn hổ vào một đêm trăng đầy mơ mộng.

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”

Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta không biết bao lần ngây ngất trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng.

Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cửi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài.

Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời : giấc ngủ “tưng bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động.

Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Bức tranh này khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng tươi của nắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc này cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ. Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.

Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 2

Mười sáu câu đầu bài thơ Nhớ rừng là một bức tranh tứ bình đặc sắc. Thế Lữ đã vẽ lên bốn cảnh rừng núi với những vẻ đẹp khác nhau, trong những khoảnh khắc khác nhau.

Trước tiên là cảnh đêm vàng rực rỡ “ta say mồi đứng dưới ánh trăng tan”. Cảnh vật ở đây thật thơ mộng, lãng mạn: không gian trời nước như được nhuộm vàng bởi ánh trăng huyền ảo. Từ "vàng” ở đây có thể hiểu theo nghĩa là: huy hoàng, vàng son. Đó chính là thời kì huy hoàng, thời vàng son của chúa sơn lâm. Hổ như một thi sĩ thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng giữa rừng suối. Mặc dù vậy, ở nó vẫn toát lên dáng dấp của một mãnh thú với sức mạnh phi thường khi” uống ánh trăng tan. Cảnh ở đây vừa có cái thơ mộng lại vô cùng huy hoàng.

Bức tranh thứ hai là cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”. Đó là những ngày mưa dữ dội, bốn phương ngàn như xoay chuyển, trắng xóa một màu mưa. Và ở đây, hổ là một lãnh chúa đứng lặng ngắm giang sơn của mình thay màu áo mới. Cảnh ở đấy thật dữ dội nhưng cũng thật tráng lệ. Nó gợi sự đổi thay và gợi cả uy quyền của chúa sơn lâm.Càng tráng lệ bao nhiêu thì con hổ càng đau xót bấy nhiêu với thực tại tù túng, giam cầm.

Bức tranh thứ 3 là cảnh “bình minh cây xanh nắng gội”. Con hổ như một bậc vương giả trong giấc ngủ tưng bừng với tiếng ca ru là khúc nhạc rừng của ngàn vạn bầy chim.

Bức tranh thứ 4 là những hoàng hôn nắng đỏ qua con mắt "chúa tể muôn loài”. Đó là những chiều "lênh láng máu sau rừng” và vầng mặt trời sắp lặn chỉ là một đối thủ bé mọn đang hấp hối trước con mắt đầy uy lực của chúa sơn lâm

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”

Về nghệ thuật, ta thấy Thế Lữ sử dụng những hình ảnh rất mới lạ so với thơ ca đương thời như “mảnh mặt trời”. Nếu như thay từ “chết” bằng từ” lặn” và bỏ đi từ “mảnh” thì câu thơ sẽ trở nên lạc lõng bởi nó không phù hợp với logic tâm trạng và tầm vóc của vị chúa tể rừng già. Chính câu thơ này đã nâng tầm vóc của con hổ, của cả đoạn thơ lên mức phi thường và kỳ vĩ. Bên cạnh đó đoạn thơ có những hình ảnh phi thường, độc đáo, cách sắp xếp thời gian phong phú; sử dụng màu sắc độc đáo. Những yếu tố đó góp phần tạo nên một bức tranh tứ bình hiện đại mà vô cùng giá trị. Ở đây, ta còn thấy, tác giả sử dụng đại từ “ta” lặp lại nhiều lần. Nó có tác dụng thể hiện sự kiêu hãnh, khí phách ngang tàng của con hổ, đồng thời tạo nhạc điệu trầm bổng cho câu thơ. Đoạn thơ còn sử dụng liên tiếp các câu nghi vấn để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Cách sử dụng câu hỏi tư từ với từ hỏi “đâu” và câu cảm thán "Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu” cho thấy sự gắn bó máu thịt của con hổ với núi rừng - nơi nó từng được sống đúng với tư thế dũng mãnh, hào hùng của một vị chúa tể. Đồng thời, những câu hỏi ấy cứ dồn dập mỗi lúc một xoáy sâu vào tâm can, cho thấy nỗi quằn quại, nhớ tiếc quá khứ tới đớn đau tột cùng của con hổ. Bởi lẽ, tất cả những hình ảnh huy hoàng, lẫm liệt kia chỉ là "những ngày xưa” là thời “nay còn đâu”. Tác giả còn sử dụng nghệ thuật đối lập: hình ảnh thiên nhiên và dáng vẻ của con hổ hoàn toàn đối lập với hình ảnh con hổ nằm dài trong cũi sắt đầy ngao ngán và bất lực ở đoạn một. Quá khứ càng hào hùng bao nhiêu thì hiện thực càng xót xa tủi nhục bấy nhiêu. Nó khiến cho nỗi khát khao được sống tự do của con hổ càng thêm nhức nhối.

Có thể thấy bộ bức tranh tứ bình này là những bức tranh thiên nhiên đẹp một cách huy hoàng và đầy bí ẩn. Con hổ hiện lên ở trung tâm mang những dáng dấp khác nhau nhưng đều đầy uy lực. Đây cũng chính là những câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 3

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

 “Nhớ rừng” được biết đến là một tác phẩm tiêu biểu của Thế Lữ đã góp phần giúp cho thi ca Việt Nam có những bước đi đầu tiên đầy hứa hẹn trong phong trào Thơ mới. Bài thơ đã mượn lời con hổ ở vườn bách thú nhằm diễn tả nỗi chán ghét thực tại tù túng của một bộ phận trí thức tiểu tư sản. Trong bài thơ, có những dòng tác giả đã tái hiện trước mắt người đọc sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên núi rừng – nơi từng là chốn tung hoành ngang dọc của của con hổ ngày xưa. Đặc biệt, với 10 câu thơ ở đoạn thơ thứ ba, tác giả đã tạo nên một bức tranh tứ bình vừa có sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, vừa có sự uy nghi, lẫm liệt của vị chúa tể…

Bức tranh đêm trăng, bức tranh ngày mưa hay bức tranh lúc bình minh là những ý chính cần phân tích khi tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, thì bức tranh đầu tiên xuất hiện chính là hình ảnh hổ trong đêm trăng thơ mộng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”

Cảnh đêm trăng hiện hữu trong không gian tràn đầy màu sắc ánh vàng của vầng trăng trên cao đang soi chiếu khắp nhân gian. Đặc biệt khung cảnh khi có sự xuất hiện của dòng suối với tiếng chảy róc rách lại càng trở nên sinh động, tươi mát. Trước cảnh ấy con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong.

Có lẽ cái làm cho hổ kia phải say không chỉ đơn thuần bởi miếng mồi ngon mà còn là cái say trước sự lung linh, kì ảo của khung cảnh đang hiện hữu trước mắt. Hổ say mồi nhưng càng thỏa mãn hơn khi được uống vào những hớp nước có sự soi vàng của bóng trăng. Bao nhiêu nét gân guốc, dữ tợn của chúa tể vùng sơn lâm nhờ có cảnh đẹp hình như cũng trở nên mềm mại, bình thản hơn để có thể hòa vào cảnh vật. Tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy tất cả những điều trên đã tạo nên sự thơ mộng, kì ảo của một bức tranh có sự hài hòa của cả cảnh và vật.

Cảnh có đẹp, có thơ mộng và diệu kỳ đến nhường nào, hổ có bao lần được hòa mình vào “những đêm vàng bên bờ suối” để “say mồi đứng uống ánh trăng tan”, nhưng thực tại những giây phút sảng khoái cũng chỉ còn trong trí nhớ. Sự “say mồi” đầy thỏa mãn hay tư thế “đứng uống” chễm chệ trong những đêm tự do ấy nay đã lùi xa vào quá khứ nhưng với hổ thì những kỉ niệm và cảm giác ngây ngất ấy vẫn hiển hiện rất rõ rệt như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua.

Ở bức tranh thứ hai, tác giả lại dùng ngôn từ của mình vẫn để thể hiện hình ảnh trung tâm là con hổ trên phông nền của khung cảnh ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Chúa sơn lâm lúc này đã không còn say sưa bên dòng suối mát lành và miếng mồi hấp dẫn như trong bức tranh trước đó. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như cũng trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp lối khiến cho vạn vật cũng rung chuyển theo. Ấy thế mà vị chúa tể của ta vẫn không hề có một chút nao núng trước những sự gào thét dữ dội của thiên nhiên và sự ngả nghiêng của vạn vật.

Hổ vẫn hiên ngang, điềm tĩnh, bệ vệ trước cảnh ấy để thu vào trong mắt tất cả những chuyển biến của đất trời. Mưa gió càng tác động lên tất cả mọi thứ mạnh mẽ, đáng sợ bao nhiêu thì hổ ta vẫn giữ một thái độ của một bậc vương giả. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy trên hết, hổ còn xem việc “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” trên thực chất là sự tác động để “giang sơn ta đổi mới”. Thế nên, trong trạng thái “lặng ngắm” kia, hổ thực chất đang đứng ở tư thế làm chủ vạn vật.

Con hổ trong những ngày mưa to gió lớn chốn rừng thiêng vẫn giữ phong thái điềm nhiên, tĩnh tại ấy lại chỉ là một hình ảnh của thời đã qua. Hổ giờ đây bị giam hãm trong chốn ngục tù, dù có râm mát, dù không bị tắm ướt bởi mưa nhưng đó chưa bao giờ là điều nó mong muốn. Ngày trước khi còn tự do giữa núi rừng đất trời và có lúc phải đón những cơn mưa rừng xối xả, dữ dội nhưng chúa sơn lâm chưa bao giờ phiền lòng vì điều đó.

Ngược lại, trong cảnh mưa tuôn mịt mờ ấy, nó lại càng cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng để thấy thiên nhiên có thách thức như thế nào, hổ vẫn giữ được bản lĩnh của riêng mình. Khi bị giam cầm, bản lĩnh ấy vẫn còn và chỉ tiếc là nó lại không được thể hiện như trong chính nơi nó cần thuộc về.

Ở câu thơ thứ ba, thứ tư của đoạn thơ, tác giả đã giúp cho ta nhìn thấy sự tươi mới, rộn ràng của khung cảnh đất trời trong khoảnh khắc của ngày mới:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Ngày mưa qua đi như làm cho bầu trời buổi sớm thêm phần trong trẻo, tươi sáng. Trong khung cảnh ấy, cây cối sau khi được tắm mát trong những trận mưa rừng đã đầy lại được gội mình trong nắng mới nên càng trở nên tươi tắn và tràn đầy sức sống. Góp vào sức sống bừng lên trên từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca rộn rã của bầy chim rừng. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta nhận thấy trong khung cảnh ấy, hổ xuất hiện trong giấc ngủ, nhưng lại là giấc ngủ “tưng bừng”.

Nếu trong đêm khi tất cả mọi vật đều sâu giấc thì hổ thức để say sưa cùng vũ trụ, những ngày mưa ai ai cũng tìm nơi ẩn trú thì hổ “lặng ngắm giang sơn” và giờ đây khi bình minh ló dạng thì hổ chìm vào giấc ngủ. Đặc biệt, vị chúa sơn lâm lại còn được dỗ giấc bằng không khí mát mẻ và cả những âm thanh tươi vui của vạn vật.

Có thể thấy, khi sống trong môi trường của mình, hổ rất đỗi tự do vì có thể tự ý làm những điều mình muốn. Nó luôn đứng ở vị thế chế ngự đầy uy nghi và có thể chi phối kẻ khác chứ không bao giờ chịu phụ thuộc. Hình ảnh hổ lúc đó khác hẳn với tình cảnh bây giờ: không chỉ “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” mà còn phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”, “với cặp báo chuồng bên vô tư lự”.

Bình minh qua, ngày tàn là thời khắc hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh thứ tư của bài chính là diễn tả thời khắc ấy của cảnh rừng. Đây là bức tranh cuối cùng nhưng có thể gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ cũng có thể là màu của ánh sáng mặt trời. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng sẽ thấy nếu như ban ngày, mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh sáng xuống nhân gian. Sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy mà vận hành. Đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy khoảng thời gian mặt trời lặn xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng, vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy để:

“Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”

“Bí mật” ấy phải chăng chính là quyền lực từ tay vũ trụ. Hổ muốn chớp lấy cơ hội để đoạt được quyền lực ấy mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó.

Khát khao tuy to lớn, khung cảnh trong bốn bức tranh tuy hùng vĩ, nguy nga nhưng chỉ là những hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiển hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con hổ đối với những gì nó đã trải qua.

Thời oanh liệt của những ngày xưa cũ được tung hoành ngang dọc thực chất đã khép lại và có khi không bao giờ trở về. Với vị chúa tể, sau tất cả có lẽ còn lại chỉ là một tiếng than u uất không có sự đáp hồi:

“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Đó là lời than của con hổ, là nỗi niềm của nhà thơ nhưng thực chất cũng là tiếng lòng, tâm trạng chung của những con người phải sống trong sự kìm kẹp, giam hãm. Đối với thời buổi người dân Việt Nam phải sống cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ đã thay họ thể hiện niềm tiếc nuối về những chiến công vẻ vang chống giặc ngoại xâm của một thời oanh liệt của dân tộc mình. Đó có lẽ lý do khiến bài thơ được đón nhận rất nồng hậu, say sưa ngay từ khi ra đời.

Những câu thơ khắc họa bốn bức tranh về thiên nhiên núi rừng và sự hiện hữu của chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng tuyệt bút của bài thơ “Nhớ rừng”. Thông qua việc sử dụng điệp ngữ, câu hỏi tu từ và hàng loạt các hình ảnh gợi màu sắc, đường nét của cảnh vật thiên nhiên, Thế Lữ không chỉ làm xuất hiện trước mắt người đọc tuyệt phẩm diễn tả sự kì vĩ, hùng tráng của chốn rừng thiêng mà còn làm bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của chúa tể sơn lâm. Đó cũng chính là tâm sự, nỗi niềm chung của con người thời đại…

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 4

Thế Lữ không những là người cầm lá cờ chiến thắng cho Thơ mới mà còn là nhà thơ tiêu biểu nhất cho phong trào Thơ mới. Thế Lữ có một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn. “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm mở đường cho sự thắng lợi của Thơ mới.

Để đem lại thành công cho bài thơ, với năng lực của một người họa sĩ Thế Lữ đã tạo dựng được một bức tranh tứ bình đặc sắc. Tranh tứ bình là cách khái quát nghệ thuật mang tính ước lệ thời xưa bởi họ quan niệm tứ bình là một thế giới hoàn chỉnh. Có rất nhiều cách để xây dựng tứ bình. Theo dòng thời gian lưu chuyển có xuân, hạ, thu, đông; phương hướng có đông, tây, nam, bắc; nghề xưa có ngư, tiều, canh, mục … Tứ bình xuất hiện đầu tiên trong hội họa phương Đông cổ điển rồi mới ảnh hưởng đến thơ, ca.

Dùng tứ bình tả cảnh người viết vừa thâu tóm được nét đặc trưng vừa có điều kiện để bao quát toàn cảnh. Dùng tứ bình chưa phải là điều thật mới nhưng quan sát kĩ ta vẫn thấy những sáng tạo riêng của Thế Lữ. Bốn bức tranh trong bộ tứ bình này đều là bốn bức họa của cùng một con hổ, khái quát trọn vẹn thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Trong bốn bức tranh này tác giả đã để chúa sơn lâm đối diện với tạo hóa vô biên.

Bức thứ nhất là cảnh đêm vàng bên bờ suối:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”

Hổ gọi những đêm trăng là đêm vàng bởi khung cảnh đầy trăng, con hổ cũng khoác lên mình sắc áo vàng trăng. Cách gọi ấy khiến cho những đêm trăng trở nên huyền ảo hơn. Với hổ giờ đây những đêm trăng ấy quý giá vô ngần bởi đó là đêm tự do và ảo mộng. Hổ say mồi là bản năng của mãnh thú nhưng chúa sơn lâm còn say trăng vàng, sau vì uống ánh trăng tan trong nước suối đại ngàn. Khung cảnh im lặng vừa ghê rợn, vừa kì ảo quyến rũ. Thế Lữ đã miêu tả chân thực tập tính của loài hổ và đem đến cho người đọc những cảm nhận mới lạ. Con hổ cũng biết rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Bức thứ hai là những ngày mưa dữ dội:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Mưa dữ dội làm rung chuyển cả bốn phương trời, những trận mưa như thế có thể làm kinh hoàng những con thú hèn yếu nhưng chúa sơn lâm thì không mảy may sợ hãi trước uy lực của trời đất. Hổ điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới. Dáng vẻ của hổ chứa đựng một bản lĩnh vững vàng và một sức mạnh chế ngự thiên nhiên.

Bức thứ ba là cảnh tươi sáng tưng bừng của bình minh:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Đêm vạn vật chìm trong giấc ngủ thì hổ thức cùng vũ trụ trăng, sao. Những ngày mưa rung chuyển núi rừng, hổ điềm nhiên ngắm cảnh trời đất đổi thay. Bây giờ vạn vật thức dậy cùng mặt trời, cây xanh, nắng gội, chim chóc hót ca thì hổ vẫn ngủ. Uy quyền của chúa sơn lâm khiến hổ muốn gì được nấy. Từ láy “tưng bừng” cho thấy giấc ngủ của hổ thật đặc biệt.Cảnh tưng bừng rộn rã ở ngoài kia chỉ khiến cho giấc ngủ của hổ thêm say, thêm đẹp.

Bức thứ tư là cảnh hoàng hôn.

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Mấy chữ “lênh láng máu sau rừng” thật dễ sợ. Nó gợi cho ta cảnh tượng chiến trường sau một cuộc vật lộn dữ dội. Đó là máu của một con thú rừng xấu số nào đó ư? Không phải đó là máu của mặt trời. Ánh mặt trời tà dương qua cảm nhận của thú dữ mang sắc máu lênh láng đỏ.Bức tranh hoàng hôn rực rỡ trong gam màu đỏ: đỏ của mặt trời gay gắt, đỏ của máu lênh láng. Chữ "chết” biến mặt trời thành một sinh thể, mặt trời không còn là khối cầu lửa vô tri, vô giác bất động giữa không trung mà thành một con thú.

Hình thức điệp ngữ kết hợp với câu hỏi tu từ đem đến cảm nhận bốn bức tranh là bốn nỗi hoài niệm nuối tiếc. Bốn câu thơ vừa lặp lại, vừa tăng tiến. Có thể nói đây là đoạn thơ đoạn thơ đặc sắc nhất trong "Nhớ rừng”. Ở những nét bút tạo hình của Thế Lữ vừa có họa pháp của người họa sĩ, vừa có thi pháp của trường thi lãng mạn. Với đoạn thơ này "Nhớ rừng” đã trở thành một khúc trường ca dữ đội biểu hiện niềm khao khát tự do của con người.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 5

Tứ bình là một nét tạo hình rất quen thuộc và phổ biến từ cổ điển. Ngày xưa, người ta thường khái quát một hiện thực một cách trọn vẹn qua bộ tranh với bốn bức. Vì thế, tự thân tứ bình chính là một cấu trúc, một chỉnh thể, một thế giới hoàn hảo. Từ hội họa, tứ bình đã được khai thác và đưa vào nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác, đặc biệt là trong văn thơ.

Có thể dễ dàng nhận thấy bức tranh tứ bình trong Chinh phụ ngâm ở những phân đoạn thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người chinh phụ. Hay trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tâm trạng đau đớn, hãi hùng của nàng Kiều cũng được thể hiện một cách đặc sắc qua tứ bình ở điệp khúc “buồn trông…”. Nếu vậy, dùng đến tứ bình hẳn chưa phải là điều mới lạ. Tuy nhiên, trong “Nhớ rừng”, điều đáng nói là bức tranh tứ bình được vẽ nên đều là những chân dung tự họa khác nhau của cùng một vị chúa tể rừng xanh. Từ đó, bức tranh đã khái quát một cách trọn vẹn về cái thời oanh liệt của chúa sơn lâm.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Lối tạo hình bằng thơ đã khiến đoạn thơ trên trở thành đoạn tuyệt bút của Nhớ rừng. Bốn bức tranh mang những sắc màu, khung cảnh khác nhau đã diễn tả trọn vẹn nỗi hoài niệm đầy tiếc nuối, đầy uất hận. Giọng điệu của loài chúa sơn lâm ngày càng trở nên oán than, dữ dằn khi sử dụng những câu hỏi tu từ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.

Bức tranh đầu tiên hiện lên với vẻ đẹp rất đỗi thi vị:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đọc câu thơ, ta như liên tưởng đến thứ màu sắc vàng lóng lánh nên thơ của ánh trăng in trên dòng suối vắng nơi núi rừng hoang vu. Đó chính là những kỷ niệm không bao giờ có cơ hội trải qua trong những ngày tháng tiếp theo của con hổ khi sống trong cảnh tù đày như hiện tại - một quá khứ vàng son. Loài chúa sơn lâm hiện lên như một thi sĩ của chốn lâm tuyền, dáng vẻ hiên ngang uống ánh trăng tàn một cách thi vị.

Bức tranh thứ hai vẽ nên cảnh núi rừng hùng vĩ những ngày mưa cùng sự điềm nhiên của loài chúa sơn lâm.

Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Gam màu vàng giờ đã nhường chỗ cho gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng vương chủ của núi rừng giờ đang đứng hiên ngang phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh giang sơn đang thay da đổi thịt dưới sự trị vì của mình. Đó chính là bóng dáng đầy ưu tư, trang nghiêm và kiêu hãnh - bóng dáng chỉ có trong quá khứ lừng lẫy của chúa sơn lâm.

Đến bức tranh thứ ba, cảnh cơn mưa đã chuyển sang rạng đông. Từ cái gam màu xám bạc, nay toàn cảnh đã trở nên rạng rỡ hơn khi được phủ bởi gam màu sắc thắm của ánh bình minh. Chúa sơn lâm như một lãnh chúa đang nghiễm nhiên trong giấc ngủ trễ tràng. Ngày đã lên, chúa sơn lâm vẫn nhấm nháp hưởng thụ cái lạc thú trong vương quốc của riêng mình:

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Khung cảnh núi rừng tràn ngập trong màu xanh và ánh nắng mặt trời, còn loài chúa sơn lâm thì đang ngủ ngon lành trong khúc nhạc tưng bừng của chim muông một cách uy nghi. Bức tranh núi rừng hiện ra với nhiều màu sắc và âm thanh một cách sống động, chân thực. Đó cũng chính là sự hoài niệm những tháng ngày tự do, uy nghi sống giữa thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ của chúa sơn lâm.

Bộ tứ bình khép lại bằng bức tranh bi tráng của hoàng hôn:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Giọng điệu của chúa sơn lâm không còn là sự thở than nữa, mà nó đã trở thành lời chất vấn đầy giận dữ khi hoài niệm về quá khứ và nhìn lại thực tại đau thương. Tư thế của chúa sơn lâm cũng vì thế mà thay đổi, trở thành một tư thế kiêu hùng của loài bạo chúa. Gam màu hiện tại cũng thay đổi sang gam màu máu.

Qua đôi mắt của chúa sơn lâm, ánh mặt trời của hoàng hôn đỏ rực như sắc máu. Dường như trong chốn hùng vĩ ấy, chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất có thể phô bày quyền uy sánh vai cùng với nó. Nhưng mảnh mặt trời kia cũng đang hấp hối, gục ngã, lênh láng máu dưới con mắt ngạo mạn đầy khinh bỉ của loài mãnh thú. Mặt trời kia cũng chỉ là thứ tầm thường và quyền uy của chúa sơn lâm dường như bao trùm của vũ trụ khiến mặt trời cũng phải sợ hãi lùi bước dần về sau.

Bức tứ bình cuối cùng như vẽ lại bước chân ngạo nghễ của loài thú hung mãnh dẫm đạp lên cả bầu trời. Bóng dáng con hổ trùm kín vũ trụ, như dẫm nát mặt trời chính là một trong những hình ảnh dữ dội và oai hùng nhất diễn tả quyền lực của kẻ thống trị vũ trụ.

Bộ tứ bình với bốn bức tranh diễn tả những cảnh khác nhau đã tạo nên bốn khoảnh khắc hoành tráng nhất của loài chúa sơn lâm. Con hổ như trung tâm của bức tranh, mà nền bức tranh chính là những phông cảnh hùng vĩ nơi núi rừng hoang dại đại ngài.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ - Mẫu 1

Thế Lữ đã được biết đến với vai trò như “người đặt viên gạch đầu tiên cho phong trào Thơ mới”. Thơ ông như một luồng gió lạ, khiến người ta biết say mê cái đẹp của cuộc sống, biết hi vọng vào cái sáng lạn của cuộc đời. Thế mới biết hết cái uy phong của một “viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ” lẫm liệt biết chừng nào ! Cái uy phong của “ngôi sao mới” ấy đã được thể hiện rõ trong bài thơ Nhớ rừng – một thi phẩm nổi tiếng của ông.

Nếu hồn thơ Thế Lữ là “cây đàn muôn điệu” thì Nhớ rừng chính là điệu thơ nổi bật nhất của ông. Giọng điệu bao trùm thi phẩm là sự bi tráng, là “khúc trường ca dữ dội” nói lên bi kịch của cả một thời đại. Bài thơ dựng lên hai khoảng không gian, đối lập : sự hùng vĩ của thiên nhiên và sự chật hẹp, tù túng của vườn bách thú nơi con hổ đang sống. Nét bút lãng mạn của Thế Lữ đã nâng sự đối lập đầy tính bi kịch đó lên để tạo ra âm hưởng hào sảng, kì vĩ cho bài thơ, nổi bật là hình ảnh bộ tranh tứ bình tinh xảo và độc đáo.

Đầu tiên là bức tranh rừng núi trong đêm:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.

Một “đêm vàng” bên bờ suối, hình ảnh ẩn dụ ở đây thật lộng lẫy và huyền ảo. Nhà thơ không nói “đêm trăng” mà lại nói là “đêm vàng” khiến cho cảnh vật bỗng trở nên huy hoàng, rực rỡ hơn bao giờ hết. Ánh trăng chiếu xuống khu rừng làm cho mọi vật như lung linh và nhuộm một sắc màu vàng óng lấp lánh.

Tưởng như trên thế gian này có bao nhiêu vàng bạc, trời hút lên rồi trút hết xuống khu rừng. “Uống ánh trăng tan” cũng là một hình ảnh ẩn dụ đẹp. Ánh trăng chiếu xuống mặt nước, mặt nước lung linh in hình bóng trăng và ánh trăng dường như tan ra trong dòng nước, nó loãng ra, trải dài trên mặt nước mênh mông, bát ngát, lấp lánh, kì ảo.

Con hổ uống nước suối mà như uống ánh trăng trong cơn say mồi. Hình ảnh này đã gợi cho ta nhớ đến câu ca dao cổ: Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? Thế Lữ đã thổi hồn thi sĩ vào trái tim con mãnh chúa, nếu không như thế thì làm gì có “đêm vàng”, làm gì có “uống ánh trăng tan”. Thiên nhiên đẹp và quyến rũ quá làm cho giá trị của buổi đêm hôm ấy dường như tăng lên gấp bội phần, càng làm cho vị chúa tể thêm mơ màng, say sưa trong giấc mộng.

Tiếp theo là bức tranh về cơn mưa rừng. Con hổ – với sự trầm mặc của một nhà hiền triết, lặng im ngắm nhìn “giang sơn” mà hổ là bá chủ. Những giọt mưa dội xuống làm tươi mát cả khu rừng, cả rừng núi như thay đổi với một sức sống mới dạt dào, tràn trề hơn bao giờ hết.

Có một cái gì đó rất trong trẻo, tinh khôi hiện lên trong hình ảnh thơ này. Con thú giờ đã không chỉ còn là một thi sĩ nữa mà còn có cái nhìn của một triết gia, một nhà thông thái. Bức tranh này mang vẻ đẹp của sự nhẹ nhàng, thanh khiết và tinh tế đến kì lạ. Cùng với bức tranh thứ nhất, nó đã giúp ta hiểu được sự muôn hình muôn vẻ của thiên nhiên hằng lưu dấu vết trong tâm hồn con hổ.

Từ vai trò của vị đế vương mà giang sơn là cả núi rừng mênh mông và thăm thẳm. Buổi bình minh ở chốn hoang dã tươi rói sắc màu và thánh thót, du dương âm thanh của muôn thú trong con mắt của vị chúa sơn lâm. Trên ngai vàng ngự trị, hổ ta từ từ thưởng thức cái thú vui tiệc rượu của một đấng “quân vương” với cảnh bình minh cây xanh làm màn che trướng rủ, chim chóc trong rừng là những cung nữ chuyên phục vụ chúa sơn lâm bằng những điệu múa uyển chuyển và tiếng ca réo rắt đến vui tai của mình.

Tất cả lại từ từ đưa vị chúa tể vào giấc ngủ êm ái và dịu ngọt. Nền tranh rạng rỡ bởi màu sắc của ánh bình minh, bởi hương rừng ngan ngát cỏ hoa và tiếng ca thánh thót, ngân nga của chim chóc và muông thú trong rừng. Mỗi vẻ đẹp ở đây đều thấm đẫm hơi thở của tự do làm cho bậc “quân vương” say đắm, mê mẩn đến ngẩn ngơ!

Bức tranh cuối cùng là cảnh hoàng hôn nơi rừng chiều. Giọng điệu thơ không còn luyến tiếc, thở than, mà trở nên mạnh mẽ, đầy chất vấn, giận dữ giữa quá khứ và hiện tại. Con hổ hiện lên trong một tư thế kiêu hùng của một tên bạo chúa tự do và khát máu. Mấy chữ “lênh láng máu” thật là ghê gớm.

Nó lại làm cho ta liên tưởng từ máu của một con vật tội nghiệp nào đấy đến máu của ánh tà dương khi mặt trời buông sắc đỏ vào buổi chiều lênh láng. Dường như sắc đỏ này đã nhuộm màu thời gian. Máu đã trở thành kỉ niệm đáng nhớ trong trái tim con hổ. Nếu rừng núi là kẻ thù thì “sau rừng” gợi ra một không gian bao la, vô tận của riêng mặt trời và cũng đồng thời làm hiện ra vẻ bí hiểm của nơi diễn ra trận chiến quyết liệt giữa “chúa tể ở trên cao” và “mãnh chúa dưới rừng thẳm”.

Động từ “chết” khiến mặt trời dường như đã trở thành một vật thể sống, không còn là một khối cầu lửa vô tri vô giác nữa. Mặt trời đã là một con thú thảm hại dưới ánh nhìn kiêu bạc của vị chúa sơn lâm. Ba chữ “mảnh mặt trời” dường như đã cho ta biết rằng mặt trời đã hoàn toàn trở nên tầm thường, không sánh được với kì phùng địch thủ của mình trong cuộc thi tài cao thấp quyết liệt để chiếm lấy “riêng phần bí mật”, tầm vóc con dã thú ở đây kì vĩ trên cả vũ trụ…

Bức tứ bình cuối cùng này đã thể hiện bàn chân ngạo nghễ, oai linh tột cùng của một kẻ thống trị vũ trụ. Trước chúa sơn lâm, vầng thái dương chỉ còn là “mảnh mặt trời” bé nhỏ mà thôi. Con hổ giờ đã trở thành chúa tể của cả muôn loài. Sự tự do vĩ đại thế này hỏi sao con hổ không “gặm” căm hận khi bị giam hãm được?

Những nỗi nhớ hiện lên dồn dập như trong một cuốn phim. Liên tiếp những “nào đâu”, “đâu những”,… khiến cho nỗi nhớ “ngày xưa” thật da diết và khắc khoải. Trong không gian hùng vĩ và nên thơ đầy “bóng cả cây giả”, thì hổ mơ mộng như một thi sĩ, trầm tư như một hiền nhân, quyền uy như một đế vương và quyết đoán như một vị chúa tể.

Cái ngày xưa ấy đã qua và sẽ không bao giờ có thể trở lại được nữa. Những gì là vinh quang tột đỉnh sẽ chẳng có ý nghĩa khi không có tự do. Sau những hình ảnh khoáng đạt trên là một nỗi buồn sâu nặng, đau đớn. Sự tuyệt vọng của con hổ đặc quánh và đắng chát ở câu thơ: Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nhớ rừng không chỉ có sức hấp dẫn của một thi phẩm, mà nó còn có vẻ đẹp quyến rũ của một kiệt tác hội hoạ hay là giai điệu diệu kì của đàn ca! Lời thơ biến hóa một cách tự nhiên. Giọng điệu thơ cháy bỏng nỗi nuối tiếc, về quá khứ thì giọng thơ hùng tráng dữ dội, quay về với thực tại thì giọng thơ lại trở nên buồn tẻ, ngao ngán! Điều đó kết tụ thành nỗi thống thiết, tuyệt vọng ở câu thơ cuối cùng: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Trong một đoạn trích thơ, Nhớ rừng đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, nó như một bản tuyên ngôn giành quyền sống của Thơ mới. Khép trang sách lại, tâm trí ta như vương vấn với những vẻ đẹp của thiên nhiên với khát vọng tự do cháy bỏng.

Phải chăng khi viết bài thơ này, tác giả không chỉ muốn thể hiện hoàn cảnh trớ trêu của con hổ mà còn muốn nói lên nỗi khao khát tự do mãnh liệt, nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường, giả dối và lòng yêu nước thầm kín của người dân Việt Nam lúc bấy giờ ? Khát vọng cao cả ấy vẫn mãnh liệt đến mức đủ sức chinh phục và ngân vọng mãi trong trái tim người đọc mọi thời.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 6

Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ không chỉ là một “khúc trường ca dữ dội” thể hiện tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm mà còn là một họa phẩm hoành tráng từng bước làm nổi hằn lên trên mặt bằng của câu chữ hình tượng vị “chúa tể cả muôn loài”. Tính tạo hình được thể hiện rất đặc sắc trong bài thơ đặc biệt là thông qua bức tranh tứ bình.

Tứ bình là một lối tạo hình quen thuộc từ cổ điển. Người xưa thường khái quát một hiện thực toàn vẹn nào đó vào bộ tranh gồm bốn bức. Cho nên tự thân tứ bình là một cấu trúc, một chỉnh thể, một thế giới. Thời gian thì Xuân Hạ Thu Đông, thảo mộc thì Tùng Trúc Cúc Mai, nghề nghiệp thì Ngư Tiều Canh Mục, nghệ thú thì Cầm Kỳ Thi Họa.v.v... Nảy sinh từ hội họa, về sau tứ bình xâm nhập vào nhiều nghệ thuật khác. Người đọc thơ có thể thấy ở Chinh phụ ngâm, những đoạn như nỗi nhớ chồng của nàng chinh phụ diễn ra trọn vẹn khi “trông bốn bề”, mỗi bề là một phía, một cung bậc, một nông nỗi của nhung nhớ. Tâm trạng buồn nản, hãi hùng của Thuý Kiều trước lầu Ngưng Bích cũng diễn thành tứ bình với điệp khúc "buồn trông”... Vậy, dùng tứ bình thì chưa phải là gì thật đáng nói. Đáng nói là: cả bốn bức tứ bình ở đây đều là những chân dung tự họa khác nhau của cùng một con hổ. Nó đã khái quát trọn vẹn về cái “thời oanh liệt” của chúa sơn lâm.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

...

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Đọc đoạn thơ ta dễ thấy đây là đoạn tuyệt bút của "Nhớ rừng” mà tiêu biểu nhất là lối tạo hình bằng thơ. Bốn bức là bốn nỗi hoài niệm đầy tiếc nuối, uất hận. Đồng thời, là bốn câu hỏi mà giọng điệu càng lúc càng dữ dằn. Mỗi bức một khung cảnh, một gam màu, một dáng điệu của vị “chúa tể cả muôn loài”. Bức thứ nhất thật thi vị:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Gam màu vàng lóng lánh của ánh trăng in trên suối vắng. Đối với con hổ giờ đang bị giam cầm trong cũi sắt, đó không chỉ là những kỷ niệm lấp lóa trăng vàng, mà thực sự là những “đêm vàng” - những kỷ niệm được đúc bằng vàng ròng - không bao giờ còn có lại. Chúa sơn lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền, với cử chỉ uống ánh trăng tàn đầy thơ mộng.

Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh đế trước giang sơn của mình:

Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Gam vàng đã chuyển qua gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng vương chủ của chốn rừng già đang phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh vương quốc đương thay da đổi thịt dưới sự trị vì của mình. Trang nghiêm, ưu tư, và đầy kiêu hãnh.

Bức thứ ba, chiều mưa đã chuyển sang rạng đông, nền tranh đã rạng rỡ cái gam màu thắm nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện trong dáng điệu một lãnh chúa cứ nghiễm nhiên ườn mình trong giấc ngủ trễ tràng khi ngày đã lên mà thụ hưởng cái lạc thú cung - đình - rừng - xanh của mình:

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đọc câu thơ ta có thể hình dung: cây xanh nắng gội là màn trướng, còn chim chóc như những bầy cung nữ đang hân hoan ca múa quanh giấc nồng của hổ vương.

Bộ tứ bình khép lại bằng bức cuối cùng, cũng là bức ấn tượng hơn cả:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Giọng điệu không còn là thở than, mà đã thành chất vấn đầy giận dữ và oai linh đối với quá khứ mà cũng là đối với hiện tại. Tương ứng với giọng điệu, chúa sơn lâm hiện ra cùng với một tư thế hoàn toàn khác: tư thế kiêu hùng của một bạo chúa. Nền cảnh thuộc gam màu máu. Mấy chữ “lênh láng máu” thật dễ sợ! Qua cảm nhận của chúa sơn lâm, ánh mặt trời lúc hoàng hôn đỏ rực giống hệt sắc máu. Trong chốn thảo hoa không tên tuổi ấy dường như chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất và xứng đáng phô bày quyền uy sánh cùng với hổ. Nhưng mảnh mặt trời kia cũng đang hấp hối trong tư thế gục ngã, lênh láng máu. Dưới con mắt mắt ngạo mạn và khinh bỉ của con mãnh thú, ngôi vị cao cả của mặt trời cũng không là gì, mặt trời kia cũng chỉ là những mảnh vụn tầm thường. Quyền uy của chúa sơn lâm như càng bao trùm cả vũ trụ mà mặt trời cũng phải dần lùi bước. Đến câu “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”, bức tứ bình cuối cùng dường như đã thể hiện được bàn chân ngạo nghễ siêu phàm của con thú như dẫm đạp lên bầu trời, cái bóng của nó dường như đã trùm kín cả vũ trụ. Hình ảnh con hổ vờn bóng, như dẫm nát mặt trời là hình ảnh đẹp đẽ và dữ dội nhất diễn tả đỉnh điểm của quyền lực kẻ thống trị vũ trụ.

Ghê gớm thật! Ngay đến mặt trời cũng trở nên tầm thường, thì xem ra sự phi thường đã tới vô biên rồi vậy! Sự hồi tưởng đã xong: thời oanh liệt của cái tôi - hùm thiêng đạt cực điểm!

Một thi sĩ rình trăng chốn lâm tuyền. Một vương chủ say ngắm giang sơn. Một lãnh chúa rừng xanh giữa bầy ác điểu. Một bạo chúa ngạo mạn với mặt trời. Bốn kỷ niệm kiêu hùng, bốn khoảnh khắc hoành tráng! Bộ tứ bình hoàn tất!

Có ý kiến cho rằng: Thơ Thế Lữ tràn đầy chất lãng mạn, lời thơ giàu hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu; câu thơ mở rộng, ào ạt như để chứa đựng mọi cung bậc của những cảm xúc phức tạp, tinh vi trong tâm hồn. Đọc "Nhớ rừng” và đặc biệt cảm nhận bức tranh tứ bình thì thực sự thấy lời nhận xét trên hoàn toàn đúng!

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 7

Tứ bình là một nét tạo hình rất quen thuộc và phổ biến từ cổ điển. Ngày xưa, người ta thường khái quát một hiện thực một cách trọn vẹn qua bộ tranh với bốn bức. Vì thế, tự thân tứ bình chính là một cấu trúc, một chỉnh thể, một thế giới hoàn hảo. Từ hội họa, tứ bình đã được khai thác và đưa vào nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác, đặc biệt là trong văn thơ.

Có thể dễ dàng nhận thấy bức tranh tứ bình trong Chinh phụ ngâm ở những phân đoạn thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người chinh phụ. Hay trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tâm trạng đau đớn, hãi hùng của nàng Kiều cũng được thể hiện một cách đặc sắc qua tứ bình ở điệp khúc “buồn trông…”. Nếu vậy, dùng đến tứ bình hẳn chưa phải là điều mới lạ. Tuy nhiên, trong “Nhớ rừng”, điều đáng nói là bức tranh tứ bình được vẽ nên đều là những chân dung tự họa khác nhau của cùng một vị chúa tể rừng xanh. Từ đó, bức tranh đã khái quát một cách trọn vẹn về cái thời oanh liệt của chúa sơn lâm.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Lối tạo hình bằng thơ đã khiến đoạn thơ trên trở thành đoạn tuyệt bút của Nhớ rừng. Bốn bức tranh mang những sắc màu, khung cảnh khác nhau đã diễn tả trọn vẹn nỗi hoài niệm đầy tiếc nuối, đầy uất hận. Giọng điệu của loài chúa sơn lâm ngày càng trở nên oán than, dữ dằn khi sử dụng những câu hỏi tu từ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.

Bức tranh đầu tiên hiện lên với vẻ đẹp rất đỗi thi vị:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đọc câu thơ, ta như liên tưởng đến thứ màu sắc vàng lóng lánh nên thơ của ánh trăng in trên dòng suối vắng nơi núi rừng hoang vu. Đó chính là những kỷ niệm không bao giờ có cơ hội trải qua trong những ngày tháng tiếp theo của con hổ khi sống trong cảnh tù đày như hiện tại - một quá khứ vàng son. Loài chúa sơn lâm hiện lên như một thi sĩ của chốn lâm tuyền, dáng vẻ hiên ngang uống ánh trăng tàn một cách thi vị.

Bức tranh thứ hai vẽ nên cảnh núi rừng hùng vĩ những ngày mưa cùng sự điềm nhiên của loài chúa sơn lâm.

Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Gam màu vàng giờ đã nhường chỗ cho gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng vương chủ của núi rừng giờ đang đứng hiên ngang phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh giang sơn đang thay da đổi thịt dưới sự trị vì của mình. Đó chính là bóng dáng đầy ưu tư, trang nghiêm và kiêu hãnh - bóng dáng chỉ có trong quá khứ lừng lẫy của chúa sơn lâm.

Đến bức tranh thứ ba, cảnh cơn mưa đã chuyển sang rạng đông. Từ cái gam màu xám bạc, nay toàn cảnh đã trở nên rạng rỡ hơn khi được phủ bởi gam màu sắc thắm của ánh bình minh. Chúa sơn lâm như một lãnh chúa đang nghiễm nhiên trong giấc ngủ trễ tràng. Ngày đã lên, chúa sơn lâm vẫn nhấm nháp hưởng thụ cái lạc thú trong vương quốc của riêng mình:

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Khung cảnh núi rừng tràn ngập trong màu xanh và ánh nắng mặt trời, còn loài chúa sơn lâm thì đang ngủ ngon lành trong khúc nhạc tưng bừng của chim muông một cách uy nghi. Bức tranh núi rừng hiện ra với nhiều màu sắc và âm thanh một cách sống động, chân thực. Đó cũng chính là sự hoài niệm những tháng ngày tự do, uy nghi sống giữa thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ của chúa sơn lâm.

Bộ tứ bình khép lại bằng bức tranh bi tráng của hoàng hôn:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Giọng điệu của chúa sơn lâm không còn là sự thở than nữa, mà nó đã trở thành lời chất vấn đầy giận dữ khi hoài niệm về quá khứ và nhìn lại thực tại đau thương. Tư thế của chúa sơn lâm cũng vì thế mà thay đổi, trở thành một tư thế kiêu hùng của loài bạo chúa. Gam màu hiện tại cũng thay đổi sang gam màu máu.

Qua đôi mắt của chúa sơn lâm, ánh mặt trời của hoàng hôn đỏ rực như sắc máu. Dường như trong chốn hùng vĩ ấy, chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất có thể phô bày quyền uy sánh vai cùng với nó. Nhưng mảnh mặt trời kia cũng đang hấp hối, gục ngã, lênh láng máu dưới con mắt ngạo mạn đầy khinh bỉ của loài mãnh thú. Mặt trời kia cũng chỉ là thứ tầm thường và quyền uy của chúa sơn lâm dường như bao trùm của vũ trụ khiến mặt trời cũng phải sợ hãi lùi bước dần về sau.

Bức tứ bình cuối cùng như vẽ lại bước chân ngạo nghễ của loài thú hung mãnh dẫm đạp lên cả bầu trời. Bóng dáng con hổ trùm kín vũ trụ, như dẫm nát mặt trời chính là một trong những hình ảnh dữ dội và oai hùng nhất diễn tả quyền lực của kẻ thống trị vũ trụ.

Bộ tứ bình với bốn bức tranh diễn tả những cảnh khác nhau đã tạo nên bốn khoảnh khắc hoành tráng nhất của loài chúa sơn lâm. Con hổ như trung tâm của bức tranh, mà nền bức tranh chính là những phông cảnh hùng vĩ nơi núi rừng hoang dại đại ngài.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 8

Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới ở Việt Nam. Ông đã góp phần tạo nên nền móng vững chắc cho nền thơ ca Việt. Và một trong những tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả là bài thơ Nhớ rừng. Trong tác phẩm của mình, Thế Lữ đã dựng lên bức tranh tứ bình với bốn cảnh sắc đầy hùng vĩ, tráng lệ, đầy uy nghi, lẫm liệt của núi rừng - nơi mà chúa sơn lâm ngày xưa đã từng tung hoành khắp chốn.

Bài thơ Nhớ rừng là lời của một con hổ trong vườn bách thú đang nhớ về những ngày tháng oanh liệt xưa kia của mình, khi mà nó còn được tung hoành giữa núi rừng sâu thẳm. Vậy mà giờ đây, nó lại bị giam cầm trong lồng cũi, trong chốn "sửa sang, tầm thường, giả dối", trong tù túng. Đây cũng là tâm trạng hiện thời của một bộ phận trí thức tiểu tư sản, ngao ngán, chán ghét trước hiện thực bị vây hãm, quẩn quanh những năm 1936.

Bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng của Thế Lữ gồm mười câu thơ, là bốn cảnh rừng đầy tráng lệ, là bức tranh trăng đêm, bức tranh hoàng hôn:

"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

Bức tranh đầu tiên trong tứ bình là cảnh rừng đêm trăng vàng bên dòng suối. Ánh trăng vàng lóng lánh soi tỏ con suối nhỏ đang róc rách chảy:

"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?"

Cả không gian trong chốn rừng sâu tràn ngập một sắc vàng từ vầng trăng trên cao rọi tỏ. Và trong không gian ấy, tiếng suối chảy lại khiến cho khu rừng thêm phần sinh động hơn, tươi mát hơn, có sinh khí hơn. Ở chốn ấy, chúa sơn lâm đang "say mồi" đứng lặng bên bờ suối, thưởng thức sự mát lành của dòng suối nhỏ. Có lẽ, chúa sơn lâm không chỉ "say mồi", đợi mồi mà còn "say" trong cảnh sắc lung linh, diệu kì của khu rừng thẳm, say trong làn nước mát rợp bóng trăng vàng. Sự dữ dằn, hung bạo của nó dường như đã dịu đi nhiều dưới ánh trăng bàng bạc. Nó bình thản hoà mình vào với thiên nhiên, hòa mình trong sự tĩnh lặng của núi rừng thăm thẳm, nơi mà nó là vua, là chúa tể của muôn loài. Bức tranh đầu tiên tạo nên một sự thơ mộng, sự kì ảo hài hoà giữa một bên là chúa sơn lâm hung tợn, một bên là sự hiền hoà của thiên nhiên, của rừng núi.

Thế nhưng, cảnh đẹp là thế, này cũng chỉ còn lại trong trí nhớ, trong những niềm mơ tưởng xa xôi "những đêm vàng bên bờ suối". Phút giây đầy huy hoàng ấy nay chỉ còn trong nỗi nhớ nhung. Sự oai vệ khi chúa sơn lâm đứng "say mồi", chễm chệ giữa tự do của núi rừng bạt ngàn đã lùi sâu vào dĩ vãng khiến nó chỉ còn biết nhung nhớ trong nỗi niềm "nào đâu..." đầy đau xót.

Bức tranh thứ hai là khung cảnh của những ngày mưa trắng trời, núi rừng ngập trong một màn mưa trắng xoá:

"Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?"

Những cơn mưa trong rừng sâu như bất tận, "xoay chuyển" cả "bốn phương ngàn". Thiên nhiên, núi rừng giờ đây không còn vẻ hiền hoà, êm dịu nữa mà cũng dữ dằn, cũng đầy hung bạo, mịt mù. Màn mưa giăng khắp chốn khiến cho vạn vật chuyển mình, thế nhưng, vị chúa tể rừng xanh vẫn oai dũng như thế, vẫn chẳng có chút nao núng nào trước sự dữ tợn ấy. Nó chỉ "lặng ngắm giang sơn" thay da đổi thịt trong màn mưa ấy. Sự gào thét vang dội của thiên nhiên chẳng hề làm nó run sợ, nó vẫn hiên ngang, bệ vệ và điềm tĩnh thu hết tất cả vào tầm mắt của mình. Đây là khí chất của một bậc vương giả, chẳng hề sợ hãi bất cứ điều chi! Thiên nhiên có dữ dội bao nhiêu, vạn vật của xoay chuyển thế nào cũng chỉ để "đổi mới" "giang sơn" của nó, điều đó chứng tỏ nó đang đứng trên tư thế làm chủ vạn vật một cách oai hùng nhất.

Nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh của những ngày xưa cũ, của thời đã qua. Con hổ giờ đây phải sống trong cảnh:

"Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u"

Những tự do xưa kia của nó, những cơn mưa rừng xối xả chỉ còn là miền dĩ vãng xa vời trong tâm trí của nó mà thôi.

Bức tranh thứ ba là bức tranh về bình minh nơi rừng núi, khi mà cả khu rừng bừng tỉnh sau một đêm dài:

"Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?"

Sau ngày mưa là một một ngày nắng toả. Cả khu rừng sau cơn mưa tắm mát, nó trở mình trở nên tươi mát hơn, tươi tắn hơn, đầy sức sống hơn. Những nhành cây, khe đá, những ngọn núi,... đều bừng lên trong tiếng chim ca rộn trời. Chúa sơn lâm xuất hiện với giấc ngủ nhưng lại là "giấc ngủ tưng bừng". Khi tiếng chim ca hót rộn rã, tiếng vạn vật vươn mình trong nắng mới thì là lúc chúa sơn lâm bước vào giấc ngủ của mình sau một đêm mưa gió thức đợi. Những âm thanh vui nhộn và không khí trong lành đã ru nó vào giấc ngủ hiền hoà.

Sống trong tự do, nó được làm mọi thứ mà mình thích, mình muốn. Nó chế ngự vạn vật, chi phối kẻ khác trong sự tự hào, uy nghiêm. Thế mà giờ đây, nó lại trở thành kẻ mua vui của con người "ngạo mạn, ngẩn ngơ".

Bình minh qua, hoàng hôn ghé lại, bức tranh thứ tư mở ra là khung cảnh của hoàng hôn, khi mà một ngày dài khép lại trong ánh chiều rực rỡ:

"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"

Bức tranh đầy màu sắc với những ngôn từ đầy mạnh mẽ đã tạo nên một ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Khung cảnh buổi chiều ấy thật dữ dội biết bao nhiêu với hình ảnh "lênh láng máu sau rừng". Có lẽ đây là khi chúa sơn lâm vừa mới săn mồi xong, đang thưởng thức bữa ăn của mình, hay có lẽ là gam màu của mặt trời khi xuống núi? Thế nhưng, dù là lý do gì thì gam màu đỏ rực ấy cũng khiến cho bức tranh trở nên thật sự rực rỡ, thực sự vô cùng ấn tượng. Khi bình minh, ánh mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏ nhân gian, sự sống khắp nơi cũng vì thế mà thức dậy, vận hành. Khi mặt trời về núi, mọi sự vật cũng theo ánh nắng chìm vào trong tĩnh mịch, ngưng đọng và nghỉ ngơi. Và vị chúa tể của núi rừng cũng thế, nó "đợi chết mảnh mặt trời gay gắt". Đợi mặt trời đi khỏi nhân gian để "chiếm lấy riêng phần bí mật".

"Bí mật" ở đây là gì? Không ai có thể biết được, chỉ một mình vị chúa sơn lâm ấy mới biết! Phải chăng là quyền lực của vũ trụ, của thế giới muôn loài mà nó muốn đoạt lấy?

Bốn bức tranh hiện lên trong suy nghĩ, trong sự hùng vĩ của núi rừng và trong sự oai nghiêm của con hổ - vị chúa sơn lâm. Thế nhưng, những cảnh oai hùng đó nay chỉ còn trong dĩ vãng, trong nỗi nhớ da diết và đau đớn của con hổ trong vườn Bách thú. Bốn bức tranh được dựng lên với những từ cảm thán"than ôi, nào đâu" và điệp từ "đâu" đã miêu tả trọn vẹn những nỗi tiếc thương đầy đau khổ của chúa sơn lâm, tiếc thương những gì mà nó đã trải qua từ quá khứ huy hoàng.

Mượn lời con hổ, Thế Lữ muốn thay lời những người trí thức trẻ đang phải sống trong thời loạn lạc, khi mà người Việt Nam đang phải chịu ách nô lệ của thực dân Pháp. Bốn bức tranh đó là những tháng năm rực rỡ, oanh liệt của cha ông ta với những chiến công chống ngoại xâm vẻ vang nhất lịch sử dân tộc. Thế nhưng, giờ đây nó chỉ còn là dĩ vãng, là Việt Nam đang phải chịu sự xâm lược của ngoại bang.

Mười câu thơ với bốn bức tranh của núi rừng trong sự hiện diện của chúa sơn lâm đã giúp người đọc thấy được sự hùng tráng của núi rừng, sự tráng lệ của chốn thâm sơn cùng cốc cùng với loài chúa tể rừng xanh. Bốn bức tranh với những gam màu sống động đã tạo nên một vẻ đẹp khó quên trong lòng mỗi người. Đồng thời cũng bộc lộ được nỗi niềm riêng của tác giả giữa thời đại đương thời.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 9

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ | Văn mẫu 8

“Thi trung hữu họa” Các cụ xưa đã nói như thế. Thế Lữ bằng chất liệu ngôn ngữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng” của mình. Bức tranh một vẽ chân dung tâm hồn hổ vào một đêm trăng đầy mơ mộng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”

Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta không biết bao lần ngây ngất trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng.

Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cửi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài.

Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời : giấc ngủ “tưng bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động.

Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Bức tranh này khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng tươi của nắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc này cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ. Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.

Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 10

Mười sáu câu đầu bài thơ Nhớ rừng là một bức tranh tứ bình đặc sắc. Thế Lữ đã vẽ lên bốn cảnh rừng núi với những vẻ đẹp khác nhau, trong những khoảnh khắc khác nhau.

Trước tiên là cảnh đêm vàng rực rỡ “ta say mồi đứng dưới ánh trăng tan”. Cảnh vật ở đây thật thơ mộng, lãng mạn: không gian trời nước như được nhuộm vàng bởi ánh trăng huyền ảo. Từ "vàng” ở đây có thể hiểu theo nghĩa là: huy hoàng, vàng son. Đó chính là thời kì huy hoàng, thời vàng son của chúa sơn lâm. Hổ như một thi sĩ thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng giữa rừng suối. Mặc dù vậy, ở nó vẫn toát lên dáng dấp của một mãnh thú với sức mạnh phi thường khi” uống ánh trăng tan. Cảnh ở đây vừa có cái thơ mộng lại vô cùng huy hoàng.

Bức tranh thứ hai là cảnh” những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”. Đó là những ngày mưa dữ dội, bốn phương ngàn như xoay chuyển, trắng xóa một màu mưa. Và ở đây, hổ là một lãnh chúa đứng lặng ngắm giang sơn của mình thay màu áo mới. Cảnh ở đấy thật dữ dội nhưng cũng thật tráng lệ. Nó gợi sự đổi thay và gợi cả uy quyền của chúa sơn lâm.Càng tráng lệ bao nhiêu thì con hổ càng đau xót bấy nhiêu với thực tại tù túng, giam cầm.

Bức tranh thứ 3 là cảnh” bình minh cây xanh nắng gội”. Con hổ như một bậc vương giả trong giấc ngủ tưng bừng với tiếng ca ru là khúc nhạc rừng của ngàn vạn bầy chim.

Bức tranh thứ 4 là những hoàng hôn nắng đỏ qua con mắt "chúa tể muôn loài”. Đó là những chiều "lênh láng máu sau rừng” và vầng mặt trời sắp lặn chỉ là một đối thủ bé mọn đang hấp hối trước con mắt đầy uy lực của chúa sơn lâm

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? ”

Về nghệ thuật, ta thấy Thế Lữ sử dụng những hình ảnh rất mới lạ so với thơ ca đương thời như” mảnh mặt trời”. Nếu như thay từ “chết” bằng từ” lặn” và bỏ đi từ “mảnh” thì câu thơ sẽ trở nên lạc lõng bởi nó không phù hợp với logic tâm trạng và tầm vóc của vị chúa tể rừng già. Chính câu thơ này đã nâng tầm vóc của con hổ, của cả đoạn thơ lên mức phi thường và kỳ vĩ. Bên cạnh đó đoạn thơ có những hình ảnh phi thường, độc đáo, cách sắp xếp thời gian phong phú; sử dụng màu sắc độc đáo. Những yếu tố đó góp phần tạo nên một bức tranh tứ bình hiện đại mà vô cùng giá trị. Ở đây, ta còn thấy, tác giả sử dụng đại từ”ta” lặp lại nhiều lần. Nó có tác dụng thể hiện sự kiêu hãnh, khí phách ngang tàng của con hổ, đồng thời tạo nhạc điệu trầm bổng cho câu thơ. Đoạn thơ còn sử dụng liên tiếp các câu nghi vấn để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Cách sử dụng câu hỏi tư từ với từ hỏi” đâu” và câu cảm thán "Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu” cho thấy sự gắn bó máu thịt của con hổ với núi rừng - nơi nó từng được sống đúng với tư thế dũng mãnh, hào hùng của một vị chúa tể. Đồng thời, những câu hỏi ấy cứ dồn dập mỗi lúc một xoáy sâu vào tâm can, cho thấy nỗi quằn quại, nhớ tiếc quá khứ tới đớn đau tột cùng của con hổ. Bởi lẽ, tất cả những hình ảnh huy hoàng, lẫm liệt kia chỉ là "những ngày xưa” là thời ”nay còn đâu”. Tác giả còn sử dụng nghệ thuật đối lập: hình ảnh thiên nhiên và dáng vẻ của con hổ hoàn toàn đối lập với hình ảnh con hổ nằm dài trong cũi sắt đầy ngao ngán và bất lực ở đoạn 1. Quá khứ càng hào hùng bao nhiêu thì hiện thực càng xót xa tủi nhục bấy nhiêu. Nó khiến cho nỗi khát khao được sống tự do của con hổ càng thêm nhức nhối.

Có thể thấy bộ bức tranh tứ bình này là những bức tranh thiên nhiên đẹp một cách huy hoàng và đầy bí ẩn. Con hổ hiện lên ở trung tâm mang những dáng dấp khác nhau nhưng đều đầy uy lực. Đây cũng chính là những câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 11

“Nhớ rừng” được biết đến là một tác phẩm tiêu biểu của Thế Lữ đã góp phần giúp cho thi ca Việt Nam có những bước đi đầu tiên đầy hứa hẹn trong phong trào Thơ Mới. Bài thơ đã mượn lời con hổ ở vườn bách thú nhằm diễn tả nỗi chán ghét thực tại tù túng của một bộ phận trí thức tiểu tư sản. Trong bài thơ, có những dòng tác giả đã tái hiện trước mắt người đọc sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên núi rừng – nơi từng là chốn tung hoành ngang dọc của của con hổ ngày xưa. Đặc biệt, với 10 câu thơ ở đoạn thơ thứ ba, tác giả đã tạo nên một bức tranh tứ bình vừa có sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, vừa có sự uy nghi, lẫm liệt của vị chúa tể…

Bức tranh đêm trăng, bức tranh ngày mưa hay bức tranh lúc bình minh là những ý chính cần phân tích khi tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, thì bức tranh đầu tiên xuất hiện chính là hình ảnh hổ trong đêm trăng thơ mộng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”

Cảnh đêm trăng hiện hữu trong không gian tràn đầy màu sắc ánh vàng của vầng trăng trên cao đang soi chiếu khắp nhân gian. Đặc biệt khung cảnh khi có sự xuất hiện của dòng suối với tiếng chảy róc rách lại càng trở nên sinh động, tươi mát. Trước cảnh ấy con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong.

Có lẽ cái làm cho hổ kia phải say không chỉ đơn thuần bởi miếng mồi ngon mà còn là cái say trước sự lung linh, kì ảo của khung cảnh đang hiện hữu trước mắt. Hổ say mồi nhưng càng thỏa mãn hơn khi được uống vào những hớp nước có sự soi vàng của bóng trăng. Bao nhiêu nét gân guốc, dữ tợn của chúa tể vùng sơn lâm nhờ có cảnh đẹp hình như cũng trở nên mềm mại, bình thản hơn để có thể hòa vào cảnh vật. Tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy tất cả những điều trên đã tạo nên sự thơ mộng, kì ảo của một bức tranh có sự hài hòa của cả cảnh và vật.

Cảnh có đẹp, có thơ mộng và diệu kỳ đến nhường nào, hổ có bao lần được hòa mình vào “những đêm vàng bên bờ suối” để “say mồi đứng uống ánh trăng tan”, nhưng thực tại những giây phút sảng khoái cũng chỉ còn trong trí nhớ. Sự “say mồi” đầy thỏa mãn hay tư thế “đứng uống” chễm chệ trong những đêm tự do ấy nay đã lùi xa vào quá khứ nhưng với hổ thì những kỉ niệm và cảm giác ngây ngất ấy vẫn hiển hiện rất rõ rệt như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua.

Ở bức tranh thứ hai, tác giả lại dùng ngôn từ của mình vẫn để thể hiện hình ảnh trung tâm là con hổ trên phông nền của khung cảnh ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Chúa sơn lâm lúc này đã không còn say sưa bên dòng suối mát lành và miếng mồi hấp dẫn như trong bức tranh trước đó. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như cũng trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp lối khiến cho vạn vật cũng rung chuyển theo. Ấy thế mà vị chúa tể của ta vẫn không hề có một chút nao núng trước những sự gào thét dữ dội của thiên nhiên và sự ngả nghiêng của vạn vật.

Hổ vẫn hiên ngang, điềm tĩnh, bệ vệ trước cảnh ấy để thu vào trong mắt tất cả những chuyển biến của đất trời. Mưa gió càng tác động lên tất cả mọi thứ mạnh mẽ, đáng sợ bao nhiêu thì hổ ta vẫn giữ một thái độ của một bậc vương giả. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy trên hết, hổ còn xem việc “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” trên thực chất là sự tác động để “giang sơn ta đổi mới”. Thế nên, trong trạng thái “lặng ngắm” kia, hổ thực chất đang đứng ở tư thế làm chủ vạn vật.

Con hổ trong những ngày mưa to gió lớn chốn rừng thiêng vẫn giữ phong thái điềm nhiên, tĩnh tại ấy lại chỉ là một hình ảnh của thời đã qua. Hổ giờ đây bị giam hãm trong chốn ngục tù, dù có râm mát, dù không bị tắm ướt bởi mưa nhưng đó chưa bao giờ là điều nó mong muốn. Ngày trước khi còn tự do giữa núi rừng đất trời và có lúc phải đón những cơn mưa rừng xối xả, dữ dội nhưng chúa sơn lâm chưa bao giờ phiền lòng vì điều đó.

Ngược lại, trong cảnh mưa tuôn mịt mờ ấy, nó lại càng cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng để thấy thiên nhiên có thách thức như thế nào, hổ vẫn giữ được bản lĩnh của riêng mình. Khi bị giam cầm, bản lĩnh ấy vẫn còn và chỉ tiếc là nó lại không được thể hiện như trong chính nơi nó cần thuộc về.

Ở câu thơ thứ ba, thứ tư của đoạn thơ, tác giả đã giúp cho ta nhìn thấy sự tươi mới, rộn ràng của khung cảnh đất trời trong khoảnh khắc của ngày mới:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Ngày mưa qua đi như làm cho bầu trời buổi sớm thêm phần trong trẻo, tươi sáng. Trong khung cảnh ấy, cây cối sau khi được tắm mát trong những trận mưa rừng đã đầy lại được gội mình trong nắng mới nên càng trở nên tươi tắn và tràn đầy sức sống. Góp vào sức sống bừng lên trên từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca rộn rã của bầy chim rừng. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta nhận thấy trong khung cảnh ấy, hổ xuất hiện trong giấc ngủ, nhưng lại là giấc ngủ “tưng bừng”.

Nếu trong đêm khi tất cả mọi vật đều sâu giấc thì hổ thức để say sưa cùng vũ trụ, những ngày mưa ai ai cũng tìm nơi ẩn trú thì hổ “lặng ngắm giang sơn” và giờ đây khi bình minh ló dạng thì hổ chìm vào giấc ngủ. Đặc biệt, vị chúa sơn lâm lại còn được dỗ giấc bằng không khí mát mẻ và cả những âm thanh tươi vui của vạn vật.

Có thể thấy, khi sống trong môi trường của mình, hổ rất đỗi tự do vì có thể tự ý làm những điều mình muốn. Nó luôn đứng ở vị thế chế ngự đầy uy nghi và có thể chi phối kẻ khác chứ không bao giờ chịu phụ thuộc. Hình ảnh hổ lúc đó khác hẳn với tình cảnh bây giờ: không chỉ “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” mà còn phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”, “với cặp báo chuồng bên vô tư lự”.

Bình minh qua, ngày tàn là thời khắc hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh thứ tư của bài chính là diễn tả thời khắc ấy của cảnh rừng. Đây là bức tranh cuối cùng nhưng có thể gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ cũng có thể là màu của ánh sáng mặt trời. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng sẽ thấy nếu như ban ngày, mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh sáng xuống nhân gian. Sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy mà vận hành. Đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy khoảng thời gian mặt trời lặn xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng, vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy để:

“Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”

“Bí mật” ấy phải chăng chính là quyền lực từ tay vũ trụ. Hổ muốn chớp lấy cơ hội để đoạt được quyền lực ấy mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó.

Khát khao tuy to lớn, khung cảnh trong bốn bức tranh tuy hùng vĩ, nguy nga nhưng chỉ là những hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiển hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con hổ đối với những gì nó đã trải qua.

Thời oanh liệt của những ngày xưa cũ được tung hoành ngang dọc thực chất đã khép lại và có khi không bao giờ trở về. Với vị chúa tể, sau tất cả có lẽ còn lại chỉ là một tiếng than u uất không có sự đáp hồi:

“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Đó là lời than của con hổ, là nỗi niềm của nhà thơ nhưng thực chất cũng là tiếng lòng, tâm trạng chung của những con người phải sống trong sự kìm kẹp, giam hãm. Đối với thời buổi người dân Việt Nam phải sống cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ đã thay họ thể hiện niềm tiếc nuối về những chiến công vẻ vang chống giặc ngoại xâm của một thời oanh liệt của dân tộc mình. Đó có lẽ lý do khiến bài thơ được đón nhận rất nồng hậu, say sưa ngay từ khi ra đời.

Những câu thơ khắc họa bốn bức tranh về thiên nhiên núi rừng và sự hiện hữu của chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng tuyệt bút của bài thơ “Nhớ rừng”. Thông qua việc sử dụng điệp ngữ, câu hỏi tu từ và hàng loạt các hình ảnh gợi màu sắc, đường nét của cảnh vật thiên nhiên, Thế Lữ không chỉ làm xuất hiện trước mắt người đọc tuyệt phẩm diễn tả sự kì vĩ, hùng tráng của chốn rừng thiêng mà còn làm bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của chúa tể sơn lâm. Đó cũng chính là tâm sự, nỗi niềm chung của con người thời đại…

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng – mẫu 12

Thế Lữ không những là người cầm lá cờ chiến thắng cho Thơ Mới mà còn là nhà thơ tiêu biểu nhất cho phong trào thơ mới. Thế Lữ có một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn. “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm mở đường cho sự thắng lợi của Thơ Mới.

Để đem lại thành công cho bài thơ, với năng lực của một người họa sĩ Thế Lữ đã tạo dựng được một bức tranh tứ bình đặc sắc. Tranh tứ bình là cách khái quát nghệ thuật mang tính ước lệ thời xưa bởi họ quan niệm tứ bình là một thế giới hoàn chỉnh. Có rất nhiều cách để xây dựng tứ bình. Theo dòng thời gian lưu chuyển có xuân, hạ, thu, đông; phương hướng có đông, tây, nam, bắc; nghề xưa có ngư, tiều, canh, mục … Tứ bình xuất hiện đầu tiên trong hội họa phương Đông cổ điển rồi mới ảnh hưởng đến thơ, ca.

Dùng tứ bình tả cảnh người viết vừa thâu tóm được nét đặc trưng vừa có điều kiện để bao quát toàn cảnh. Dùng tứ bình chưa phải là điều thật mới nhưng quan sát kĩ ta vẫn thấy những sáng tạo riêng của Thế Lữ. Bốn bức tranh trong bộ tứ bình này đều là bốn bức họa của cùng một con hổ, khái quát trọn vẹn thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Trong bốn bức tranh này tác giả đã để chúa sơn lâm đối diện với tạo hóa vô biên.

Bức thứ nhất là cảnh đêm vàng bên bờ suối:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”

Hổ gọi những đêm trăng là đêm vàng bởi khung cảnh đầy trăng, con hổ cũng khoác lên mình sắc áo vàng trăng. Cách gọi ấy khiến cho những đêm trăng trở nên huyền ảo hơn. Với hổ giờ đây những đêm trăng ấy quý giá vô ngần bởi đó là đêm tự do và ảo mộng. Hổ say mồi là bản năng của mãnh thú nhưng chúa sơn lâm còn say trăng vàng, sau vì uống ánh trăng tan trong nước suối đại ngàn. Khung cảnh im lặng vừa ghê rợn, vừa kì ảo quyến rũ. Thế Lữ đã miêu tả chân thực tập tính của loài hổ và đem đến cho người đọc những cảm nhận mới lạ. Con hổ cũng biết rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Bức thứ hai là những ngày mưa dữ dội:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Mưa dữ dội làm rung chuyển cả bốn phương trời, những trận mưa như thế có thể làm kinh hoàng những con thú hèn yếu nhưng chúa sơn lâm thì không mảy may sợ hãi trước uy lực của trời đất. Hổ điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới. Dáng vẻ của hổ chứa đựng một bản lĩnh vững vàng và một sức mạnh chế ngự thiên nhiên.

Bức thứ ba là cảnh tươi sáng tưng bừng của bình minh:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Đêm vạn vật chìm trong giấc ngủ thì hổ thức cùng vũ trụ trăng, sao. Những ngày mưa rung chuyển núi rừng, hổ điềm nhiên ngắm cảnh trời đất đổi thay. Bây giờ vạn vật thức dậy cùng mặt trời, cây xanh, nắng gội, chim chóc hót ca thì hổ vẫn ngủ. Uy quyền của chúa sơn lâm khiến hổ muốn gì được nấy. Từ láy “tưng bừng” cho thấy giấc ngủ của hổ thật đặc biệt.Cảnh tưng bừng rộn rã ở ngoài kia chỉ khiến cho giấc ngủ của hổ thêm say, thêm đẹp.

Bức thứ tư là cảnh hoàng hôn.

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Mấy chữ “lênh láng máu sau rừng” thật dễ sợ. Nó gợi cho ta cảnh tượng chiến trường sau một cuộc vật lộn dữ dội. Đó là máu của một con thú rừng xấu số nào đó ư? Không phải đó là máu của mặt trời. Ánh mặt trời tà dương qua cảm nhận của thú dữ mang sắc máu lênh láng đỏ.Bức tranh hoàng hôn rực rỡ trong gam màu đỏ: đỏ của mặt trời gay gắt, đỏ của máu lênh láng. Chữ "chết” biến mặt trời thành một sinh thể, mặt trời không còn là khối cầu lửa vô tri, vô giác bất động giữa không trung mà thành một con thú.

Hình thức điệp ngữ kết hợp với câu hỏi tu từ đem đến cảm nhận bốn bức tranh là bốn nỗi hoài niệm nuối tiếc. Bốn câu thơ vừa lặp lại, vừa tăng tiến. Có thể nói đây là đoạn thơ đoạn thơ đặc sắc nhất trong "Nhớ rừng”. Ở những nét bút tạo hình của Thế Lữ vừa có họa pháp của người họa sĩ, vừa có thi pháp của trường thi lãng mạn. Với đoạn thơ này "Nhớ rừng” đã trở thành một khúc trường ca dữ đội biểu hiện niềm khao khát tự do của con người.

Xem thêm những bài văn mẫu hay nhất tại đây:

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!