Video: Rạch tầng sinh môn có đau không?
Vùng này chứa các cấu trúc hỗ trợ hệ thống niệu sinh dục và tiêu hóa - và do đó nó đóng một vai trò quan trọng trong các chức năng như tiểu tiện, đại tiện, quan hệ tình dục và sinh con.
tầng sinh môn - ranh giới, cấu tạo và các mối tương quan của nó.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét giải phẫu củaRanh giới tầng sinh môn
Trong thực hành lâm sàng, thuật ngữ “tầng sinh môn” thường được sử dụng để mô tả khu vực giữa cơ quan sinh dục ngoài và hậu môn. Tuy nhiên, về mặt giải phẫu, tầng sinh môn là một cấu trúc hình thoi.
Có hai cách chính để mô tả ranh giới của tầng sinh môn. Ranh giới giải phẫu đề cập đến các ranh giới liên quan với xương, trong khi các ranh giới bề mặt mô tả giải phẫu bề mặt của đáy chậu.
Ranh giới giải phẫu
Các ranh giới giải phẫu của tầng sinh môn là:
- Phía trước – khớp xương mu
- Phía sau - đỉnh của xương cụt .
- Phía bên – ngành dưới của xương mu, ngành dưới của xương ngồi và dây chằng cùng - ụ ngồi
- Phía trên - sàn chậu.
- Phía đáy - da và cân
Tầng sinh môn có thể được chia nhỏ bằng một đường lý thuyết vẽ theo chiều ngang giữa 2 ụ ngồi. Sự phân chia này tạo thành tam giác niệu sinh dục trước và tam giác hậu môn sau. Những hình tam giác này được liên kết với các thành phần khác nhau của tầng sinh môn.
Ranh giới giới bề mặt
Các ranh giới bề mặt được hiển thị rõ nhất khi các chân dạng ra và cấu trúc hình thoi hiện ra:
- Phía trước: âm vật ở nữ, gốc dương vật ở nam.
- Mặt bên – mặt bên của đùi.
- Phía sau – phần trên của rãnh liên mông
Cấu tạo tầng sinh môn
Tầng sinh môn có thể được chia nhỏ bằng một đường lý thuyết được vẽ theo chiều ngang giữa 2 ụ ngồi. Sự phân chia này tạo thành hình tam giác niệu sinh dục ở trước và hình tam giác hậu môn ở phía sau. Những hình tam giác này được liên kết với các thành phần khác nhau của tầng sinh môn - mà bây giờ chúng ta sẽ xem xét chi tiết hơn.
Tam giác hậu môn
Tam giác hậu môn là nửa sau của tầng sinh môn. Nó được bao bọc bởi xương cụt, dây chằng cùng – u ngồi và một đường lý thuyết giữa 2 ụ ngồi.
Thành phần chính của tam giác hậu môn là:
- Lỗ hậu môn.
- Cơ thắt ngoài hậu môn - cơ tự chủ chịu trách nhiệm đóng và mở hậu môn.
- Hố ngồi – trực tràng (x2) - không gian nằm ở phía bên của hậu môn.
Lỗ hậu môn nằm ở trung tâm trong hình tam giác với hố ngồi – trực tràng nằm ở hai bên. Các hố này chứa chất béo và mô liên kết, cho phép mở rộng ống hậu môn trong quá trình đại tiện. Chúng kéo dài từ da của vùng hậu môn (phía dưới) đến cơ hoành vùng chậu (phía trên).
Một cấu trúc giải phẫu quan trọng khác trong tam giác hậu môn là dây thần kinh thẹn, chi phối cho toàn bộ tầng sinh môn.
Tam giác niệu sinh dục
Tam giác niệu sinh dục là một nửa trước của tầng sinh môn. Nó bị giới hạn bởi khớp mu, ngành ngồi mu và một ranh giới lý thuyết giữa 2 ụ ngồi. Tam giác liên kết với các cấu trúc của hệ thống niệu sinh dục - cơ quan sinh dục ngoài và niệu đạo.
Về mặt cấu trúc, tam giác niệu sinh dục rất phức tạp, với một số lớp và khoang đệm. Không giống như tam giác hậu môn, tam giác niệu sinh dục có thêm một lớp cân sâu chắc khỏe – là các mạc đáy chậu.
Các lớp của tam giác niệu sinh dục (từ nông đến sâu):
- Da - Các lỗ niệu đạo và âm đạo mở ra trên da.
- Mạc đáy chậu nông: nằm ở mặt nông của các tạng cương, bờ sau dính liền với mạc hoành niệu dục dưới.
- Mạc hoành niệu dục dưới: nằm ở mặt nông của hoành niệu dục. Hai mặt trên bờ sau dính với nhau mở ra phía trước giới hạn một khoảng gọi là khoang đáy chậu nông. Phần này chứa phần sau của tạng cương, cơ hành xốp, cơ ngồi hang, cơ ngang đáy chậu nông, mạch máu, thần kinh bìu.
- Khoang đáy chậu sâu: cấu tạo chủ yếu bởi hoành niệu dục mà mặt trên và dưới được che phủ bởi mạc hoành niệu dục trên và dưới gồm có hai cơ:
- Cơ thắt niệu đạo: nguyên uỷ ở mặt trong ngành dưới xương mu, bám tận ở đường giữa.
- Cơ ngang đáy chậu sâu: nguyên uỷ từ ngành xương ngồi, bám tận trung tâm gân đáy chậu, trong cơ này có tuyến hành niệu đạo.
Thân đáy chậu
Nằm ở trung điểm đường nối hậu môn âm đạo, hầu hết các cơ đều bám ở đây được xem là chìa khoá để mở toang đáy chậu, đặc biệt quan trọng ở nữ giới có nhiệm vụ nâng đỡ gián tiếp tử cung, hay bị tổn thương khi sinh.
Mạch máu và thần kinh
Nguồn cung cấp mạch máu và thần kinh chính cho đáy chậu là từ dây thần kinh thẹn (S2 đến S4) và động mạch thẹn trong.
Dây thần kinh thẹn (cùng với động mạch và tĩnh mạch thẹn trong) đi dọc theo bề mặt bên trong của các ụ ngồi, thông qua một “ống” được hình thành bởi sự dày lên của mạc cơ bịt ( gọi là ống Alcock). Bó mạch - thần kinh thẹn hướng xuống dưới qua mỗi hố ngồi và tạo ra các nhánh cho cả tam giác hậu môn và sinh dục.
Liên quan đến lâm sàng – thân đáy chậu
Thân đáy chậu là phần gắn kết trung tâm của các cơ đáy chậu, có chức năng nâng đỡ sàn chậu.
Sinh con có thể dẫn đến tổn thương (kéo căng / rách) cơ đáy chậu, do đó có thể dẫn đến sa tạng vùng chậu. Điều này có thể tránh được bằng cách rạch tầng sinh môn. Điều này chắc chắn gây tổn thương niêm mạc âm đạo, nhưng ngăn cản quá trình rách tầng sinh môn không kiểm soát được.
Liên quan đến lâm sàng - U nang tuyến của Bartholin
Các tuyến Bartholin nằm trong khoang đáy chậu nông của tam giác niệu sinh dục. Vai trò của chúng là tạo ra một lượng nhỏ chất lỏng giống như chất nhầy.
Thông thường, tuyến Bartholin không được phát hiện khi khám sức khỏe. Tuy nhiên, nếu ống dẫn bị tắc, các tuyến này có thể sưng lên để tạo thành các u nang chứa đầy chất lỏng.
Những u nang này có thể bị nhiễm trùng và viêm. Nguyên nhân phổ biến nhất của nhiễm trùng là do vi khuẩn như Staphylococcus spp và Escherichia coli.
Xem thêm: