Nghị luận về Ngôn Chí, bài 3
Đề bài: Viết một bài văn Nghị luận về Ngôn Chí, bài 3 của Nguyễn Trãi
Dàn ý Nghị luận Ngôn Chí
I. Mở bài:
1.Tác giả
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chi Linh, Hải Dương) sau rời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội)
Gia đình: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Nguyễn Trãi được tiếp xúc và thấu hiểu tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, những tác phẩm văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận chặt chẽ với giọng điệu linh hoạt
Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm
2. Tác phẩm
-Thể loại: thơ thất ngôn bát cú Đường luật biến thể (xen lẫn câu lục ngôn giữa các câu thất ngôn)
-Xuất xứ: Ngôn chí là bài thơ gồm 21 bài trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
-Bố cục: 4 phần:
Phần 1: 2 câu đề: Không gian sống thanh bình, yên tĩnh
Phần 2: 2 câu thực: Ăn uống đơn sơ, giản dị
Phần 3: 2 câu luận: Chăm lo sức khỏe, đời sống tinh thần
Phần 4: 2 câu kết: Ngâm thơ, ngắm trăng tận hưởng cuộc sống.
II. Thân bài:
2.1. Phân tích văn bản:
a. Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên:
- Các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên: "am trúc hiên mai", "nước", "ao", "nguyệt", "đất cày", "hoa", "đêm tuyết".
- Không gian sống yên bình, thanh tĩnh với hình ảnh của mái hiên và cây mai.
=> Không gian tách hẳn sự ồn ào, xô bồ của thế giới náo nhiệt bên ngoài.
- Khung cảnh nên thơ của thế giới tự nhiên:
+ "nguyệt": trong thơ ca cổ, ánh trăng thường gợi ra vẻ nên thơ, trữ tình, là nguồn cảm hứng bất tận để lòng người bật ra ý thơ. Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt": bóng trăng in xuống mặt nước trong xanh.
+ "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa": đất đã được cày cuốc, vun xới và phơi nắng nên rất khô, tơi, bở. Đây là môi trường sống thuận lợi của cỏ cây. Đất ươm mầm những loài hoa và giúp hoa tỏa hương thơm ngát.
=> Gợi ra sự tốt tươi, trù phú của vạn vật.
=> Thiên nhiên hiện lên tràn đầy sức sống, vừa yên bình vừa thơ mộng, trữ tình.
b. Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Hài lòng, mãn nguyện với cuộc sống hiện tại:
+ "Am trúc hiên mai ngày tháng qua": ngày qua ngày an yên ở nơi quê nhà.
+ "Thị phi nào đến cõi yên hà": những đàm tiếu, dị nghị của thiên hạ không thể đến được chốn ở của nhà thơ. => Nhà thơ sống ở chốn thanh tĩnh, cách xa cuộc sống xô bồ, bỏ lại bên ngoài những thứ thị phi, đúng sai, phải trái của người đời.
+ "Cơm ăn dầu có dưa muối;/ Áo mặc nài chi gấm là.": hài lòng với cuộc sống giản đơn, không màng đến vinh hoa phú quý.
- Thong thả, nhàn nhã:
+ "Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt": Đây là lối nói ẩn dụ, nước giữ gìn sự thanh khiết để thưởng thức ánh trăng cũng như con người giữ gìn sự liêm khiết và cốt cách cao cả.
+ "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa": hoạt động cày cuốc, trồng trọt.
- Thăng hoa, lãng mạn:
+ "Trong khi hứng động vừa đêm tuyết": Cảm hứng được khơi dậy vào đêm tuyết.
+ "Ngâm được câu thần dặng dặng ca": cảm xúc tràn đầy, cất tiếng ngâm ca.
2.2. Đánh giá:
a. Nội dung:
- Bài thơ cho thấy vẻ đẹp tư tưởng, tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi. Đó là tình yêu thiên nhiên sâu sắc và cốt cách cao đẹp.
b. Nghệ thuật:
- Câu lục xen lẫn câu thất ở dòng thứ ba, tư.
- Hình ảnh thơ ước lệ, giản dị, gần gũi.
- Ngôn ngữ mộc mạc, mang giọng điệu của lời ăn tiếng nói hàng ngày.
III. Kết bài:
Khẳng định giá trị của tác phẩm.
Một số bài văn mẫu Nghị luận Ngôn Chí
Nghị luận Ngôn Chí (mẫu 1)
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là nhà thơ đại tài của dân tộc. Ông đã được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới bởi những đóng góp to lớn của mình. Tập "Quốc âm thi tập" do ông sáng tác bằng chữ Nôm đã đánh dấu sự hình thành cho thơ ca tiếng Việt, một trong số đó là "Ngôn chí" (bài 3). Đây là tác phẩm có ý nghĩa quan trọng, thể hiện được nhân cách, tư tưởng cao cả, tốt đẹp của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Trước hết, nổi bật trong văn bản là vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên. Các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên có thể kể đến trong tác phẩm là "am trúc hiên mai", "nước", "ao", "nguyệt", "đất cày", "hoa", "đêm tuyết". Ở hai câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được không gian sống yên bình, thanh tĩnh qua hình ảnh mái hiên và cây mai. Từ "yên hà" ngoài việc chỉ nơi ở yên tĩnh còn diễn tả vẻ đẹp của bầu trời lúc bình minh hoặc hoàng hôn. Khói sương, khói sóng ngập tràn khắp đất trời, hòa cùng với ánh rực rỡ của bầu trời khi ngày mới sang hay lúc chiều tà. Dường như, nơi ở của nhà thơ tách biệt hoàn toàn với sự ồn ào, xô bồ của thế giới náo nhiệt bên ngoài. Ở đó chỉ có thi nhân cùng vẻ đẹp ngây ngất của đất trời.
Ở những câu thơ tiếp theo, thiên nhiên trong cảm nhận của nhân vật trữ tình thật nên thơ. Trong thơ ca cổ, ánh trăng không chỉ là ánh sáng tự nhiên xua tan đêm tối mà còn là nguồn cảm hứng vô tận để lòng người bật ra ý thơ. Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt" vừa diễn tả được độ trong của nước ao vừa khắc họa được sự huyền hoặc, lung linh của ánh trăng. Vào đêm thanh vắng, bóng trăng in xuống mặt nước trong xanh. Bức tranh thiên nhiên ấy còn hiện lên một cách chân thực và sinh động với hình ảnh của "đất" và "hoa" ở dòng "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Đất đã được cày cuốc, vun xới kĩ càng nên rất khô, tơi và bở. Đây là môi trường sống thuận lợi của cỏ cây. Từ "ương" được hiểu là ấp ủ, làm cho một vật gì đó sinh sôi, nảy nở. Như vậy, đất ươm mầm những loài hoa, giúp hoa tỏa hương thơm ngát. Dòng thơ gợi ra sự tốt tươi, trù phú của vạn vật. Thiên nhiên hiện lên đầy sức sống, vừa yên bình vừa thơ mộng, trữ tình trong đôi mắt của một con người tràn ngập tình yêu dành cho tự nhiên.
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên, ta còn thấy được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trước cuộc sống hiện tại, chủ thể trữ tình bày tỏ sự hài lòng, mãn nguyện:
"Am trúc hiên mai ngày tháng qua.
Thị phi nào đến cõi yên hà."
Cụm từ "ngày tháng qua" gợi ra sự chảy trôi của thời gian. Thời gian đi qua một cách êm đềm từ ngày này qua tháng nọ cũng như cuộc sống an yên của nhân vật trữ tình. Lui về ở ẩn, những đàm tiếu, dị nghị của thiên hạ không thể đến được chốn ở của thi nhân "Thị phi nào đến cõi yên hà". Nhân vật trữ tình sống ở chốn thanh tĩnh cách xa cuộc sống xô bồ, bỏ lại bên ngoài những "thị phi", đúng sai, phải trái của người đời. Dường như, chủ thể trữ tình đã đạt đến sự tự do, tự tại trong tâm hồn.
Đến câu ba, bốn, ta thấy thể thơ đã có sự thay đổi khi câu lục xen giữa câu thất. Tác giả bày tỏ sự hài lòng với cuộc hiện hiện tại "Cơm ăn dầu có dưa muối;/ Áo mặc nài chi gấm là". Vải gấm là một loại vải có nguồn gốc từ tự nhiên, được dệt từ sợi tơ tằm. Đây được coi là loại vải thượng hạng vì có họa tiết cầu kì, bắt mắt cũng như đem đến cho người mặc cảm giác mềm mịn, mượt mà. Bởi lẽ đó, gấm chỉ dành cho các vị vua chúa, quan lại ở thuở xưa. Từ bỏ quan trường để lui về ở ẩn, nhân vật trữ tình không cần đến áo gấm lụa là, cơm ăn dù chỉ có dưa muối nhưng vẫn cảm thấy vui vẻ, mãn nguyện. Đó là cốt cách của một con người đường hoàng, cao cả, không màng vinh hoa, phú quý.
Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt" mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên nhưng cũng chất chứa suy nghĩ, tâm tư của tác giả. Đây là một lối nói ẩn dụ của nhà thơ. Nước giữ gìn sự thanh khiết để thưởng thức ánh trăng cũng như con người phải giữ gìn, nuôi dưỡng sự liêm khiết để đón nhận những điều tốt đẹp. Cuộc sống hàng ngày diễn ra trong êm đềm, thong thả với công việc lao động bình dân "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Giờ đây, nhà thơ không còn là một vị quan oai phong, lẫm liệt mà trở về sống như người nông dân ngày ngày cuốc đất, trồng trọt. Đó là cuộc sống hết sức bình dị, thảnh thơi.
Trong hai câu thơ cuối cùng, dường như cảm xúc đã đạt đến sự thăng hoa, hưng phấn. Cảm hứng của thi nhân được khơi dậy vào một đêm tuyết rơi. "Câu thần" nghĩa là câu thơ hay. Cảm xúc tràn đầy lại ngẫm nghĩ được câu thơ hay khiến nhân vật trữ tình không thể kiềm được mà cất tiếng ngâm, ca.
Như vậy, với câu lục xen lẫn câu thất cùng hình ảnh thơ ước lệ, giản dị, gần gũi và ngôn ngữ mộc mạc, mang giọng điệu của lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhà thơ đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên và sự hài lòng, thảnh thơi khi cáo quan về ở ẩn. Bài thơ đã tô đậm vẻ đẹp tư tưởng, tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi. Đó là một con người vĩ đại với nhân cách cao cả, lớn lao.
Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Trãi lại được các bậc anh minh trọng dụng và hậu thế ngàn đời coi trọng tôn vinh. "Ngôn chí" (bài 3) nói riêng và các sáng tác của ông đã cho thấy tư tưởng vượt thời đại, luôn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước và con người. Bởi vậy, các tác phẩm của ông luôn sống mãi trong lòng của người dân Việt Nam.
Nghị luận Ngôn Chí (mẫu 2)
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn hóa lớn mà còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài thơ hay và có giá trị cả về chữ Hán và chữ Nôm. Tiêu biểu cho sáng tác đó phải kể đến bài "Ngôn chí" (bài 3). Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của thi sĩ qua cuộc sống thường nhật.
"Ngôn chí" chính là bài thơ trong chùm thơ gồm 21 bài trong tập "Quốc âm thi tập". Nhan đề "Ngôn chí" không giới hạn "nói chí" trong phạm vi hẹp mà còn hàm chứa cả chí lẫn tình. Và bài thơ được viết theo thể thất ngôn xen lục ngôn, đây cũng là sự phá cách trong thể thơ của Ức Trai.
Ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã đã nói đến ba vấn đề trong cuộc sống của mình đó là nơi ở:
"Am trúc hiên mai ngày tháng qua.
Thị phi nào đến cõi yên hà. "
Nơi ở của Nguyễn Trãi là "am trúc" giúp ta hình dung ra cạnh nhà thi sĩ là cả rừng trúc. Còn trước sân nhà Ức Trai là cây mai. Thông thường, loại cây đó dùng để nói về chí khí của người quân tử. Vậy cây mai trước hiên nhà như tượng trưng cho chính lý tưởng của Nguyễn Trãi. Và có lẽ, "am trúc, hiên mai" là nơi "yên bình" để tác giả đếm ngày tháng qua, đếm những bình yên đang đón đợi. Như vậy, chúng ta có thể thấy ngay trong câu thơ đầu tiên, thi nhân đã tái hiện cuộc sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên, cảm nhận những vẻ đẹp thanh bình của cuộc đời. "Thị phi" là thế giới ồn ào, tấp nập, tranh đua ngoài kia. Còn nơi tác giả chọn sống đó là cõi "yên hà" với chốn thiên nhiên ở vùng quê, cách xa cuộc sống xô bồ. Như vậy chúng ta có thể cảm nhận được Nguyễn Trãi đã lựa chọn cuộc sống "lánh đục tìm trong", hòa hợp với thiên nhiên. Nơi ở ấy không có những bon chen của cuộc đời để nhà thơ có thể giữ cho tâm hồn trong sạch. Câu thơ "Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt" cho ta thấy tác giả vô cùng yêu và gắn bó với thiên nhiên. Thi nhân giữ nước ao cho trong để bóng trăng chiếu xuống cho đẹp mà ngắm nhìn. Đây đúng là một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, tinh tế. Ánh trăng có lẽ không chỉ để ngắm nhìn mà với Nguyễn Trãi đó là một người bạn tri âm, tri kỷ. Hơn nữa, ở ngoài vườn, đất đã được vun xới rất thuận lợi cho việc trồng trọt. Vậy qua đây, ta thấy Nguyễn Trãi giống như một người nông dân, làm những việc bình dị để nuôi dưỡng tâm hồn, vun xới, gieo trồng và thưởng thức cái đẹp.
Không chỉ có sống gắn bó với tự nhiên mà thi sĩ còn chọn cho mình lối sống giản dị nhưng thanh cao. Nguyễn Trãi không cầu kì trong việc ăn mặc thường ngày "Cơm ăn dầu có dưa muối/ Áo mặc nài chi gấm là". "Dưa muối" là thức ăn quen thuộc của người nông dân Việt Nam. Đây cũng là thức ăn tác giả chọn để thưởng thức ở chốn quê. Hơn nữa, trang phục thi nhân chọn không phải là áo gấm, lụa là như khi làm quan nữa mà đó là những tấm áo bình dị. Qua đây, ta thấy Nguyễn Trãi sinh hoạt như những người nông dân thôn dã, bình dị chứ không màng công danh phú quý. Khép lại bài thơ là hình ảnh "Trong khi hứng động vừa đêm khuyết/ Ngâm được câu thần dặng dặng ca". Dường như, thi nhân đang đong đầy cảm xúc vậy nên những vần thơ như được tự tuôn ra. Lúc này, ngỡ như con người có thể giao hòa cùng thiên, đất trời, vũ trụ.
Qua bài thơ, chúng ta cảm nhận được bức tranh cuộc sống yên bình và tâm hồn của tác gia Nguyễn Trãi. Thi sĩ chọn từ bỏ chốn quan trường mà về bầu bạn với thiên nhiên, sống giản dị nhưng vô cùng thanh cao. Mặc dù "lánh đục tìm trong" nhưng thi nhân vẫn luôn trăn trở, âu lo cho đất nước. Đó là nỗi lòng của bậc quân tử, một lòng nghĩ cho nhân dân.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc Nguyễn Trãi đã mang đến cho chúng ta một bài thơ hay. Qua bài thơ, chúng ta cảm nhận được một tâm hồn thi sĩ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu đất nước tha thiết.
Nghị luận Ngôn Chí (mẫu 3)
Nhắc đến những nhà thơ lớn của dân tộc sẽ thật thiếu sót khi bỏ qua cái tên Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã để lại cho đời nhiều tác phẩm cả chữ Hán và chữ Nôm có giá trị lớn. Thơ của ông có sự kết hợp giữa lòng yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Trong đó, nổi bật là "Ngôn chí" (bài 3). Bài thơ đã giúp người đọc có những cảm nhận rõ nét về bức tranh thiên nhiên làng quê yên bình. Qua đó, tác giả gửi gắm những suy tư, quan niệm sống của chính mình.
Ở những câu thơ đầu ta cảm nhận được vẻ đẹp của thi nhân qua cuộc sống thường nhật: "Am trúc hiên mai ngày tháng qua/ Thị phi nào đến cõi yên hà". Hai câu thơ như mở ra trước người đọc hình dung khung cảnh rừng trúc rộng lớn. Nơi ở của tác giả không chỉ có "am trúc" mà trước hiên nhà còn có cây mai. Hình ảnh cây mai như gợi lên cốt cách thanh cao người quân tử Ức Trai. Câu thơ đã gợi lên cho người đọc một không gian sống dân dã, mộc mạc tại làng quê. Cụm từ "ngày tháng qua" thể hiện sự trôi chảy của thời gian. Từng ngày, từng ngày trôi qua, thi nhân bầu bạn với tự nhiên, thả hồn mình cảm nhận những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Lui về ở ẩn, tác giả rời xa chốn quan trường xa hoa, bon chen nơi đầy những "thị phi" để về với cõi "yên hà". Nơi ở của nhà thơ tách biệt hoàn toàn với cuộc sống hối hả bên ngoài. Ở nơi đây, chỉ có Nguyễn Trãi cùng với vẻ đẹp bình dị của đất trời.
Không chỉ chọn nơi ở để "di dưỡng tâm hồn", thi nhân còn rất giản dị trong cuộc sống thường ngày "Cơm ăn dầu có dưa muối/ Áo mặc nài chi gấm là". Bữa ăn hàng ngày với "dưa muối", món ăn quen thuộc với những người nông dân. Còn về trang phục, không phải là áo gấm lụa là như khi còn làm quan nữa mà đó là những tấm áo bình dị. Khi chọn cho mình lối sống ở ẩn, dẫu bữa ăn, trang phục đơn giản nhưng nhân vật trữ tình vẫn cảm thấy hài lòng, hạnh phúc. Vậy chỉ với bốn câu thơ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được cuộc sống của nhà thơ hiện lên thanh bình, giản dị.
Những câu thơ tiếp theo đã giúp ta cảm nhận được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. "Nước dưỡng cho thanh" nhân vật trữ tình giữ cho nước ao trong để bóng trăng chiếu xuống cho đẹp mà "thưởng nguyệt". Ở đây, tác giả sử dụng lối nói ẩn dụ. Việc ngắm trăng cũng giống như việc con người nuôi dưỡng chính tâm hồn mình vậy. Muốn cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống thì con người cần giữ cho mình những phẩm chất tốt đẹp. Nguyễn Trãi còn giống như một người nông dân, hàng ngày "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Nhân vật trữ tình vun xới, đào đất cho tơi xốp, sau đó mới gieo trồng. Ở đây, ta thấy cuộc sống của Nguyễn Trãi giống như một lão nông tri điền, làm những việc bình dị nhưng để di dưỡng tâm hồn, gieo mầm cái đẹp và thưởng thức cái đẹp.
Trong hai câu thơ cuối như nhãn tự của cả bài thơ "Trong khi hứng động vừa đêm tuyết/ Ngâm được câu thần dặng dặng ca". Ở đây, ta thấy những vần thơ tràn đầy cảm hứng, ngỡ như con người có thể giao hòa cùng với thiên nhiên, đất trời, vũ trụ. Lúc này, dường như cảm xúc trong thi sĩ đã đạt đến sự thăng hoa nên không thể kìm lòng được mà cất tiếng ngâm thơ.
Với những hình ảnh giản dị, mang màu sắc dân tộc, Nguyễn Trãi đã mang đến cho người đọc một bài thơ hay và ý nghĩa. Đọc "Ngôn chí", ta cảm nhận được hình ảnh thật đẹp của một ẩn sĩ khi quyết định từ bỏ chốn quan trường mà về bầu bạn với thiên nhiên nơi dân dã, đó là một nhà thơ có lối sống thanh bạch, liêm khiết. Mặc dù chọn lui về quê ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn trăn trở, nghĩ suy về cuộc đời, về giang sơn đất nước. Ông luôn mong mỏi, khát khao một ngày "Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Qua "Ngôn chí", (bài 3), người đọc dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của tác gia Nguyễn Trãi. Không chỉ gắn bó với thiên nhiên mà tác giả còn sống giản dị, thanh cao. Theo thời gian, những tác phẩm của ông sẽ luôn sống mãi trong lòng người.
Nghị luận Ngôn chí mẫu 4
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là nhà thơ đại tài của dân tộc. Ông đã được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới bởi những đóng góp to lớn của mình. Tập "Quốc âm thi tập" do ông sáng tác bằng chữ Nôm đã đánh dấu sự hình thành cho thơ ca tiếng Việt, một trong số đó là "Ngôn chí" (bài 3). Đây là tác phẩm có ý nghĩa quan trọng, thể hiện được nhân cách, tư tưởng cao cả, tốt đẹp của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Trước hết, nổi bật trong văn bản là vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên. Các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên có thể kể đến trong tác phẩm là "am trúc hiên mai", "nước", "ao", "nguyệt", "đất cày", "hoa", "đêm tuyết". Ở hai câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được không gian sống yên bình, thanh tĩnh qua hình ảnh mái hiên và cây mai. Từ "yên hà" ngoài việc chỉ nơi ở yên tĩnh còn diễn tả vẻ đẹp của bầu trời lúc bình minh hoặc hoàng hôn. Khói sương, khói sóng ngập tràn khắp đất trời, hòa cùng với ánh rực rỡ của bầu trời khi ngày mới sang hay lúc chiều tà. Dường như, nơi ở của nhà thơ tách biệt hoàn toàn với sự ồn ào, xô bồ của thế giới náo nhiệt bên ngoài. Ở đó chỉ có thi nhân cùng vẻ đẹp ngây ngất của đất trời.
Ở những câu thơ tiếp theo, thiên nhiên trong cảm nhận của nhân vật trữ tình thật nên thơ. Trong thơ ca cổ, ánh trăng không chỉ là ánh sáng tự nhiên xua tan đêm tối mà còn là nguồn cảm hứng vô tận để lòng người bật ra ý thơ. Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt" vừa diễn tả được độ trong của nước ao vừa khắc họa được sự huyền hoặc, lung linh của ánh trăng. Vào đêm thanh vắng, bóng trăng in xuống mặt nước trong xanh. Bức tranh thiên nhiên ấy còn hiện lên một cách chân thực và sinh động với hình ảnh của "đất" và "hoa" ở dòng "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Đất đã được cày cuốc, vun xới kĩ càng nên rất khô, tơi và bở. Đây là môi trường sống thuận lợi của cỏ cây. Từ "ương" được hiểu là ấp ủ, làm cho một vật gì đó sinh sôi, nảy nở. Như vậy, đất ươm mầm những loài hoa, giúp hoa tỏa hương thơm ngát. Dòng thơ gợi ra sự tốt tươi, trù phú của vạn vật. Thiên nhiên hiện lên đầy sức sống, vừa yên bình vừa thơ mộng, trữ tình trong đôi mắt của một con người tràn ngập tình yêu dành cho tự nhiên.
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên, ta còn thấy được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trước cuộc sống hiện tại, chủ thể trữ tình bày tỏ sự hài lòng, mãn nguyện:
"Am trúc hiên mai ngày tháng qua.
Thị phi nào đến cõi yên hà."
Cụm từ "ngày tháng qua" gợi ra sự chảy trôi của thời gian. Thời gian đi qua một cách êm đềm từ ngày này qua tháng nọ cũng như cuộc sống an yên của nhân vật trữ tình. Lui về ở ẩn, những đàm tiếu, dị nghị của thiên hạ không thể đến được chốn ở của thi nhân "Thị phi nào đến cõi yên hà". Nhân vật trữ tình sống ở chốn thanh tĩnh cách xa cuộc sống xô bồ, bỏ lại bên ngoài những "thị phi", đúng sai, phải trái của người đời. Dường như, chủ thể trữ tình đã đạt đến sự tự do, tự tại trong tâm hồn.
Đến câu ba, bốn, ta thấy thể thơ đã có sự thay đổi khi câu lục xen giữa câu thất. Tác giả bày tỏ sự hài lòng với cuộc hiện hiện tại "Cơm ăn dầu có dưa muối;/ Áo mặc nài chi gấm là". Vải gấm là một loại vải có nguồn gốc từ tự nhiên, được dệt từ sợi tơ tằm. Đây được coi là loại vải thượng hạng vì có họa tiết cầu kì, bắt mắt cũng như đem đến cho người mặc cảm giác mềm mịn, mượt mà. Bởi lẽ đó, gấm chỉ dành cho các vị vua chúa, quan lại ở thuở xưa. Từ bỏ quan trường để lui về ở ẩn, nhân vật trữ tình không cần đến áo gấm lụa là, cơm ăn dù chỉ có dưa muối nhưng vẫn cảm thấy vui vẻ, mãn nguyện. Đó là cốt cách của một con người đường hoàng, cao cả, không màng vinh hoa, phú quý.
Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt" mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên nhưng cũng chất chứa suy nghĩ, tâm tư của tác giả. Đây là một lối nói ẩn dụ của nhà thơ. Nước giữ gìn sự thanh khiết để thưởng thức ánh trăng cũng như con người phải giữ gìn, nuôi dưỡng sự liêm khiết để đón nhận những điều tốt đẹp. Cuộc sống hàng ngày diễn ra trong êm đềm, thong thả với công việc lao động bình dân "Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Giờ đây, nhà thơ không còn là một vị quan oai phong, lẫm liệt mà trở về sống như người nông dân ngày ngày cuốc đất, trồng trọt. Đó là cuộc sống hết sức bình dị, thảnh thơi.
Trong hai câu thơ cuối cùng, dường như cảm xúc đã đạt đến sự thăng hoa, hưng phấn. Cảm hứng của thi nhân được khơi dậy vào một đêm tuyết rơi. "Câu thần" nghĩa là câu thơ hay. Cảm xúc tràn đầy lại ngẫm nghĩ được câu thơ hay khiến nhân vật trữ tình không thể kiềm được mà cất tiếng ngâm, ca.
Như vậy, với câu lục xen lẫn câu thất cùng hình ảnh thơ ước lệ, giản dị, gần gũi và ngôn ngữ mộc mạc, mang giọng điệu của lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhà thơ đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên và sự hài lòng, thảnh thơi khi cáo quan về ở ẩn. Bài thơ đã tô đậm vẻ đẹp tư tưởng, tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi. Đó là một con người vĩ đại với nhân cách cao cả, lớn lao.
Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Trãi lại được các bậc anh minh trọng dụng và hậu thế ngàn đời coi trọng tôn vinh. "Ngôn chí" (bài 3) nói riêng và các sáng tác của ông đã cho thấy tư tưởng vượt thời đại, luôn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước và con người. Bởi vậy, các tác phẩm của ông luôn sống mãi trong lòng của người dân Việt Nam.
Nghị luận Ngôn chí mẫu 5
Thiên nhiên là trong những nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Chính bởi say đắm cái vẻ đẹp tình tứ, ngọt ngào của thiên nhiên mang lại, nhiều nhà thơ đã không kìm nổi lòng mình. Hoặc đôi khi, viết về thiên nhiên song lại ẩn chứa nỗi lòng trắc ẩn. Đến với nhà thơ Nguyễn Trãi, người đọc được hòa mình với thiên nhiên thơ mộng, trữ tình qua bài “Ngôn chí”:
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi yên hà.
Cơm ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là.
Nước dưỡng cho thanh, tri thưởng nguyệt,
Đất cày ngõ ải luống ương hoa.
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết,
Ngâm được câu thần dắng dắng ca.”
“Ngôn chí” là bài thơ thứ ba được rút trong tập “Quốc âm thi tập” viết bằng chữ Nôm thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật biến thể. Với lời thơ mộc mạc, giản dị mà ngắn gọn, “Ngôn chí” đã nêu bật được tâm hồn yêu thiên nhiên và ẩn sau đó là vẻ đẹp cốt cách thanh tao của tác giả.
Bàn đến “Ngôn chí”, điều mà người đọc ấn tượng nhất, ấy chính là vẻ đẹp thiên nhiên quá đỗi thơ mộng:
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi yên hà.”
Hình ảnh mái hiên và cây mai xuất hiện ngay câu đầu tiên của bải thơ gợi sự gần gũi, thân quen về khung cảnh làng quê Việt Nam. Điều này đã mang đến một không gian tĩnh mịch, yên bình mà người đọc có thể cảm nhận được thông qua “am trúc hiên mai”.
“Nước dưỡng cho thanh, tri thưởng nguyệt,
Đất cày ngõ ải luống ương hoa.”
Mặt nước xanh phẳng lặng được bóng trăng chiếu rọi làm sáng cả mặt hồ. Dưới ánh trăng tròn, to lung linh huyền ảo đó, ta được say sưa đắm mình ngắm trăng – ngắm vẻ đẹp của tạo hóa. Không chỉ vậy, hình ảnh “đất” và “hoa” tạo sự liên kết nhân quả. Nhờ có đất ‘bồi bổ” mà ra đời những luống hoa thơm ngát tỏa rực cả một vùng trời. Vẻ đẹp thiên nhiên đâu cần phải là thứ gì đấy mĩ miều, thiên nhiên, đơn giản chỉ là những quanh cảnh đời thường, chỉ cần khựng lại nhìn một chút, ta sẽ thấy, mọi thứ xung quanh thật đẹp. Vạn vật dường như căng tràn sức sống.
Không chỉ miêu tả về vẻ đẹp thiên nhiên, bài thơ còn là nỗi giãi bày tâm sự của tác giả:
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi yên hà.”
Cảnh vật đẹp đến yên bình như thế, Nguyễn Trãi gọi đó là “cõi yên hà”. Đây là không gian mà không có bất cứ chuyện gì có thể xảy ra, là không gian tách biệt với thế giới bên ngoài, tách biệt với những ồn ào xô bồ ngoài kia. Điều này đặc biệt thú ý đối với những vị quan ngày xưa, khi gặp chuyện bất bình, họ chọn giải pháp “bế quan tỏa cảng” để gìn giữ cái phẩm cách cao quý của mình.
“Cơm ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là.”
Món ăn bình dị của người Việt – cơm cà dưa muối lại là món ăn mà nhân vật trữ tình lựa chọn để viết nên những vần thơ. Không phải là sự ngẫu nhiên! Làm quan, ta biết rằng, đó là những vị được ăn sung mặc sướng. Với đủ những của ngon vật lạ trên đời, khoác lên mình những bộ đồ làm từ gấm vóc sang trọng, song đó không là điều mà Nguyễn Trãi cảm thấy vinh dự hay tự hào. Ông cho rằng, cốt cách của một người làm quan, cao quý nhất là kẻ không màng đến hư vinh. Vậy nên, khi sống cuộc sống hiện tại, tuy bình dị, đơn giản nhưng lại làm cho nhân vật trữ tình hài lòng, mãn nguyện.
“Nước dưỡng cho thanh, tri thưởng nguyệt,
Đất cày ngõ ải luống ương hoa.”
Trăng sáng như phẩm cách của người làm việc chốn quan trường. Tâm sạch mới được lòng dân, mới không hổ thẹn với đời. Biện pháp tu từ ẩn dụ đã ngầm nói lên mong ước của ông. Là một vị quan song lại sống một cuộc sống hết sức đời thường, như người nông dân chính hiệu khiến ông cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản.
“Trong khi hứng động vừa đêm tuyết,
Ngâm được câu thần dắng dắng ca.”
Trong đêm tuyết rơi đã đẩy cảm xúc của nhân vật trữ tình lên đỉnh cao. Ông thăng hoa với nghệ thuật, lời thơ cứ thế tuôn ra một cách tự nhiên. Tiếng ngâm ca ấy, có chăng là tiếng lòng được cất giấu bao lâu nay chưa có dịp để thỏa? Tác giả gọi đây là “câu thần”.
Hiểu được sự, phải đi từ gốc rễ. Người ta phải được con người của người sáng tác, mới dần cảm thụ được qua thơ. Thơ đến với người ta, đâu gì xa hoa, lộng lẫy. Thơ, hãy cứ là chính mình! Chỉ cần xuất phát từ trái tim, thì đó là bài thơ đáng được trân trọng. Bởi đó là những vần thơ chân thật, không ma mị, xảo quyệt! Và có lẽ, với Nguyễn Trãi – nhà làm quan lỗi lạc, ông không để những thứ hư vinh làm vấy bẩn cốt cách cao quý của chính mình. Bài thơ “Ngôn chí” một mặt diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, một mặt nói lên vẻ đẹp cốt cách của người cầm bút. Chính điều này đã chạm đến sự ngưỡng mộ của độc giả. Đó là tình cảm trân quý về một người làm nghệ thuật có tâm.
Như vậy, thông qua “Ngôn chí” của Nguyễn Trãi, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, trữ tình đồng thời bày tỏ sự trân trọng nhân cách người làm quan một thời!
Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ Văn 11 - Kết nối tri thức hay khác:
Nghị luận về Bảo kính cảnh giới
Nghị luận về Bạch Đằng hải khẩu