Đề bài: Nghị luận về Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch
Dàn ý
1. Mở bài
- Dẫn dắt vào vấn đề.
2. Thân bài
a. Giải thích câu nói:
- "Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực" bởi nó chứa đựng những nội dung mang sức ảnh hưởng to lớn, với những giá trị tinh thần dày dặn.
→ Nó giúp con người thay đổi thế giới một cách hiệu quả, không cần phải đụng đến đao kiếm, súng đạn, nó tác động sâu sắc đến thế giới nội tâm, rồi thay đổi tư duy và hành động một cách mạnh mẽ và tự nguyện.
- Câu nói nhấn mạnh hai vai trò chính của văn chương là thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan của loài người. Đồng thời cũng là nguồn nước ngọt để nuôi dưỡng, vun đắp, gột rửa nhân cách đạo đức của từng cá nhân cho thêm phần trong sạch, thanh cao.
=> Khẳng định câu nói của Thạch Lam là đúng đắn.
b. Bàn luận:
* Văn chương tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, phản ánh sâu sát hiện thực và khách quan những sự kiện đã diễn ra trong cuộc sống từ lớn tới nhỏ.
- Văn chương đã thay mặt nhân dân để tố cáo, phê phán những bất công, sự tàn ác, những sự thật mà kẻ thù muốn bịp bợm che giấu một cách rõ ràng và chân thực bằng ngòi bút sắc bén có tính đả kích mạnh mẽ. Nêu ví dụ.
- Văn chương ra đời không chỉ để phê phán hay lên án mà quan trọng hơn và là mục đích cuối cùng đó là người làm văn muốn thay đổi thế giới, muốn thức tỉnh con người đứng lên đấu tranh giành lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn, đánh đuổi cái ác, cái xấu đang hoành hành ngự trị. Ví dụ một số tác phẩm nổi bật.
* Văn chương là làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch và phong phú hơn.
- Củng cố thêm lòng yêu quê hương đất nước, nhận thức rõ về tầm quan trọng của gia đình, rồi càng thêm yêu và trân trọng cuộc sống tốt đẹp trước mắt.
- Ám thị cho người đọc cái cách đối nhân xử thế, dạy cho ta, hun đúc cho ta những phẩm chất tốt đẹp như đức tính nhân hậu bao dung.
- Sự chỉnh chu trong tác phong làm việc, cách sống lối suy nghĩ, khuyến khích động viên mỗi con người lòng yêu quê hương xứ sở, yêu con người, tinh thần tự tôn dân tộc, lối sống ân tình trọn nghĩa, thủy chung với Cách mạng,...
- Nêu dẫn chứng.
c. Đánh giá:
- Câu nói của Thạch Lam đã phản ánh đúng bản chất và vai trò của văn chương trong cuộc sống, nhưng đồng thời cũng mở ra một vấn đề mới về cung cách làm văn.
- Văn chương không cần tìm ra một người thợ khéo tay, mà cần tìm một người có sức sáng tạo, biết tìm tòi thứ khác biệt, như Thạch Lam nói "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật".
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ cá nhân.
Một số bài văn mẫu hay
Văn chương là một thứ khí giới thanh cao - Mẫu 1
Nói về vai trò của văn chương đối với đời sống con người, mỗi nhà văn lại có những quan điểm riêng. Với Charles DuBos, văn học “là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng”. Với M. Gorki thì “Văn học là nhân học”. Và trong cảm quan của nhà văn Thạch Lam – người đi giữa địa hạt thơ và văn xuôi, “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Quan niệm ngắn gọn của nhà văn Thạch Lam đã bao quát được nhiều giá trị của văn học như giá trị hiện thực, giá trị thẩm mỹ, giá trị giáo dục. Theo nhà văn, một tác phẩm văn học chân chính phải là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực”, đầy tinh tế nhưng có sức công phá mãnh liệt, hướng đến phản ánh hiện thực xã hội, tố cáo những điều “giả dối và tàn ác” cướp đi hạnh phúc con người. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc đứng bên ngoài lề cuộc sống mà khắc họa hiện thực khô cứng, văn chương phải đề ra hướng đi cho con người, giúp tâm hồn con người “trong sạch và phong phú hơn”. Đây là quan niệm tích cực, tiến bộ, cho thấy tài năng và lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam.
Đầu tiên, nói về khả năng phản ánh hiện thực, tố cáo xã hội, ta có thể thấy rất nhiều tác phẩm văn học đã làm được điều này. Văn học cũng song hành cùng với sự phát triển của đời sống con người. Nếu nhà văn không “bắt mạch” được chuyển động của thời đại, tác phẩm văn học sẽ trở nên lạc hậu, không thể đem đến những giá trị đích thực với người đọc. Thời kì chiến tranh, đất nước sục sôi tinh thần chiến đấu. Những “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “Đồng chí”, “Việt Bắc”,… trở thành những vần thơ thúc đẩy tinh thần đoàn kết, ca ngợi vẻ đẹp đất nước và con người vượt lên cả khói bom lửa đạn. Vận mệnh dân tộc, đất nước được đặt lên hàng đầu. Những sáng tác văn học trở thành vũ khí chiến đấu mạnh mẽ, tố cáo tội ác của thực dân và Đế quốc. Tuy nhiên, khi chiến tranh lùi xa, đất nước hòa bình, những tác phẩm văn học chỉ tập trung vào ca ngợi quá khứ đã không còn phù hợp. Xã hội nảy sinh những vấn đề mới, đòi hỏi nhà văn phải tập trung vào khai thác những vấn đề cá nhân, tổn thương của con người sau chiến tranh,… Nguyễn Minh Châu với những tác phẩm như “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” chính là minh chứng rõ ràng cho điều này.
Nghệ thuật cũng có địa hạt riêng để nảy nở sinh sôi. Nó thực sự có khả năng khiến lòng ta thêm “trong sạch và phong phú”. Nếu không có những tác phẩm văn học đánh thẳng vào hiện thực xã hội mục ruỗng, vào thói hư tật xấu của con người như “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn,… thì biết bao giờ ta mới có thể nhận ra cuộc sống đang vô cùng lũng đoạn, biết bao con người thấp cổ bé họng đang đau khổ. Và rồi, cũng nhờ văn chương mà ta biết rằng ngoài những anh hùng ghi danh sử sách thì những người nông dân chân lấm tay bùn cũng có thể trở thành những người hùng yêu nước như “Làng” mà Kim Lân viết. Quả thực, đúng như Hoài Thanh nói: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”.
Người xưa thường nói: “Văn – Sử - Triết bất phân”. Tuy nhiên, dần dà, quan điểm ấy không còn phù hợp bởi giữa văn học, sử học và triết học tồn tại những ranh giới rõ ràng. Văn học không đơn thuần mô tả hiện thực lịch sử mà còn dùng sức mạnh ngôn từ, trí tưởng tượng, những thủ pháp nghệ thuật để gửi gắm tới người đọc những cách cải tạo cuộc sống, “nâng giấc những kẻ cùng đường tuyệt lộ”. Với “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã giúp chúng ta mở ra cánh cửa tự do, chống lại cường quyền và thần quyền. Cũng một thời, những vần thơ sau của Tố Hữu trở thành kim chỉ nam cho thanh niên Việt Nam lên đường theo cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Như vậy, quan niệm về vai trò của văn chương được nhà văn Thạch Lam đưa ra là vô cùng đúng đắn. Chính quan niệm nghệ thuật tiến bộ ấy đã góp phần tạo nên vị thế riêng của Thạch Lam trên văn đàn, giúp ông đem đến các tác phẩm giàu chất thơ mà vẫn khắc họa chân thực muôn màu đời sống.
Văn chương là một thứ khí giới thanh cao - Mẫu 2
Nhà văn Thạch Lam từng cho rằng: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Trong ý kiến của mình, nhà văn Thạch Lam muốn nhấn mạnh đến những giá trị của văn học: giá trị hiện thực, giá trị cải tạo xã hội và giá trị giáo dục của vãn học. Giá trị hiện thực của văn chương nằm ở khả năng “tố cáo” “thế giới giả dối và tàn ác”. Giá trị cải tạo xã hội chính là khả năng “thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác”. Bên cạnh đó, cải tạo xã hội là nhằm hướng đến giáo dục con người để “làm cho lòng thêm trong sạch và phong phú hơn”. Thật vậy!
Vãn chương có một sức mạnh tố cáo rất mãnh liệt. Nó lên án những hiện thực giả dối, tầm thường và nhơ bẩn. Người đọc không thể quên được cái xã hội đen tối, lật lọng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. vẻ bề ngoài, đó là một xã hôi bình yên thời thịnh trị:
"Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn bề phẳng lặng hai kinh vững vàng”.
Nguyễn Du đã bóc trần sự thật, điểm mặt chỉ tên từ những bậc quan lớn đến gã quan nhỏ; từ phường nhà chứa đến lớp Ưng, Khuyển tay sai. Này gã bán tơ và đám quan lại địa phương “làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền” khiến gia đình Kiều tan nát. Này phường buôn phấn bán hương Mã Giám Sinh cùng Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đã vào hùa để dìm đời Kiều xuồng bùn đen nhơ nhớp. Này gã “Tổng đôc trọng thần” Hồ Tôn Hiến bỉ ổi, dâm ô khiến Kiều trở thành người thiếu phụ giết chồng và buộc người anh hùng Từ Hải trân trân chết đứng. Rồi nữa, bầy Ưng Khuyển, lũ tay chân của Hoạn Thư cũng đã khiến Kiều bao phen điêu đứng, ..
Có thể nói, những ung nhọt nhức nhôi nằm sâu trong lòng xã hội phong kiến đã được nhiều tác phẩm văn học tố cáo: Cung oán ngâm khúc, Chuyện người con gái Nam Xương, Độc Tiểu Thanh kí,... Và “Truyện Kiều” là tác phẩm nổi bật hơn cả trong số đó về giá trị này.
Lịch sử sang trang, những năm nước nhà nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, vãn học đã hoàn thành trọn vẹn vai trò phản ánh hiện thực cái xã hội tối tăm, đê mạt ấy. Người đọc sẽ không bao giờ quên sự lộn xộn, nhí nhố của hình ảnh: “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ - ậm oẹ quan trường miệng thét loa” (Tú Xương). Cũng không bao giờ quên không khí ngột ngạt của những buổi thúc sưu, thúc thuế trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố hay hình ảnh nhân vật Chí Phèo - hiện thân cho nỗi đau khổ tột cùng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Những trang viết của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công, Hoan, Nam Cao,... sẽ mãi là những bằng chứng sinh động về những năm tháng tang thương chứa chan nước mắt của xã hội Việt Nam nửa thực dân nửa phong kiến.
Không dừng lại ở khả năng tố cáo xã hội, cùng với việc phơi bày những hiện thực tầm thường, giả dốì trong cuộc đời, văn học đã tác động mạnh mẽ đến ý thức của con người, nhờ đó tạo ra giá trị cải tạo xã hội. Không có những trang văn thấm đẫm giá trị hiện thực, con người có nhận ra hết bản chất của cuộc sông? Chính nhờ cái nhìn sâu sát, toàn điện về xã hội mà văn học mang đến, con người có được những tư tưởng đúng đắn, biết nhìn thẳng vào hiện thực, xây dựng những tình cảm yêu ghét tiến bộ. Đến lượt mình, tư tưởng là cội nguồn của mọi hành động, có được những tư tưởng đúng đắn, phù hợp với thời đại, con người sẽ có những hành động quyết liệt chông lại những thế lực chà đạp lên quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc của mình. Thực tế đã chứng minh chính văn chương tạo nên động lực cho những hành động cách mạng:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
(Nguyễn Đình Chiểu)
“Văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ cũng là những chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh)
Thực hiện nhiệm vụ “đâm tà”, chiến đấu, văn chương đã góp phần đắc lực vào nhiệm vụ “thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác”.
Xoá bỏ đi cái thế giới tàn ác, văn chương biết giáo dục con người để xây dựng một thế giới tươi đẹp, nhân văn hơn.
Văn chương là một thứ khí giới thanh cao - Mẫu 3
Để viết ra một tác phẩm hay đã khó, viết ra một tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng càng khó hơn. Thanh niên ngày nay ít đọc sách, vào vài năm trở lại đây điều ấy có phần nào được cải thiện, nhưng cải thiện bởi cái gọi là "phong trào" đọc sách, điều ấy vừa mang tính tích cực, và cũng lại có những góc tối khiến chúng ta phải băn khoăn. Đọc sách là tốt, ai cũng nghĩ vậy, thế nhưng có ai từng nghĩ thứ văn chương mà chúng ta, hay giới trẻ đang đọc là gì. Đó có thực là những cuốn sách mang giá trị nhân văn sâu sắc, đáng để đọc, để suy ngẫm hay chỉ là thứ văn chương giả dối bịp bợm, hại người, được viết sơ sài cả về nội dung, lẫn hình thức? Giữa những băn khoăn, trăn trở ấy, tôi bỗng nhớ lại một lời bình rất hay và sâu sắc của Thạch Lam rằng: "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch...". Mặc dù chỉ là nửa ý trong câu nói rất dài của tác giả thế nhưng người ta cũng thấy được tầm tư duy sáng suốt và đúng đắn khi nói về văn chương của một nhà văn chân chính đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị nhân văn to lớn.
Tại sao nói "Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực"? Bởi đó là loại vũ khí nằm trong tâm hồn của con người được con người hóa thành những lời văn giàu xúc cảm nhân văn, vừa tinh khiết, vừa thanh cao hướng về những điều tốt đẹp và tích cực mà con người mong muốn. Đắc lực ở chỗ mặc dù chỉ là những tờ giấy mỏng manh, nhưng lại chứa đựng những nội dung mang sức ảnh hưởng to lớn, với những giá trị tinh thần dày dặn. Nó giúp con người thay đổi thế giới một cách hiệu quả, không cần phải đụng đến đao kiếm, súng đạn, nó tác động sâu sắc đến thế giới nội tâm, rồi thay đổi tư duy và hành động một cách mạnh mẽ và tự nguyện. Thế nên nói "Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực" quả là chuẩn xác. Hơn thế nữa, câu nói của Thạch Lam không chỉ nhắc về văn chương như một thứ khí giới nhân đạo mà còn nhấn mạnh hai vai trò chính của văn chương là thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan của loài người. Đồng thời cũng là nguồn nước ngọt để nuôi dưỡng, vun đắp, gột rửa nhân cách đạo đức của từng cá nhân cho thêm phần trong sạch, thanh cao trước một xã hội có quá nhiều rối ren, uẩn khúc.
Trước hết nói về việc văn chương tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, văn chương xưa và nay dù là kín đáo hay công khai vẫn luôn phản ánh một cách rất chân thực thế giới và chế độ xã hội. Đó là sản phẩm tinh thần quý giá mà các nhà văn chân chính, hay rõ hơn là các nhà văn có đôi mắt tinh tường, ôm trong mình hoài bão "nghệ thuật vị nhân sinh" đã tạo ra bằng cả tất cả các tâm huyết và trí tuệ. Ngòi bút của họ luôn thực tế, phản ánh sâu sát hiện thực và khách quan những sự kiện đã diễn ra trong cuộc sống từ lớn tới nhỏ. Có thể lấy ví dụ về một Vũ Trọng Phụng với Số đỏ phản ánh một xã hội thượng lưu, bẩn thỉu, dối trá và lố bịch được bao ngoài bởi cái vỏ hào nhoáng xa hoa, một Nam Cao với Vợ nhặt trong nỗi ám ảnh về nạn đói những năm trước cách mạng, hay sự khốn nạn, chèn ép của chế độ thực dân nửa phong kiến với người trí thức nghèo trong Đời thừa. Rồi người ta cũng thấy một Chí Phèo sản phẩm của xã hội phong kiến tàn ác, vô nhân đạo, với bi kịch bị tha hóa nhân cách, một Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài với chế độ thần quyền, cường quyền đã cưỡng ép con người đến độ tê dại cả tâm hồn và lòng ham sống. Hay nhẹ nhàng hơn là Hai đứa trẻ của Thạch Lam phản ánh cái cuộc sống tối tăm nơi phố huyện những năm tháng đất nước còn nghèo khó và niềm mơ ước, khát khao hy vọng về một ngày mai tốt đẹp hơn của những con người nơi đây. Hoặc văn chương cũng phản ánh sự thảm khốc của chiến tranh, của chế độ thực dân, đế quốc rồi từ đó nêu bật lên vẻ đẹp anh dũng, tinh thần yêu nước của nhân dân ta ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, hay Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chí Minh,... và rất nhiều những tác phẩm khác nữa. Có thể nói rằng văn chương đã thay mặt nhân dân để tố cáo, phê phán những bất công, sự tàn ác, những sự thật mà kẻ thù muốn bịp bợm che giấu một cách rõ ràng và chân thực bằng những ngòi bút sắc bén có tính đả kích mạnh mẽ.
Nhưng văn chương ra đời không chỉ để phê phán hay lên án mà quan trọng hơn và là mục đích cuối cùng đó là người làm văn muốn thay đổi thế giới, muốn thức tỉnh con người đứng lên đấu tranh giành lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn, đánh đuổi cái ác, cái xấu đang hoành hành ngự trị. Như cái cách mà Mị và A Phủ vùng dậy bỏ trốn rồi đi theo cách mạng, như cái cách mà những người nghĩa sĩ Cần Giuộc áo vải đã đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương,... Từ việc thay đổi nhận thức, văn chương đã trở thành nguồn nội lực giúp con người trở nên mạnh mẽ, quyết tâm xóa nhòa những thứ đang kìm hãm bản thân và cả những người khác nữa, văn chương quyết không để một thế giới "thượng lưu" như Số đỏ tồn tại lâu, cũng quyết không để con người bị che mắt bởi sự giả dối và đê tiện. Nhà văn cầm bút cũng như cầm một thứ vũ khí tuyệt đỉnh là vậy. Và cho đến ngày hôm nay văn chương cũng vẫn đang làm rất tốt phận sự của mình, dĩ nhiên tôi không nói đến thứ văn chương rác đầu độc tâm hồn, tôi muốn nói đến những bài viết mang tính thời sự, không đến nỗi phơi bày nhưng cũng phản ánh một cách chính xác thực trạng xã hội, và từ đó khuyến khích con người đặc biệt là giới trẻ phải sống và phấn đấu để thay đổi đất nước.
Chức năng thứ hai của văn chương là làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch và phong phú hơn. Đúng thật vậy văn chương đã gột rửa tâm hồn con người, nhưng đó phải là thứ văn chương được viết với bằng một ngòi bút cao đẹp, viết những gì có ý nghĩa. Ví như Rô-mê-ô và Giu-li-ét cho chúng ta chứng kiến một tình yêu đẹp vượt qua cả hận thù của gia tộc, khiến con người tin tưởng hơn vào một tình yêu vĩnh cửu, Vợ nhặt khiến chúng ta nhận thức sâu sắc về tình cảm thương yêu gắn bó của gia đình trong những năm đói khổ, hoặc Vợ chồng A Phủ cũng đã thể hiện được ý chí, lòng ham sống mạnh mẽ trong con người. Có thể nói rằng bất kỳ tác phẩm nào dù ít hay nhiều đều tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người, từ văn chương người ta củng cố thêm lòng yêu quê hương đất nước, nhận thức rõ về tầm quan trọng của gia đình, rồi càng thêm yêu và trân trọng cuộc sống tốt đẹp trước mắt. Văn chương ám thị cho người đọc cái cách đối nhân xử thế, dạy cho ta, hun đúc cho ta những phẩm chất tốt đẹp như đức tính nhân hậu bao dung, ở hiền gặp lành, có thể thấy nhiều trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu, sự chỉnh chu trong tác phong làm việc, cách sống lối suy nghĩ ta có thể thấy trong tác phẩm Một người Hà Nội. Và nhiều nhất và phát triển mạnh mẽ nhất trong văn học Việt Nam đó chính là dòng văn học yêu nước đã khuyến khích động viên mỗi con người lòng yêu quê hương xứ sở, yêu con người, tinh thần tự tôn dân tộc, lối sống ân tình trọn nghĩa, thủy chung với Cách mạng,... với vô số những tác phẩm nổi tiếng như Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình, Đôi mắt,...
Không chỉ tu dưỡng đạo đức, văn chương còn làm cho tâm hồn ta thêm phong phú hơn, đọc sách lịch sử để hiểu rộng hơn về quá khứ của dân tộc rồi đúc kết bài học cho bản thân, đọc những bản tùy bút, bút ký như Người lái đò sông Đà hay Ai đã đặt tên cho dòng sông, để thấy quê hương mình tươi đẹp và hùng vĩ biết bao, hoặc đọc thứ văn chương viết về tâm lý con người để ta thêm thấu hiểu người bên cạnh, thấu hiểu về chính bản thân mình. Chung quy lại như Thạch Lam đã nói "văn chương bồi đắp thêm cho con người những thứ tình cảm tốt đẹp, luyện cho ta những tình cảm sẵn có". Chớ có ai nghĩ rằng người yêu văn thì tâm hồn mềm yếu và ủy mị, đó là sai lầm bởi chỉ có chính họ mới biết được đó là sự tinh tế, thấu hiểu tường tận những thứ mà trong trải nghiệm cuộc sống chưa chắc ta đã nhìn ra được, thế nên mượn văn chương để bồi đắp. Bởi suy cho cùng văn chương cũng là do con người tạo ra bằng chính những trải nghiệm, tìm tòi và nghiên cứu vất vả của bản thân họ.
Câu nói của Thạch Lam đã phản ánh đúng bản chất và vai trò của văn chương trong cuộc sống, nhưng đồng thời cũng mở ra một vấn đề mới về cung cách làm văn. Văn chương nói dễ thì cũng dễ, nói khó thì cũng khó, nếu như viết một tác phẩm đại trà chẳng mang nhiều ý nghĩa thì ai cũng múa bút thành thơ được, chẳng cần đến sự khám phá, đào sâu tìm kỹ mà làm gì. Thế nhưng để văn chương thật sự có giá trị thì đó là cả một quá trình. Ngày nay độc giả nhiều, thế nên nhà văn cũng nhan nhản xuất hiện, tuy nhiên hiếm khi nào người ta thấy được một tác phẩm hay, có giá trị nhân văn sâu sắc, mà đa số toàn là những thứ văn chương sáo rỗng, lời văn thì hoa mỹ, nhưng nội dung thì nghèo nàn, lặp lại. Có lẽ đó là thị hiếu của con người, có cầu thì mới có cung thế nhưng tôi nghĩ rằng văn chương không nên tầm thường như thế, cái thứ nghèo nàn cả nội dung lẫn hình thức thì đọc vào có lẽ cũng chỉ khiến tâm hồn chúng ta chững lại, chưa kể các những thứ văn chương còn khiến con người trở nên tiêu cực. Kẻ viết ra thứ văn cẩu thả, sáo mòn ấy phải nói theo cái cách của Nam Cao là "bất lương" và "đê tiện", thực tế văn chương không cần tìm ra một người thợ khéo tay, mà cần tìm một người có sức sáng tạo, biết tìm tòi thứ khác biệt, như Thạch Lam nói "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật". Chỉ có thế nền văn học của nước nhà mới có thể phát triển, văn hóa đọc của thanh niên và cả những lứa tuổi khác mới được củng cố và nâng cao, từ đó nhận thức và dân trí của con người mới có thể tiến bộ hơn được.
Cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh rằng, không chỉ nhà văn và cả các độc giả cũng cần suy nghĩ thêm về các chọn lọc và vận dụng văn chương, người viết thì cần sự sáng tạo, mới mẻ, người đọc thì cần tìm tòi, chắt lọc. Văn chương không phải là thứ để ta cẩu thả, hãy để văn chương mang đến cho ta một cuộc sống tốt hơn, một tâm hồn cao đẹp hơn, ta chưa cần vội thay đổi thế giới, trước hết hãy để văn chương được làm nhiệm vụ củng cố và nuôi dưỡng tâm hồn của ta trước nhé.
Văn chương là một thứ khí giới thanh cao - Mẫu 4
Nhà văn chân chính, có tài năng và có cái tâm đẹp thì văn chương phải có ích cho đời, phải là món ăn tinh thần cho người đọc. Với Thạch Lam, cầm bút viết văn là nhà văn thực hiện một thiên chức cao quý bởi lẽ "văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" để tố cáo và tích cực làm thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác. Không có gì đẹp hơn văn chương, không có gì mạnh hơn văn chương khi nó đã đi sâu vào lòng người. Là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhị của tư tưởng, "văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực", nó đã tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của con người mà trở thành sức mạnh hành động của xã hội:
Văn chương từ cuộc đời mà nở hoa, phải trở về cuộc đời mà kết trái. Tác dụng của văn chương đích thực, sứ mệnh của nhà văn chân chính là đem hương vị lại cho cuộc đời, đem văn chương phục vụ những lí tưởng cao đẹp. Những áng văn kiệt tác mang vẻ đẹp nhân văn tỏa sáng đến muôn đời, vì vậy đất nước ta, dân tộc ta mới có những thiên cổ hùng văn như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, những thiên cổ kì bút như Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực", nên Cao Bá Quát đã từng hạ bút khen: Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa tiên là tiếng nói răn đời vậy. Cũng vì coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Khi đã coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" thì không thể tầm thường nghề văn, không thể "quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá dễ dãi". Lại càng không thể sử dụng văn chương cho những mục đích tầm thường. Nhà văn phải là người có nhân cách đẹp, không thể lấy văn chương - "đem gấm vóc phủ lên xã hội điêu tàn" như bọn bồi bút hèn hạ.
Trong một xã hội đen tối, đầy rẫy bất công và tội ác, nhiệm vụ của nhà văn, sứ mệnh của văn chương phải đứng về nhân dân và tiến bộ mà "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác". Ông đã khẳng định tính khuynh hướng, tính chiến đấu của văn chương: "Văn chương không được thoát li thực tại, và cũng không thể dừng ở sự tố cáo những xấu xa, thối nát độc ác của xã hội, mà còn phải góp phần "thay đổi" nó, hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái hơn”. Cũng trong lời tựa Gió đầu mùa, Thạch Lam đã nói rõ: "...thiên chức nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Với Thạch Lam, nhà văn chân chính, văn chương đích thực phải lên án cái ác, cái xấu đồng thời hướng tới cái cao cả, cái tốt đẹp. Từ xưa đến nay văn chương là món ăn tinh thần không thể thiếu dối với mỗi dân tộc văn minh và tiến bộ. Nó không chỉ dinh dưỡng tinh thần mà còn có sức mạnh to lớn. Trong thế kỉ XV, vua Lê Thánh Tông Tao đàn nguyền súy đã viết:
Những lời hùng hồn đến át cả sông Ngân hà,
Những câu kì diệu khiến quỷ thần phải khóc.
Thân Nhân Trung, một trong "Nhị thập bát tú" của Hội Tao đàn cũng nói:
Lòng thơ vời vợi, thu phục vạn giáp binh,
Sức bút tung hoành, quét sạch hàng nghìn quân.
Với các nhà thơ trong Hội Tao đàn, thi sĩ mơ ước trở thành cây bút lớn, mỗi bài thơ, bài phú phải là "cái cày sắc nhọn" nơi đồng quê hoặc "lưỡi bảo đao lấp lánh" trong rừng tên biển giáo! Các nhà văn thời Phục hưng với sức mạnh của chủ nghĩa nhân văn đã góp phần to lớn chôn vùi chế độ phong kiến trung cổ và sự thống trị của nhà thờ hàng chục thế kỉ. Các nhà văn thời kì Ánh sáng ở Pháp như Đi-đơ-rô, Vôn-te... đã góp phần mở đường thắng lợi cho Cách mạng tư sản ở Pháp và nhiều nước Tây Âu, nêu cao lí tưởng Tự do, Bình đẳng và Bác ái. Có nhà văn trở thành cánh chim "báo bão" như Go-rơ-ki, có nhà văn trở thành "chủ tướng" của cách mạng văn hóa như Lỗ Tấn. Ở Việt Nam ta, "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng", và Tố Hữu với tập thơ Từ ấy đã trở thành tiếng kèn chiến đấu của "những con khôn của giống nòi"' vùng dậy vì tự do.
Xem thêm một số bài văn mẫu hay khác:
TOP 30 Bài văn Nghị luận xã hội về ý nghĩa việc hiểu mình, hiểu người (2024) SIÊU HAY
TOP 30 Bài văn Nghị luận xã hội về sự thấu cảm (2024) SIÊU HAY
TOP 50 Bài văn Nghị luận về thành công trong cuộc sống (2024) SIÊU HAY
TOP 30 Bài văn Nghị luận xã hội về nghề nghiệp tương lai (2024) SIÊU HAY