TOP 10 Phân tích đêm đông cứu A Phủ (2024) HAY NHẤT

1900.edu.vn dưới thiệu tới bạn đọc TOP 10 Phân tích đêm đông cứu A Phủ (2024) HAY NHẤT bao gồm dàn ý chi tiết các bài văn mẫu hay, chọn lọc cho học sinh tham khảo. Từ đó giúp các em học sinh học và ôn tập môn Văn tốt hơn. Mời các em tham khảo:

Phân tích Mị trong đêm cứu A Phủ

Dàn ý Phân tích Mị trong đêm cứu A Phủ : 

I. Mở bài

- Giới thiệu Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

II. Thân bài: Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ

– Giới thiệu ngắn gọn về A Phủ: một chàng trai cùng số phận với Mị, phải chịu bất công ở nhà thống lý Pá Tra vì mất bò.

– Tâm trạng của Mị trước khi cởi trói cho A Phủ:

+ Cuộc sống đau khổ tại nhà thống lý Pá Tra khiến Mị trở nên câm lặng trước mọi bi kịch. Mặc cho mọi điều xảy ra, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa và không để ý đến những gì xung quanh.

+ Tuy nhiên, trong lòng, Mị vẫn sợ hãi những đêm dài và buồn trên núi. Bếp lửa là điều không thể thiếu đối với Mị, nó là sự sống còn của cô.

– Sự đồng cảm với người cùng cảnh ngộ:

+ Mị nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh trên má xám đen của A Phủ và nhớ lại những nước mắt của mình khi bị A Sử trói. Mị đau lòng với số phận của cả hai và tự hỏi tại sao phải chịu cảnh chết chóc.

– Tình yêu lớn hơn cái chết:

+ Mị đồng cảm với A Phủ như đồng cảm với chính bản thân mình. Cô thương cho A Phủ không nên phải chịu đựng cái chết. Mị lo sợ nếu cô giải thoát cho A Phủ, bọn Pá Tra sẽ trừng phạt cô bằng cái cột gai góc kia... Nhưng có lẽ tình thương trong Mị lớn hơn cả cái chết. Tình thương ấy đã thúc đẩy cô đến hành động giải thoát cho A Phủ.

– Từ việc cứu người đến việc cứu mình:

+ Khi Mị cởi trói cho A Phủ xong, cô đứng im lặng trong bóng tối. Tuy nhiên, trong khoảnh khắc đó, mọi thứ diễn ra rất nhanh trong tâm trí của người phụ nữ đang đau khổ. Mị vội vàng bước đi. Mặc cho đêm đã khá tối, Mị vẫn quyết bước đi. Vì nơi này không phải là nơi cô muốn kết thúc.

+ Hành động của Mị không chỉ là bản năng mà còn là kết quả của sự tỉnh thức, khao khát sống tự do. Cô giải thoát cho A Phủ cũng là giải thoát cho bản thân mình! Hành động dũng cảm và bất ngờ đó chính là hậu quả tất yếu của sức mạnh bên trong khiến một người phụ nữ yếu đuối dám đương đầu với cường quyền và thần quyền.

III. Kết luận:

- Qua tâm trạng của Mị trong đêm giải thoát cho A Phủ, chúng ta nhìn thấy sức mạnh sống trong một người phụ nữ bị đau khổ về cả thể xác và tinh thần, dường như đã mất đi mọi hy vọng. Việc yêu thương và tin tưởng vào con người đã giúp nhà văn có cái nhìn nhân đạo như vậy.

- Tô Hoài đã mô tả tâm trạng của nhân vật Mị một cách tự nhiên, hợp lý và chân thực. Nếu không có sự phát triển tâm trạng, chúng ta sẽ không hiểu được hành động của nhân vật. Hành động cuối cùng của Mị - giải thoát cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng lại phản ánh đúng bản chất của con người và cuộc sống. Tô Hoài không chỉ đưa ra các hành động của nhân vật mà còn giải thích vì sao họ lại làm như vậy. Nhờ vậy, nhà văn đã thành công trong việc tạo ra một nhân vật sống động với sức mạnh bên trong mạnh mẽ, ẩn sau vẻ ngoài tưởng chừng vô hồn của Mị. Vì vậy, nhiều người coi đây là “một nhân vật nổi bật nhất trong văn học cách mạng đương đại Việt Nam”

 

Phân Tích Tâm Trạng Của Mị Trong Đêm Giải Thoát A Phủ

Bài văn mẫu số 1 

“Đất và con người miền Tây Bắc để lại nhiều ấn tượng đặc biệt với tôi” (Tô Hoài). Tập truyện “Truyện Tây Bắc” là thành quả nghệ thuật đẹp mắt mà Tô Hoài thu hoạch sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, nơi mà cảm xúc nhớ thương bồi hồi, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho miền đất và con người Tây Bắc đau thương, anh dũng, và đầy nước mắt của niềm vui với tinh thần văn chương. Trong số những truyện ngắn đặc sắc của tập truyện, “Vợ Chồng A Phủ” là bức tranh thực tế, cảm động về cuộc sống tối tăm, nhục nhã và sức mạnh vươn lên của những người dân tộc vùng cao Tây Bắc tìm đến tự do hạnh phúc. Giá trị của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị.

Nếu các nhà văn hiện thực chỉ nhìn thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh, thì các nhà văn cách mạng luôn phát triển sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những người khổ cực. Là một cây bút xuất sắc trong văn học cách mạng Việt Nam, Tô Hoài không chỉ thành công khi diễn tả sự chết dần chết mòn của Mị - một cô gái tràn đầy sức sống mà còn tinh tế khi khám phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu có một hoàn cảnh làm tê liệt sức sống của Mị thì chắc chắn cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị vật dây trói cứu A Phủ đầy gian khổ và căng thẳng.

A Phủ là chàng trai nghèo khổ với cả cha lẫn mẹ, vì đã đánh A Sử, A Phủ bị thống lý Pa Tra bắt trói rồi bỏ qua đó mấy ngày liền giữa mùa đông lạnh buốt. Mỗi đêm trên núi cao dài và buồn, Mị đều dậy thổi lửa ấm tay. Dù đã quen với cảnh bị trói, Mị vẫn thảnh thơi thổi lửa. 'Nếu A Phủ chỉ là cái xác chết đứng đó thì cũng được. Mị vẫn tiếp tục sống, vẫn sưởi ấm, chỉ cần còn ở với ngọn lửa này.' Thương cảnh của cha con thống lý Pa Tra đã làm cho tâm hồn Mị tê liệt, trở nên vô cảm. Nhưng khi Mị nhìn thấy nước mắt của A Phủ, trái tim Mị bỗng dậy sóng, thương tình đổi thay, thương cả A Phủ lẫn chính Mị. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị đầy bi phẫn và căm hận cha con thống lý Pa Tra; 'Trời ơi, chúng nó bắt trói người ta đến chết, nói bắt mình đến chết, bắt trói đến chết người phụ nữ trước cũng ở cái nhà này cũng thôi. Chúng nó thật độc ác,' lần đầu tiên sau bao năm im lặng, Mị dũng cảm phê phán cha con thống lý bằng lời kết án sắt đá. Mị như lột xác, trở lại là cô gái dũng cảm, khát khao tự do, tinh thần phản kháng sôi sục. Rồi Mị nghĩ đến tình cảnh nguy khốn của A Phủ: 'cơ hồ này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết... Người kia sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lý.' Nghĩ về điều đó, trong tình cảnh đó, Mị không còn sợ hãi. Tình thương người ngày càng mạnh mẽ, lớn hơn thương tình và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, thúc đẩy Mị hành động một cách dũng cảm: cắt dây trói cứu A Phủ.

Sau khi cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất ngờ rớt vào trạng thái hoàng hoảng. Mị chỉ nói một tiếng « đi ngay ! » rồi thấy mình im lặng. Mị đứng yên trong bóng tối, sau đó đuổi theo A Phủ, bắt kịp anh. Sợ hổng hại và hành động truy đuổi A Phủ bất ngờ của Mị sau khi suy nghĩ lườm tính lại, nhưng cũng hợp lý. Tất cả mọi người đều sợ chết, nhất là khi sự kiện này đang gần. Là một phụ nữ, Mị yêu sống và luôn có mong muốn sống, Mị không thể chấp nhận rằng sẽ chết ở cái chỗ tội lỗi này. Cuối cùng, hành động nổi loạn của A Phủ đã hoàn toàn cứu giải Mị. Hành động ấy giống như một đứa trẻ cháy bắt lửa, đã khai thác một nguồn sống mạnh mẽ trong Mị, đẩy Mị thực hiện hành động mạnh mẽ hơn: cùng A Phủ thoát khỏi địa ngục Hồng Ngài. Vậy là, sau nhiều năm bị áp đặp, sức sống trong tình hữu tình duyên của Mị đã bùng cháy trong đêm « định mệnh ». Sức mạnh ấy là nguồn cứu rỗi cho cả A Phủ và Mị, đưa họ từ địa ngục đến chân trời tự do và hạnh phúc.

Đọc 'Vợ chồng A Phủ', không ai có thể không cảm thấy thương tiếc khi nhìn thấy cô Mị bị đàn ông ác liệt vùi dập. Cô chết dần dần, đau đớn, vô hồn, giống như con rùa bị hại để trong mọi suy nghĩ đen tối, như một xác không có hồn. Nhưng điều mà người đọc cảm nhận được sâu sắc nhất về cô Mị vẫn là sức sống mạnh mẽ, âm thầm, và mong muốn lớn lao. Cô Mị của Tô Hoài, từ một cô gái nhỏ bé, bị đau khổ, dựa vào bản tính sống mạnh mẽ, cô là người con nổi hận hiếu thượng. Nhưng khi cô cắt dây cứu A Phủ, cô cũng đã tự cắt dây buộc cuộc sống của mình với gia đình của A Phủ.

Bài văn mẫu số 2 

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đã giành giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Tác phẩm được tạo ra từ sự thấu hiểu về cuộc sống của cư dân miền núi Tây Bắc, kể về những khó khăn, đau khổ của nhân dân trong vùng khi chưa có sự lãnh đạo của Đảng. Khi đọc Vợ chồng A Phủ, không ai có thể quên được việc Mị cắt dây trói để cứu A Phủ – một chi tiết quan trọng trong tác phẩm. Và như đã từng được nói, khi Mị cắt dây trói cho A Phủ, cô cũng đã tự giải phóng cuộc đời mình khỏi sự kiểm soát của nhà thông lí Pá Tra.

Câu chuyện về Mị, bắt đầu từ một hình ảnh đầy ẩn dụ: “Ai đi ngang qua nhà thông lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù làm việc quay sợi gai, bấm cỏ ngựa, làm vải, chém củi hoặc mang nước từ dưới suối lên, cô ấy vẫn cúi mặt, mặt u buồn”, chỉ với hai câu văn đó, bản chất của tình hình đã được hiện lên rõ ràng. Câu văn đủ dài để đọc giả hiểu một cách sâu sắc. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng. Mị là một cô gái thuộc gia đình nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ trung, đầy lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị cũng là một cô gái hiếu thảo như một đứa con… Nhưng, vì một “nợ gia truyền” của người nghèo, cô phải “đi làm” trong nhà thông lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu nhận lãi. Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”. Mị đau khổ, uất ức, tức giận. “Có mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không chấp nhận cuộc sống nô lệ cho người giàu có. Nhưng, tất cả đã là quyết định của số phận như Nàng Kiều của Nguyễn Du, trước khi bước vào cuộc sống êm đềm, cũng đã từng suy nghĩ về cái chết, nhưng không thể thoát khỏi 15 năm gian truân này, Mị còn khổ hơn, bởi vì món nợ vẫn còn đây, đổ lên đầu bố già. Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, nhiều vất vả, gian khổ nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị không còn nghĩ về cái chết, bởi vì “Mị quen với cuộc sống này. Bây giờ Mị như một con trâu, con ngựa (…) biết ăn cỏ, biết làm việc thôi”. Cuộc sống của Mị chỉ là công việc liên tục, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác là áp lực về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ cho giai cấp thống trị. Đó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như Mác đã từng nói.

Mỗi ngày Mị im lặng, như con rùa nuôi trong xó cửa, không có sự sống, con người bị coi thường. Cũng không ai tự coi thường bản thân mình như vậy. Mị chấp nhận số phận, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, nhìn ra cửa sổ mờ mờ trăng trắng, đến khi chết thì thôi.

Mị từng có tuổi trẻ hạnh phúc, khát khao làm chủ cuộc sống, phẩm chất ấy vẫn còn, chỉ tạm thời bị đè nén. Mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rát dữ dội”. Dầu thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân vẫn mang niềm vui sống, Sức sống của tạo vật và con người bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát.

Tiếng sáo là biểu tượng của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí đó, Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước”.

Nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian”. Lòng ham sống trong cô trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên trong tâm trí Mị là ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.

Tiếng sáo gọi bạn tình quyến rũ Mị, biểu tượng của sự sống đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).

Mị thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ. Trong khi lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử xách ra một thúng sợi dây, trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt đêm bị trói đứng vào cột nhà, Mị sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc và thực tại tàn bạo. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”.

Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.

Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, “ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ: vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò má đã xám đen lại”. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại loé lên cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?

Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”

Bài văn mẫu số 3 

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.

Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Mị mồ côi mẹ, sống cùng cha già. Với vẻ đẹp tự nhiên và phẩm hạnh, Mị thu hút được ánh nhìn của nhiều chàng trai trong vùng. Cuộc sống của cô đã hứa hẹn tươi đẹp và bình yên, nhưng mọi thay đổi đều đến từ món nợ truyền kiếp của cha mẹ. Mị bị ép trở về nhà thống lí Pá Tra, phải trả nợ bằng cách làm con dâu. Tuổi thanh xuân của Mị bị A Sử, gã con trai tàn ác và hung ác, cướp đi, làm tan vỡ ước mơ.

Mị trải qua những ngày tháng khổ đau, đầy tủi nhục trong nhà thống lí. Dù được coi là con dâu của một quan lớn, thực ra Mị chỉ làm đầy tớ, nô lệ, bị coi thường không kém con trâu, con ngựa. Đau đớn và tủi nhục đã cướp đi tuổi trẻ của Mị, biến cô thành một người nhẫn nhịn và chịu đựng. Ban đầu, Mị đã suy nghĩ đến việc tự tử, nhưng tình thương cha già đã cản bước cô. Cuộc sống của Mị trôi qua mà không có ý nghĩa, cô sống như một cái xác. Nỗi đau đã làm cho Mị trở nên tàn nhẫn và lạnh lùng. Tuy nhiên, khao khát sống vẫn còn lưu lại trong tâm hồn Mị. Trái tim của cô vẫn đang đập mạnh mẽ dưới lớp vỏ lạnh lùng.

Tác giả lựa chọn bối cảnh của mùa xuân, đặc biệt là đêm xuân, để phản ánh tâm trạng của Mị. Mùa xuân là thời điểm mà tự nhiên trở nên sống động, rực rỡ, gần gũi với quá khứ hạnh phúc của Mị: Trên núi, những cánh đồng ngô và lúa đã được gặt xong, và hàng kho lúa đã được cất giữ đầy các kho chứa. Trẻ em đang hái bí đỏ, vui vẻ và tinh nghịch, đốt lửa để sưởi ấm. Ở Hồng Ngài, mọi người thường tổ chức lễ Tết ngay sau khi thu hoạch, không phụ thuộc vào ngày tháng. Lễ Tết được tổ chức khi mưa xuân đến, tránh bị ảnh hưởng bởi mưa. Năm ấy ở Hồng Ngài, người ta ăn Tết dưới làn gió mát của mùa xuân, khi cỏ cây bắt đầu chuyển sang màu vàng ửng và gió rét thổi dữ dội. Tuy nhiên, ở các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa được treo trên các mỏm đá như những cánh bướm rực rỡ… Trẻ con đang mong đợi Tết, chơi quay và cười nô giễu trên sân chơi. Tiếng sáo vang lên, mời gọi bạn tình đi chơi.

Đoạn văn mô tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh sôi động và đẹp mắt. Màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa treo trên các mỏm đá báo hiệu lễ Tết đã sắp đến. Tiếng cười vang lên của trẻ em chơi đùa trên sân chơi. Tiếng sáo reo vang, mời gọi bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm xuân đầy tình yêu.

Sức sống mạnh mẽ của mùa xuân đã đánh thức tâm hồn Mị. Cô đang trải qua một loạt cảm xúc phức tạp: vui vẻ và đau khổ, tủi nhục nhưng cũng là hy vọng và khao khát sống. Những cảm xúc này đang trào dâng trong Mị. Trong khi trẻ em chơi đùa và thổi sáo trên sân chơi, Mị lại nhớ về tiếng sáo của bạn tình từ đỉnh núi. Cô hát lên những bài hát quen thuộc từ tuổi thơ:

Có phải mày đã có con trai hay con gái rồi

Mày đi làm nương ở đâu rồi

Ta không có con trai hay con gái

Ta đang tìm kiếm người yêu.

Sau bao năm sống trong cảm giác cô đơn và đau khổ, có lẽ lần đầu tiên, người con dâu cất tiếng hát nhỏ nhẹ. Sự vui vẻ và náo nhiệt của lễ hội xuân đang lan tỏa khắp nơi, khiến tâm hồn Mị dậy sóng, nhớ lại tuổi thơ dễ thương. Ban đầu, Mị hành động theo thói quen không suy nghĩ: Ngày Tết, Mị uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, từng chén một. Rượu uống như nỗi buồn, cay đắng, hay Mị uống say để quên đi nỗi đau? Hành động ấy phản ánh sự thay đổi đáng kể trong tâm trạng của cô.

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị dần trỗi dậy. Mị ngồi say trong buồng nhìn mọi người vui đùa, bài hát của họ làm Mị nhớ về quá khứ: Mị đang sống trong ký ức. Tiếng sáo gọi bạn tình vẫn vọng về trong tai Mị. Đó là tiếng sáo của tình yêu, của tuổi thanh xuân. Dường như lúc này, Mị không còn là người con dâu nô lệ nữa mà là cô gái đang thưởng thức rượu và thổi sáo. Mị hồi tưởng về những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ, làm cho con người thật của Mị tái sinh. Khao khát sống như ngọn lửa đang bùng cháy trong tâm hồn Mị.

Tâm trạng của Mị đang phức tạp: Cô đang bị mâu thuẫn giữa vai trò của một người con dâu nô lệ và mong muốn tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám đứng lên chấm dứt sự tù túng và đi theo tiếng sáo gọi của tình yêu và tự do?

Mải mê chìm đắm trong quá khứ, Mị quên đi hiện tại: Rượu đã cạn từ lâu. Mọi người đã về, và tiếng cười vang lên đã phai nhạt. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, vẫn muốn tham gia vào cuộc vui. Mị dần nhận ra rằng, bản thân cô còn trẻ, và Mị muốn sống.

Khao khát sống như ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng khiến Mị cảm thấy phẫn nộ trước tình cảnh tù túng của mình. Bao người có gia đình vẫn tham gia vào lễ hội, chỉ có Mị là người bị gò bó bởi sự bất công. Mị muốn kết thúc mọi nỗi đau, không muốn nhớ lại nữa. Nước mắt Mị rơi. Tiếng sáo gọi bạn vẫn vang vọng bên ngoài:

Anh quăng pao, em không bắt,

Em không yêu, pao rơi lạch cạch…

Mị muốn quên đi thời con gái xưa nhưng không thể. Tiếng sáo vẫn vang vọng trong đầu Mị, khiến tâm hồn Mị nôn nao. Khi A Sử bất ngờ đến, Mị thản nhiên pha thêm dầu vào đèn, cởi ra váy hoa và áo mới. Mị không nói một lời, chỉ làm theo bản năng. Những hành động đó diễn ra khi tiếng sáo vẫn rền vang trong đầu Mị. Tiếng sáo kêu gọi tình yêu đang làm sống lại trong Mị bao ước mơ tươi đẹp của tuổi con gái.

Mị tỉnh giấc; quá khứ và hiện tại xen kẽ trong tâm trí. Hiện tại u ám, mà tiếng sáo vẫn vang vọng, làm Mị thức tỉnh quá khứ đẹp đẽ. Mặc dù bị A Sử trói buộc, Mị đã giải thoát tinh thần, sống trong ký ức tình yêu. A Sử chỉ có thể trói buộc thể xác, không thể kiểm soát tâm hồn Mị.

Mô tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân, Tô Hoài thể hiện sự sống động. Trái tim Mị đập mạnh dưới âm thanh của tiếng sáo, khiến Mị nhớ về quá khứ và cảm thấy đau đớn trước hiện tại. Mặc dù cơ thể bị trói, tâm hồn Mị vẫn tự do, sống trong những ký ức ngọt ngào của tình yêu đã qua.

Trong đoạn văn này, Tô Hoài tài tình miêu tả sự sống lại của Mị một cách chân thực. Mặc dù bị trói buộc, tâm hồn Mị vẫn tự do, sống trong những kỷ niệm tình yêu. Mị vẫn nhớ về quá khứ, đau khổ và đầy hy vọng. Đây là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ của Mị, mặc dù không thay đổi số phận, nhưng tinh thần Mị đã được giải thoát.

Bài văn mẫu số 4 

Tô Hoài thành công trong tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ' không chỉ nhờ vào sự giàu có và tình cảm sâu nặng của bản thân mà còn nhờ vào tài năng văn học của mình. Trong tác phẩm này, Tô Hoài đã sử dụng nhiều kỹ thuật văn học, đặc biệt là phân tích tâm lý và hành động của nhân vật Mị. Điều này thật sự làm nổi bật giá trị hiện thực và nhân đạo của câu chuyện.

Trong tác phẩm này, điều khiến độc giả ấn tượng nhất là hình ảnh của cô gái 'dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi'. Đó là tâm trạng của một con người chấp nhận số phận, buông xuôi trước khó khăn và bi kịch. Mị phải đối mặt với cuộc sống hôn nhân không mong muốn và bị ép buộc bởi uy quyền và tiền bạc. Tuy nhiên, Mị vẫn giữ trong lòng hy vọng và khao khát một cuộc sống tốt đẹp.

Trong đêm mùa xuân đó, tâm trạng của Mị biến đổi theo từng cung bậc khác nhau, với cung bậc cao hơn hẳn so với trước đó. Mặc dù bị A Sử trói buộc, nhưng Mị vẫn giữ được tinh thần tự do và sự yêu đời. Đó là đêm Mị thực sự sống với riêng mình, khi cô vượt qua sự kiểm soát của người khác và nghe theo trái tim mình.

Sau đêm đó, Mị tiếp tục sống trong cuộc sống đầy khó khăn. Tuy nhiên, Tô Hoài khẳng định rằng trong lớp tro tàn của những nỗi đau và khổ đau, sức sống của Mị vẫn tồn tại. Chỉ cần có một chút hy vọng và sự khích lệ, Mị sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn và tìm lại hạnh phúc trong cuộc sống.

Cuối cùng, luồng gió đã đến, đó là những đêm dài và buồn của mùa đông trên núi Tây Bắc. Mùa đông lạnh buốt như cắt da cắt thịt, và Mị luôn ra ngoài bếp để thổi lửa cho tay ấm. Trong những đêm đó, Mị gặp A Phủ bị trói đứng giữa trời lạnh giá. Mặc cho tình trạng của A Phủ, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, như thể không quan tâm. Một đêm nữa, khi mọi người trong nhà đều đã ngủ, Mị lại thức dậy để thổi lửa. Khi lửa sáng lên, Mị nhìn thấy hai mắt A Phủ cũng mở, và dòng nước mắt lấp lánh. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ đối diện với cái chết gần kề. Điều đó làm tan chảy lớp băng trong lòng Mị. Mị nhớ lại những khổ đau từng trải qua và cảm thấy đồng cảm với A Phủ. Mị quyết định giải thoát anh ta và cắt dây cởi trói. Mặc cho sự nguy hiểm, Mị vẫn quyết định thực hiện hành động đó. Sau khi giải thoát A Phủ, Mị nói lời khao khát sống và tự do. Điều đó làm Mị cảm thấy nhẹ nhõm, và họ cùng nhau rời đi. Họ rời bỏ một nơi chứa đựng quá nhiều nỗi đau và buồn bã, và bước vào tương lai không biết điều gì sẽ xảy ra...

Trong đêm đông này, sức sống tiềm ẩn đóng vai trò quan trọng. Đó là điều đã giúp Mị vượt qua số phận đen tối của mình và cứu A Phủ. Tô Hoài đã tôn vinh những phẩm chất đẹp của phụ nữ miền núi và Việt Nam. Ông cảm thấy xót thương cho số phận của Mị nhưng nhìn thấy ánh sáng trong trái tim cô. Tác phẩm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống.

Trong tập truyện ngắn 'Truyện Tây Bắc', Tô Hoài đã thành công với phong cách nghệ thuật dân tộc đậm chất thơ. Tác phẩm xứng đáng với giải thưởng cao quý. 'Vợ chồng A Phủ' để lại ấn tượng sâu sắc với giá trị văn hóa và nhân đạo.

Truyện giúp em cảm thông sâu sắc với nỗi đau của phụ nữ miền núi. Đây là một tác phẩm đích thực, giúp nhân đạo hoá tâm hồn đọc giả.

Bài văn mẫu số 5 

Tác phẩm được Tô Hoài viết sau chuyến đi giải phóng miền Tây Bắc. Ông đã được sống cùng đồng bào dân tộc và lấy cảm hứng từ đó.

Tô Hoài thành công với 'Vợ chồng A Phủ' nhờ vốn sống và tài năng nghệ thuật. Tác phẩm sử dụng phân tích tâm lý và hành động của nhân vật để thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo.

Trong tác phẩm, hình ảnh cô gái buồn rười rượi làm cho người đọc cảm thấy đau lòng. Đó là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức và áp bức từ gia đình. Mị buông xuôi trước số phận đen tối và trái tim cô dần mất đi nhịp đập tự nhiên.

Cùng với tính cách yêu đời, yêu cuộc sống của Mị là mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh đen tối, đầy bi kịch. Tâm trạng này được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm đó, tâm trạng của Mị trải qua nhiều biến động. Mị nhớ lại kỷ niệm xưa, muốn đi chơi nhưng bị trói bởi A Sử. Tuy nhiên, dù thân xác bị trói nhưng tâm hồn của Mị vẫn tự do, sống với mùa xuân và cuộc đời. Đó là một đêm đầy ý nghĩa với Mị, khi cô thực sự sống cho bản thân sau hàng ngàn đêm vật vờ.

Sau đêm đó, Mị tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Tô Hoài khẳng định rằng mặc cho những khổ đau, thách thức, sức sống tiềm ẩn trong Mị sẽ luôn tồn tại và chỉ cần một luồng gió mạnh để thổi bay mọi khó khăn, giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối.

Cuối cùng, luồng gió đó đã đến, đó chính là những đêm mùa đông dài và u buồn trên núi rừng Tây Bắc đang tới. Mùa đông lạnh buốt như dao cắt, mỗi đêm Mị phải ra bếp để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó, Mị gặp A Phủ đang bị trói giữa trời lạnh rét. Dù A Phủ chỉ là 'cái xác chết đứng' nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa. Tại sao Mị lại lạnh lùng như vậy? Có lẽ việc trói người đến chết là điều bình thường ở nhà thống lý Pá Tra nên không ai quan tâm. Hoặc có lẽ Mị đã 'quen khổ' nên lãnh đạm trước nỗi đau của người khác. Nhưng khi thấy 'dòng nước mắt lấp lánh' của A Phủ, lòng Mị tan chảy và bồi hồi. Mị nhớ lại những đau thương của mình và cảm thông với A Phủ. Cuối cùng, sức sống đã thôi thúc Mị dũng cảm cắt dây giải thoát cho A Phủ. Đó là hành động táo bạo và nguy hiểm, nhưng nó phản ánh tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông. Mị và A Phủ cùng nhau chạy trốn, bước đi đầy hy vọng vào tương lai mới...

Trong đêm lạnh giá này, sức sống bí ẩn chính là điều quan trọng giúp Mị vượt qua số phận u ám. Việc cứu A Phủ cũng là cách Mị tự giải thoát bản thân. Tô Hoài đã ca ngợi tình cảm và phẩm chất cao quý của người phụ nữ miền núi thông qua câu chuyện này, với sự nhân đạo và sự đấu tranh chống lại bất công.

Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thành công trong việc thể hiện văn phong dân tộc sâu sắc, giàu cảm xúc và sắc màu. Tác phẩm này xứng đáng với những giải thưởng về văn học mà nó nhận được. Nó là một minh chứng cho tài năng văn học của Tô Hoài.

Đọc truyện “Vợ chồng A Phủ” khiến em cảm thông sâu sắc với nỗi đau của người phụ nữ miền núi. Tác phẩm này thực sự đã lan tỏa tinh thần nhân đạo và góp phần làm giàu tâm hồn của người đọc, như lời của Nam Cao trong truyện “Đời thừa”.

Bài văn mẫu số 6 

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài được viết dựa trên trải nghiệm thực tế của tác giả khi đi vào miền Tây Bắc. Điều này đã giúp Tô Hoài nắm bắt được bản chất của cuộc sống và con người ở đây, từ đó tạo nên một tác phẩm sinh động và sâu sắc.

Tô Hoài đã thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật để phân tích tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Điều này làm nổi bật giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, hình ảnh của Mị làm cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ, khiến họ cảm thông với số phận của cô gái đầy bi kịch trong xã hội phong kiến miền núi. Tác phẩm này thực sự là một ví dụ xuất sắc cho phong cách văn học của Tô Hoài.

Song song với tính cách đó là tâm trạng của một người yêu đời, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh đen tối. Điều đó được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân, Mị nghe tiếng sáo quen thuộc, uống rượu và nhớ lại kỷ niệm xa xưa. Mị ý thức được về bản thân và muốn đi chơi. Thế nhưng sợi dây của A Sử đã trói Mị vào cột. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình, vượt lên uy quyền và bạo lực để sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân đó, Mị tiếp tục sống kiếp trâu ngựa. Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn khuất che lấp sức sống trong lòng Mị. Chỉ cần có một luồng gió mạnh thổi đi lớp tro buồn ấy, đốm lửa sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối. Giá trị nhân đạo của tác phẩm hiện lên ở chỗ đó.

Cuối cùng, luồng gió ấy đã đến trong những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, Mị thường ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong một đêm đó, Mị gặp A Phủ bị trói đứng giữa trời giá rét. Mặc cho tình trạng của A Phủ, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Lúc ấy, Mị chợt nhận ra nỗi đau của người khác và quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ, biểu hiện cho lòng nhân ái và khao khát tự do của chính mình. Hai người cuối cùng đã dìu nhau chạy trốn, rời bỏ nơi đầy những nỗi buồn và tủi nhục để tìm kiếm một cuộc sống mới.

Trong đêm đông này, sức sống tiềm tàng đã giúp Mị vượt qua khó khăn và số phận đen tối của mình. Việc Mị cứu A Phủ cũng là cách Mị tự giúp đỡ bản thân mình. Tô Hoài trong tác phẩm đã ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Ông thể hiện tư tưởng nhân đạo và lòng nhân ái qua câu chuyện.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và tập “Truyện Tây Bắc” chứa đựng phong cách nghệ thuật đậm chất dân tộc, ngôn ngữ giàu cảm xúc và sự tạo hình tinh tế. Tác phẩm xứng đáng nhận giải nhất về truyện ngắn từ Hội nghệ sĩ Việt Nam.

“Vợ chồng A Phủ” giúp em hiểu sâu hơn về nỗi đau của phụ nữ miền núi và giúp em trân trọng hơn khát vọng của họ. Tác phẩm này thực sự có giá trị nhân đạo và ảnh hưởng sâu rộng tới tâm hồn người đọc.

Bài văn mẫu số 7 

Tô Hoài là một nhà văn hiện thực có kiến thức sâu rộng về văn hóa và phong tục tập quán của Việt Nam.

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài, được in trong tập truyện Tây Bắc và nhận giải nhất từ Hội nghệ sĩ Việt Nam. Tác phẩm thành công không chỉ trong việc xây dựng cốt truyện mà còn trong việc mô tả tâm trạng nhân vật Mị.

Mị, một cô gái vùng cao, phải đối mặt với một cuộc sống đau khổ vì món nợ truyền kiếp. Bị buộc phải trở thành con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí, Mị sống trong tủi nhục và bất hạnh. Mặc dù muốn tự kết liễu mình, nhưng Mị không thể vì sự khổ đau của cha mẹ.

Dường như nỗi đau về thể xác và tâm hồn đã khiến Mị trở nên thờ ơ và vô cảm. Tuy nhiên, việc Mị cởi trói cho A Phủ làm người đọc ngạc nhiên. Hành động này đầy bất ngờ và đột ngột, khiến cho người ta không khỏi ngỡ ngàng.

Mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc sống khắc nghiệt, Mị vẫn tỏ ra thờ ơ và vô cảm trước cảnh trói người của A Phủ. Đây là một phản ứng hợp lí và bình thường khi ai đó đã trải qua nhiều khó khăn và đau đớn.

Ở nhà thống lí Pá Tra, việc trói người và đánh đập trở nên quen thuộc và bình thường. Cuộc sống của họ đầy đau khổ và đầy những khó khăn, điều này khiến họ trở nên lạnh lùng và không còn quan tâm đến người khác.

Mị đã tự suy xét về tình cảnh của mình nếu A Phủ trốn thoát. Điều này chỉ là phản ứng tự nhiên của con người khi đối diện với nguy cơ mất tính mạng.

Hành động cởi trói cho A Phủ của Mị là một hành động nhất thời, không suy tính và không nghĩ ngợi. Nó mang đầy yếu tố bất ngờ và đột ngột.

Dù đầy bất ngờ, hành động cởi trói của Mị là hợp lí với diễn biến tâm lí và kết cấu truyện. Nó phản ánh sự thay đổi trong tâm hồn Mị khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ.

Giọt nước mắt của A Phủ thể hiện khát vọng tự do và mong muốn sống sót, làm tan chảy lớp băng giá trong lòng Mị. Đó là điểm bắt đầu cho sự thay đổi trong tâm hồn của Mị.

Tô Hoài và các nhà văn nhân đạo luôn tin rằng nước mắt có sức mạnh làm sạch tâm hồn con người, khơi dậy lòng thiện ác và sống trong tình yêu thương. Điều này không chỉ là quan niệm mà còn là triết lý nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài. Có tình thương, Mị sẽ trải qua những thay đổi to lớn về tình cảm và hành động.

Mị nhớ lại đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng giống như vậy, nước mắt rơi không ngớt, không thể lau khô. Mị thương chính bản thân mình, thương vì đã phải chịu nhiều đau khổ và tủi nhục.

Sau khi thấu hiểu và thương mình, Mị cũng dành sự đồng cảm cho những người có cùng cảnh ngộ. Điều này phản ánh một quy luật tình cảm phù hợp với tâm lí con người: chỉ khi ta biết thương mình, ta mới biết thương người khác.

Mị thấy thương xót và đồng cảm với những người phụ nữ nhà thống lí Pá Tra, những người phải chịu đựng số phận không hạnh phúc như Mị. Tô Hoài đã hiểu rõ tâm lí, tính cách và tình cảm của nhân vật, và tình thương ấy đã giúp Mị nhận ra bản chất độc ác của nhà thống lí Pá Tra.

Trước đây, Mị sống trong đau khổ nhưng không dám đấu tranh. Nhưng giờ đây, tiếng nói của Mị đã được phát lên, là lời kết tội đầy căm phẫn của người trong cuộc, phản ánh tội ác của cha con thống lí.

Hành động cởi trói cho A Phủ không chỉ là giải phóng cho A Phủ mà còn là giải phóng cho chính bản thân Mị khỏi áp bức và cường quyền. Đây là hành động tất yếu, phản ánh sức mạnh của khát vọng tự do và quy luật muôn thuở: có áp bức thì có đấu tranh.

Mị giải thoát cho A Phủ cũng là giải thoát cho chính mình. Hành động cởi trói chính là kết quả của sự dồn tụ bao năm căm phẫn những đau đớn mà Mị đã phải chịu đựng ở nhà thống lí. Đây là hành động tất yếu, là đỉnh điểm cho một sức sống tiềm tàng, một khát vọng tự do mãnh liệt cao đẹp. Đồng thời nó còn phản ánh rõ một quy luật muôn thuở: có áp bức thì có đấu tranh.

Hành động cởi trói phản ánh tính cách và phẩm chất của Mị. Mị đã sẵn sàng với sức sống tiềm ẩn, lòng nhân ái và sự đối kháng với cha con nhà thống lí. Tất cả chỉ chờ thời cơ để tỏa sáng.

Cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã mang đến cho độc giả một tác phẩm tuyệt vời như thế này!

Bài văn mẫu số 9 

Khi đọc Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài, người đọc rất đồng cảm với Mị và hiểu được lý do khiến cô buông xuôi. Sức sống và lòng kiên cường của Mị khiến mọi người không khỏi ngưỡng mộ.

Mị là người con gái có khao khát tự do và lòng tự trọng. Khát vọng sống và lòng tự trọng đó khiến Mị không từ bỏ mà đấu tranh cho quyền sống.

Mị là người tự trọng và giàu lòng yêu thương. Vì tình thương cha mà Mị chấp nhận số phận của mình, nhưng khát vọng sống vẫn tồn tại trong Mị.

Khát vọng sống mạnh mẽ trong Mị, nhưng đã bị A Sử đàn áp. Nếu không có sự can thiệp của người chị dâu, Mị có thể đã không sống sót.

Khát vọng sống của Mị dường như đã bị dập tắt, có lẽ Mị sẽ chấp nhận số phận lầm lũi và chết đi trong bóng tối của nhà thống lí. Nhưng đến những đêm đông giá lạnh, Mị vẫn nhìn thấy A Phủ đứng trói ở đó, dù lòng Mị đã chết, không còn quan tâm đến bản thân mình thì sao có thể quan tâm đến người khác được.

Tuy nhiên, khi nhìn thấy giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt của A Phủ, Mị lại nghĩ rằng cả hai đều vô tội. Mị cảm thấy mình và A Phủ đều không làm gì sai trái, nhưng lại bị bất công. Mị mong muốn giải thoát cho A Phủ và gửi gắm khát vọng sống và tự do của mình vào anh.

Hành động giải cứu A Phủ của Mị là sự bộc phát tự nhiên, là quyết định từ trước trong tâm hồn Mị. Mị nhìn thấy bản thân qua A Phủ, và muốn giải thoát cho cả hai.

Sau khi thấy A Phủ quật ngã và chạy trốn, Mị quyết định theo anh. Mị hiểu rằng nếu ở lại đây thì chắc chắn sẽ chết, nhưng nếu chạy mà bị bắt thì vẫn còn hy vọng sống. Vì vậy, Mị chạy theo A Phủ.

Câu nói của Mị: “A Phủ, hãy để tôi đi, ở đây sẽ chết” thể hiện lòng yêu cuộc sống và khao khát tự do của Mị. Hành động này không chỉ cứu một mà còn hai sinh mạng, mang lại hy vọng mới cho cả hai.

Trong lần hành động này, Mị đã thành công nhờ sức sống mạnh mẽ trong lòng, những hành động sâu sắc và đầy ý nghĩa. Giá trị nhân đạo của tác phẩm càng được nâng cao hơn.

Hành động của Mị không chỉ bộc phát mà còn sâu sắc, thể hiện giá trị nhân đạo cao cả.

Tô Hoài được biết đến là một nhà văn sáng tạo hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại với nhiều tác phẩm đa dạng từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến kí, tự truyện. 'Vợ chồng A Phủ' được coi là một trong những truyện ngắn nổi bật nhất trong tập Truyện Tây Bắc.

Trong 'Vợ chồng A Phủ', Tô Hoài đã thành công trong việc mô tả cuộc sống của người dân miền núi dưới sự áp bức của thực dân phong kiến. Tác phẩm cũng thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo khi giải thoát hai nhân vật chính, Mị và A Phủ, khỏi thân phận nô lệ.

Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc.

'Vợ chồng A Phủ' kể về cuộc đời của hai nhân vật chính, Mị và A Phủ, trở thành nô lệ dưới ách thống trị của gia đình thống lý Pá Tra.

Mị và A Phủ, hai con người trẻ trung, tài năng, đều trở thành nô lệ do số phận không công bằng.

Mị, một cô gái xinh đẹp và A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh và tài giỏi, đều phải chôn vùi cuộc đời dưới sự áp bức của nhà thống lý.

Trong đêm mùa xuân, Mị và A Phủ đều trải qua những trạng thái tâm lý phức tạp, nhưng cuối cùng Mị quyết định giải thoát A Phủ khỏi cảnh đau khổ.

Trước khi cởi trói cho A Phủ, Mị cảm thấy lạnh lùng và vô cảm. Cuộc sống của Mị bị đày đọa, bị tước đoạt, trở thành nô lệ của gia đình thống lý.

Tô Hoài đã so sánh Mị với loài vật để miêu tả tình trạng cảm xúc và sự chai lì của Mị trước cuộc đời bất công.

Mị trở nên lạnh lùng và buông bỏ hy vọng vào cuộc sống trước sự bất công và đau đớn.

Trong đêm cứu A Phủ, Mị đã cảm nhận được sự sống và đau đớn trong cuộc sống của mình, nhưng ý chí còn yếu ớt để thực hiện một cuộc cách mạng.

Dù thấy A Phủ bị trói đứng nhiều đêm, Mị vẫn thản nhiên và vô cảm, chỉ còn cảm giác lạnh lùng và vô tình.

Trong quá trình cởi trói cho A Phủ, Mị đã chuyển từ tâm trạng vô cảm sang đồng cảm, cảm thấy thương cho A Phủ và nhận ra sự bất công của cuộc sống.

Chi tiết về giọt nước mắt của A Phủ đã thể hiện sự chuyển biến tâm trạng của Mị từ vô cảm sang đồng cảm.

Nhận ra tội ác của kẻ thù và xót thương cho người vô tội, Mị bắt đầu thức tỉnh lòng nhân đạo bên trong.

Quyết định táo bạo của Mị là cắt dây cởi trói cho A Phủ, thể hiện sự mạnh mẽ và lòng nhân đạo.

Sau khi giải thoát A Phủ, Mị đối mặt với sự lựa chọn giữa cái chết và tự do, và cuối cùng, sự sống và khao khát tự do đã chiến thắng.

Tô Hoài thông qua câu chuyện đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, cứu lấy con người từ trong cảnh đau thương và đày ải.

Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ được thể hiện mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo.

Tô Hoài đã tài tình khắc họa nhân vật Mị và A Phủ, thể hiện rõ sự phản kháng và vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối.

Mị, thông qua hành động cứu A Phủ, thể hiện lòng nhân đạo và quyết tâm vượt qua khó khăn, đánh thức hy vọng trong cuộc sống.

Tô Hoài, một nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc qua nhiều thể loại văn học khác nhau trong suốt hơn 60 năm sự nghiệp sáng tác.

Tô Hoài, người luôn tìm kiếm sự thật và khám phá cuộc sống thông qua viết văn, đã có đặc điểm sáng tạo và chiến đấu đầy mạnh mẽ và chân thành.

Tô Hoài đã tạo ra những tác phẩm chứa đựng tình cảm sâu lắng và cảm thông đối với con người và vùng đất Tây Bắc, nơi mà ông đặc biệt yêu quý và gắn bó.

Tô Hoài đã dành tình cảm đặc biệt cho vùng Tây Bắc, và qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ông thể hiện lòng trân trọng và yêu thương sâu sắc đối với nhân vật miền núi.

Tác phẩm của Tô Hoài không chỉ thể hiện số phận của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến mà còn làm sáng tỏ một mảng đời sống khác của xã hội, đặc biệt là về số phận của người phụ nữ.

Tô Hoài đã đem lại một góc nhìn mới và đặc biệt về số phận của những người trên cao nguyên Tây Bắc dưới thống trị của thần quyền và cường quyền, qua hình tượng của nhân vật Mị.

Mị, một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm của Tô Hoài, là biểu tượng của sự đấu tranh và hy vọng trong cuộc sống, đại diện cho số phận của những người phụ nữ dưới ách thống trị khắc nghiệt.

Dù làm vợ cho gia đình giàu có nhất vùng nhưng cuộc đời Mị lại chứa đựng nỗi đau và khổ sở. Mị muốn tìm sự thoải mái qua cái chết nhưng không thể, bởi nghĩa vụ trả nợ vẫn còn đọng lại.

Mị sống trong cảnh địa ngục, làm nô lệ cho gia đình thống lý Pá Tra, quên đi bản thân để trả nợ cho cha.

Cuộc đời Mị trôi qua vô tri vô giác, nhưng tiếng sáo đã đánh thức lại tâm hồn Mị, khiến Mị muốn phản kháng và sống đúng với bản thân.

Tiếng sáo đánh thức lòng nhân ái trong Mị, khiến cô cảm thấy xót xa và tức giận về cuộc sống của mình.

Mị mong muốn được sống như một con người thực sự, biết đau khổ và yêu thương, không chỉ là một công cụ làm việc.

Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn của Mị, khiến cô muốn sống hơn bao giờ hết và tìm lại hạnh phúc đã mất.

Mị bắt đầu hành động, uống rượu để quên đi nỗi đau và tìm lại những kỷ niệm hạnh phúc trong quá khứ.

Muốn đi chơi, muốn mặc đẹp, thổi sáo, nhảy múa, vì Mị biết rằng mình còn trẻ, không muốn lãng phí tuổi xuân trong căn phòng như nhà tù.

Muốn sống đàng hoàng, nhưng lại bị A Sử giam giữ, tàn sát tâm hồn Mị, không muốn Mị được sống, trói Mị vào cột nhà bằng dây gai rồi rời đi, để lại Mị với nỗi tủi thân đau đớn.

Nhớ đến người phụ nữ trước đây bị trói chết, Mị sợ hãi, nhưng càng khao khát sự sống, đau đớn từ những cơn siết chặt dây.

Nỗi sợ, nỗi đau chứng minh rằng Mị còn sống, ý chí sống đã trở lại mạnh mẽ, không còn lầm lì, từ việc muốn chết đến việc khao khát sống sót mạnh mẽ.

Dù bên ngoài Mị có vẻ thản nhiên, nhưng bên trong đã trải qua những biến đổi lớn từ đêm tình mùa xuân, khi Mị nghe thấy tiếng sáo và cảm nhận sự sợ hãi và đau đớn.

Mị đồng cảm và thương cảm cho A Phủ, như chính cuộc đời Mị, không được quyền quyết định số phận, phải chịu đựng áp bức của kẻ thống trị tàn bạo.

Thấy xót xa cho A Phủ, bởi cả hai đều bị đày đọa, nhưng Mị không cam lòng và mong muốn thay đổi số phận của họ.

Mị không phải là kẻ tàn nhẫn như họ, mà là người muốn cứu A Phủ khỏi cái chết vô nghĩa. Mị đang trở nên mạnh mẽ hơn, như một người anh hùng giải thoát A Phủ khỏi cảnh trói buộc, vì Mị nhìn thấy cuộc đời bất hạnh của mình trong A Phủ.

Cứu A Phủ cũng là cứu chính Mị, là bước đầu tiên trong quyết định chống lại số phận và tìm kiếm tự do. Mị quyết định bỏ trốn với A Phủ, để sống một cuộc đời thật sự tự do và ý nghĩa.

Mị khẳng định ý chí sống mạnh mẽ của mình, dù bị khổ đau và tuyệt vọng áp đặt bởi thống trị tàn bạo, nhưng sự sống vẫn tồn tại mãnh liệt trong con người.

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm văn học nổi tiếng về cuộc sống và số phận của những người dân tộc miền núi Bắc Việt Nam.

Tô Hoài đã khắc họa một cách tinh tế cuộc sống dưới sự thống trị của thế lực áp bức, đồng thời tôn vinh sức mạnh và ý chí sống của con người.

Bài văn mẫu số 10 

“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài, khám phá cuộc sống vùng miền Tây Bắc Việt Nam một cách sinh động và chân thực.

Qua tác phẩm này, độc giả có thể thấy được vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng cùng cuộc sống lao động và số phận của con người dưới sự áp bức của cường quyền và thần quyền. Tuy nhiên, điểm nhấn là khát vọng tự do và sức sống mãnh liệt của người dân Tây Bắc được thể hiện qua nhân vật Mị, đặc biệt là hành động cứu A Phủ của cô.

Với lời giới thiệu độc đáo, tác giả Tô Hoài đã tiết lộ về số phận của một cô gái xinh đẹp nhưng lại phải làm việc như một người nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Mị, từng là cô gái trẻ đẹp và sáng tạo, bị ép buộc phải làm công việc đầy gánh nặng.

Mị là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên và tài năng ở vùng núi Tây Bắc, nhưng lại trở thành nạn nhân của cường quyền và hủ tục. Sau khi bị bắt cóc, Mị bị trói buộc và sự tự do của cô bị hạn chế.

Trước đêm cứu A Phủ, Mị cảm nhận được sức sống trong lòng mình dậy trỗi. Ánh sáng của niềm hy vọng và tiếng sáo của tự do khiến Mị nhớ lại mong muốn của mình. Tuy nhiên, hy vọng đó lại bị chôn vùi khi A Sử can thiệp.

Ban đầu, Mị thờ ơ trước cảnh tượng A Phủ bị trói, nhưng khi thấy dòng nước mắt của anh ta, trái tim của cô rung động và thay đổi. Mị bắt đầu cảm thấy đau đớn và không thể phản kháng được.

Sự đồng cảm và tình yêu thương trong lòng Mị đã trỗi dậy trước cảnh tượng bi thảm của A Phủ. Dù có suy nghĩ về hậu quả của việc giải thoát anh ta, nhưng Mị vẫn quyết định hành động.

Sau hành động dũng cảm đó, Mị quyết định rời xa hủ tục và áp bức để tìm tự do cho bản thân. Hành động của cô không chỉ là sự tự giải thoát, mà còn thể hiện sức mạnh và ý chí sống mãnh liệt.

Trong đêm tình mùa xuân, hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ thể hiện sức phản kháng táo bạo trong tâm hồn Mị, ánh sáng le lói của niềm ham sống lắng nghe tiếng sáo gọi bạn tình vang vọng khiến tâm hồn của Mị “thiết tha bổi hổi” và nhận thức được “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Hành động cắt dây mây cởi trói cho A Phủ thể hiện khát vọng tự do trong tâm hồn của Mị và miêu tả tinh tế tâm lí nhân vật. Đây là hành trình để tìm lại chính mình và giải thoát bản thân thoát khỏi “gông xiềng” của cường quyền.

Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ là biểu hiện của sức sống tiềm tàng trong tâm thức của cô gái ham sống và yêu tự do. Đây cũng là một yếu tố làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Xem thêm các bài Văn mẫu lớp 12 hay khác :

TOP 10 Dàn ý phân tích Rừng xà nu (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Bài phân tích bài thơ Việt Bắc (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Bài phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Bài phân tích bài Tuyên ngôn độc lập (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Hãy phân tích đoạn thơ sau khi ta lớn lên đất nước đã có rồi (2024) HAY NHẤT

 

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!