Đề bài: Cảm nhận bài thơ Tức cảnh Pác Bó
Dàn ý: Cảm nhận bài thơ Tức cảnh Pác Bó
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Tức cảnh Pác Bó” là bài thơ nổi tiếng trong thời gian hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ khắc họa lại cuộc sống sinh hoạt của Bác ở núi rừng Pác Bó và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.
II. Thân bài
- Luận điểm 1: Cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác ở núi rừng Pác Bó
+ Phép đối chỉnh: sáng >< tối, ra >< vào thể hiện cuộc sống đều đặn, nhịp nhàng, ngày nào cũng như ngày nào của Bác...
+ Thức ăn của Bác thì đơn sơ, giản dị: cháo ngô với rau măng. Đây đều là những thức ăn trong rừng, luôn có sẵn. Cụm từ “vẫn sẵn sàng” không chỉ muốn nói về sự sẵn có, tự nhiên của thức ăn, mà đó dường như còn là tâm thế luôn sẵn sàng đương đầu với thử thách, khó khăn của người chiến sĩ cách mạng.
+ Điều kiện làm việc thiếu thốn: bàn làm việc của Bác là những tảng đá chông chênh. Trên chiếc bàn ấy, Bác đang làm những công việc vô cùng quan trọng, liên quan đến vận mệnh của cách mạng Việt Nam.
- Luận điểm 2: Phong thái ung dung, tinh thần lạc quan, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác.
+ Dù cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn về mọi thứ nhưng Bác vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, giọng điệu hóm hỉnh, vui đùa khi kể về cuộc sống của mình...
+ Câu thơ cuối cùng như một lời thốt ra từ chính trái tim của Bác: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Cái sang của Bác không phải là sang trọng về vật chất, mà cái sang ấy là cái sang khi được sống giữa thiên nhiên...
- Luận điểm 3: Nghệ thuật
+ Thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, hàm súc.
+ Ngôn ngữ giản dị, chân thật, mộc mạc cùng giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan của Bác.
+ Phép đối chỉnh mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ giản dị, mộc mạc, thể hiện lối sống cao đẹp, phẩm chất cách mạng sáng ngời trong con người Bác.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nghệ sĩ tài năng, hội tụ được tinh hoa dân tộc, khí thế thời đại.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả tác phẩm: “Tức cảnh Pác Pó” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hồ Chí Minh.
- Khái quát nội dung và nghệ thuật: Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn.
2. Thân bài
- Cảm nhận về nội dung
- Cuộc sống cách mạng đầy gian khổ, khó khăn
- Nơi ở: Trong hang, ngoài suối, nơi rừng rậm nhiều nguy hiểm
- Thức ăn: “cháo bẹ”, “rau măng”: là những thức ăn trong rừng, chỉ là những cây cối mọc dại hái vào nấu tạm thành bữa ăn
- Điều kiện làm việc: đơn sơ, giản dị, bàn làm việc chỉ là những phiến đá to trong hang.
⇒ Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn vô cùng và đầy rẫy những nguy hiểm rình rập.
- Tình yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên và phong thái ung dụng, tự tại của Bác.
- Tình yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên
- Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác:
- “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”: cuộc sống nhẹ nhàng, đơn giản, đều đặn ngày nào cũng như ngày nào
- “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”: Cuộc sống thiếu thốn nhưng Bác luôn giữ tinh thần lạc quan, giọng điệu hóm hỉnh, coi những khó khăn ấy như “phù phiếm”
- “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”: Tư thế, tác phong làm việc vô cùng thoải mái, không căng thẳng, gò bó, áp lực dù đó là công việc cách mạng quan trọng và khó khăn.
- “Cuộc đời cách mạng thật là sang”: Câu thơ vừa là lời khẳng định hùng hồn, vừa là lời nói đầy giản dị, hóm hỉnh. “Sang” ở đây không phải là sống trong vàng bạc, nhung lựa, sống trên vạn người, mà cái “sang” này chính là sang trong tâm hồn, sang trong phong thái của người chiến sĩ cách mạng.
- Cảm nhận về nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, bình dị
- Giọng điệu hóm hỉnh, vui đùa
- Ngôn ngữ giản dị, gần gũi như lời tâm tình, lời ăn tiếng nói hàng ngày.
- Các biện pháp nghệ thuật: đối (Câu thơ 1), nhịp thơ 4/3…
3. Kết bài
- Khái quát lại thành công nội dụng và nghệ thuật: Bài thơ với những đặc sắc nghệ thuật đã làm sống lại hình ảnh Bác Hồ với những phẩm chất cao quý.
- Liên hệ đến các bài thơ khác của Bác cũng thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại: Bài thơ “Ngắm trăng”, “Đi đường” cũng thể hiện điều này.
Sơ đồ tư duy
Một số bài văn mẫu hay: Cảm nhận bài thơ Tức cảnh Pác Bó
Bài văn mẫu số 1
Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ khí để chiến đâu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống rất kham khổ: "Cháo bẹ rau măng", làm việc thiếu thốn "bàn đá chông chênh", bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời gian là "sáng", "tối", không gian là "bờ suối", "hang" và trên nền của thời gian, không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc. Cái từ ngữ chỉ hành động "sáng ra", "tối vào" gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: "Tối vào hang, sáng ra bờ suối" thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng yên, theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ "vẫn sẵn sàng" của Bác ở câu thơ kế tiếp:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và một bài thơ hay đã bật lên được "chữ thần". Cụm từ "vẫn sẵn sàng" là điểm sáng của bài thơ.
Câu thơ làm ta liên tưởng đến triết lí sống của người quân tử ngày xưa, "quân tử ăn chẳng cần no". Bác sẵn sàng chấp nhận cuộc sống vật chất kham khổ với thái độ vui đùa, cười cợt. Bác coi thường cái gian khổ thậm chí cả những khi thân xác bị đoạ đày đau xót, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn đùa cợt, dí dỏm. Những bài thơ "Pha trò", "Ghẻ", "Dây trói"... trong "Nhật kí trong tù" là thái độ ung dung tự tại trước những hoàn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ.
Khác với người xưa: "An bần lạc đạo", Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn hành động vì một lí tưởng cao cả:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá lại "chông chênh", chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm hồn lạc quan.
Bài văn mẫu số 2
Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức..), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.
Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khoẻ của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...)
Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được...”
Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. “Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.
Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.
Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hoà hợp nhịp nhàng với điệu sông núi rừng:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.
Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.
Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết cấu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khỏe, sinh động:
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Hai chữ “chông chênh” là từ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử Đảng” toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu
Vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hoà lan trong thiên nhiên. Và thật là thú vị, vị “khách lâm tuyền” sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mất) đã kết tinh, bật sáng tinh thần toàn bài.
Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị quân sự tài ba, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XX. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được Bác sáng tác vào tháng 2 năm 1941, tại Pác Bó (Cao Bằng). Qua bài thơ, chúng ta thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Người trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ. Có thể nói, tác phẩm là một bức chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản.
Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến đầu năm 1941, Bác trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã sống và làm việc tại hang Pác Bó (Cao Bằng) trong một điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Thế nhưng, khi phải đối diện với hoàn cảnh đó, Bác Hồ vẫn vui vẻ, lạc quan, tràn đầy tinh thần làm việc cách mạng hăng say bởi Bác đang được sống và làm việc ngay trên mảnh đất quê hương, đang trực tiếp dẫn dắt cả dân tộc ta tiến lên giành lấy ngọn cờ độc lập, hòa bình của đất nước.
Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về cuộc sống của Bác ở Pác Bó – một cuộc sống khó khăn, thiếu thốn:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Chỉ hai câu thơ rất ngắn gọn, gồm có mười bốn chữ cái nhưng nhà thơ đã gợi mở ra một không gian – thời gian sống, làm việc rất cụ thể, rõ ràng: nơi ở trong hang núi, nơi làm việc thì bên bờ suối và thức ăn là cháo bẹ, rau măng. Cách ngắt nhịp 4/3 thường thấy của thể thơ tứ tuyệt, kết hợp với lời thơ cân đối ( sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang) đã cho thấy một nếp sống sinh hoạt và làm việc rất đều đặn, trở thành một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt của Bác: "Cháo bẹ" (cháo ngô), rau măng (măng nứa, măng tre, măng rừng) thật đạm bạc, đều là những thức ăn đơn sơ có sẵn của thiên nhiên núi rừng. Nhưng Bác không hề cảm thấy khắc khổ mà ngược lại thấy rất thoải mái, ung dung: "vẫn sẵn sàng". Từ "vẫn" đã cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là sự thiếu thốn về vật chất với một bên là tinh thần thanh thản, lạc quan trước hoàn cảnh đó. Ta đọc ở đây một nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như Bác đang bằng lòng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy. Đó là một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, với chốn lâm tuyền của núi rừng bí ẩn. Chẳng thế mà chúng ta luôn thấy, thiên nhiên từ lâu đã trở người bạn "tri kỉ" trong thơ của Người:
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày...
Hay:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa...
Cảm xúc, tâm trạng đó của Bác đã làm toát lên ở Người vẻ đẹp thanh cao trong sáng của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngoài, rất gần với cách thể sống của những bậc hiền nhân xưa:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Tuy nhiên, nếu người xưa tìm đến thiên nhiên, đến núi non lâm tuyền là để lánh đục tìm trong, thể hiện tâm thế "an bần lạc đạo", là cách để họ di dưỡng tinh thần mà trốn tránh sự đời thì ở Bác dù có hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên hoa lá cỏ cây, trăng gió vẫn hiện lên tư thế của một người chiến sĩ cộng sản yêu nước, thương dân đang trực tiếp tham gia cách mạng cùng với nhân dân:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
"Bàn đá chông chênh" vừa là chiếc bàn của thiên nhiên rừng núi, lại vừa là chiếc bàn của lòng người. Bác đã biến phiến đá thông thường của tự nhiên làm thành chiếc bàn kê thật giản dị, đơn sơ cạnh một công việc lớn lao cao cả: "dịch sử Đảng". Với việc sử dụng ba thanh trắc liền kề liên tiếp ở ba tiếng cuối câu thơ thứ ba tạo nên âm hưởng chắc khỏe cho lời thơ, đồng thời thể hiện một tư thế, một tâm hồn, một bản lĩnh cứng cỏi, vững vàng, chắc chắn. Vì thế, chiếc bàn đá chông chênh kia thực chất là hình ảnh ẩn dụ để chỉ "tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn..." (Chế Lan Viên). Câu thơ đã dựng lên hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong một tư thế uy nghi, sừng sững, thật lớn lao trong một không gian rừng núi yên tĩnh. Và Bác hiện lên như một ông tiên giáng trần đang đọc sách và thưởng ngoạn cảnh núi non lâm tuyền ở Pác Bó.
Khép lại bài thơ, lời thơ thẳng thắn, nhẹ nhàng, chất chứa một nụ cười lạc quan:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Chỉ cần nhắc tới hai tiếng "cách mạng" thôi là chúng ta đã cảm thấy sự hiểm nguy, vất vả và gian khó như thế nào. Vậy mà Bác lại cảm thấy việc làm đó "thật là sang". Phải chăng cái "sang" mà Bác nói tới ở đây là vì giờ đây Bác đang được sống với thiên nhiên núi rừng Pác Bó, nơi quê hương Việt Nam yêu dấu mà suốt cả cuộc đời Người muốn đấu tranh để bảo vệ nó, và cao hơn, cái "sang" của công việc làm cách mạng đó là ý nghĩa, mục đích tôn chỉ cao đẹp mà Bác làm là: cứu dân, cứu nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi cả cuộc đời Bác đều dành trọn cho cách mạng vì nước, vì non. Ta đọc trong câu thơ là một tấm lòng rộng mở, một nhân cách vĩ đại, lớn lao ở Người:
Bác ơi! tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.
Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, có sự kết hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, giọng điệu dí dỏm, vui tươi, ngôn từ dễ hiểu, giản dị, hình ảnh đời thường mộc mạc... tất cả đã làm nên thành công của tác phẩm. Khép lại trang thơ, người đọc thấy được một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi, phi thường vượt lên trên gian khó và luôn mang trong mình trái tim nhân hậu, bao dung: yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc ở Hồ Chí Minh.
Bài văn mẫu số 3
Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nho xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó":
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức.
Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm hỉnh: "Sáng ra bờ suối, tối vào hang"
Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối "sáng" - "tối", "ra - vào" đã cho chúng ta thấy được nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động "ra bờ suối" , "vào hang" cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống của Bác qua thời gian "sáng" - "tối", hoạt động "ra" - "vào" và địa điểm "bờ suối" - "hang".
Qua giọng điệu thơ dí dỏm, bạn đọc phần nào hình dung được tâm thế chủ động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, dân dã: "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng".
Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật "cháo bẹ" và "rau măng". Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. "Cháo bẹ", "rau măng" luôn được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế "sẵn sàng" của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh.
Bác không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho toàn thể nhân dân, dân tộc.
Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn "Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô" để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình "chông chênh" gợi ra.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: "Cuộc đời cách mạng thật là sang". Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ "sang" đã phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác.
Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai "sang" theo kiểu của Bác. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho Bác, một tinh thần "thép" giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ.
Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.
Để có được những bài thơ hay mỗi người làm thơ cần có tư duy và sự sáng tạo nhất định. Đặc biệt trong thơ ca thì việc sáng tạo cùng với cảm xúc của người sáng tác rất quan trọng, chính vì vậy bạn hãy cùng tham khảo danh sách những bài thơ hay để học tập cũng như có thêm kinh nghiệm để việc sáng tác hay tự làm thơ với phong cách riêng của mình dễ dàng nhất nhé.
Bài văn mẫu số 4
Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã nói lên những khó khăn của Bác Hồ khi Bác sống và làm việc ở Pác Bó. Dù có khó khăn gian khổ nhưng Bác Hồ vẫn vượt qua được chính điều đó đã làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều về bài thơ này.
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thiệt là sang”
Ngay từ tiêu đề của bài thơ đã thấy một cái gì đó như bột phát lam nhà thơ phải sáng tác bài này. “Tức cảnh” có lẽ là nơi hang cùng, rừng rận, tức cảnh vật nơi đây nhà thơ đã bột phát ra ý thơ và sáng tác ra bài thơ này. Mờ đầu bài thơ Bác Hồ đã cho ta thấy những khó khăn gian nan của Bác Hồ khi sống ở Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
Khi ở Pác Bó chỉ có một mình Bác nên Bác rất lá cô đơn nên Bác chỉ còn biết “sáng ra suối” để làm những việc gì đó còn vào buổi tối Bác chỉ còn biết la “tối vào hang”. Khi ban ngày Bác đã ra suối thì ban đêm Bác chỉ còn biết trở về lại hang của mình để nghỉ ngơi sau một ngày ra suối. cảnh sinh hoạt hằng ngày của Bác ở Pác Bó chỉ đơn giản như vậy thôi. Chỉ những điều đó cũng chứng tỏ Bác là một người đơn giản không thích sự cầu kì trong cuộc sống. Ở đây thức ăn của Bác cũng rất là đơn giản. Hằng ngày, thức ăn của Bác chỉ có “cháo bẹ rau măng” rất là đơn giản. Vì nơi rừng sâu nên thức ăn của Bác cũng không được sang trọng lắm. Bác đã tận dụng những gì có được ở Pác Bó chế biến thành thức ăn của mình. “Cháo bẹ rau măng” là những gì có trong thiên nhiên nhất là ở rừng. Chỉ hai câu thơ đầu Bác Hồ đã nêu lên những khó khăn của mình khi ở Pác Bó. Nhưng có khó khăn đến mấy thì Bác Hồ vẫn trải qua và có một cuộc sống rất là đơn giản ở Pác Bó.
Đến hai câu thơ tiếp theo Bác Hồ đã cho chúng ta thấy dù ở Pác Bó điều kiện làm việc không được thuận tiện cho lắm nhưng Bác vẫn làm việc được và cho đó là một cái sang của mình
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thiệt là sang”
Đến hai câu thơ tiếp theo Bác Hồ cho ta thấy công việc cách mạng của Bác Hồ khi ở Pác Bó. Dù ở Pác Bó bàn làm việc của bác chỉ là một cục đá bằng phẳng để Bác có thể làm việc. Mặc dù ở Pác Bó thiếu thốn về điều kiện làm việc như thế nhưng Bác vẫn làm tốt công tác cách mạng của mình. Dù có khó khăn Bác vẫn cho công việc cách mạng của mình thiệt là sang. Điều đó chứng tỏ Bác vẫn lạc quan trong công việc dù có khó khăn đến mấy. Sự khó khăn gian khổ thiếu thốn về vật chất không làm nao núng tinh thần người chiến sĩ cách mạng trái lại Bác còn cảm thấy thế là đủ, là sang.
Qua bài thơ em thấy Bác Hồ là một người có cuộc sống giản dị và lạc quan trong cuộc sống. Chính sự gian khổ ấy đã tôi luyện cho Bác một tinh thần thép và luôn lạc quan tin tưởng vào tiền đồ của nước nhà. Chúng ta phải biết học hỏi tính cách sống giản dị của Bác Hồ để hoàn thiện bản thân mình hơn.
Bài văn mẫu số 5
Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là một nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc, là nhà thơ, nhà danh nhân văn hóa. Cuộc đời thơ ca của Bác luôn song hành với cuộc đời chính trị. Trong những năm gian khổ ở cuộc kháng chiến trống Pháp, làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, ở hang Pác Pó, bàn làm việc chông chênh bên suối Lê – Nin. Bác đã viết những bài thơ ngấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Bài thơ tức cảnh Pác Pó đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác. Bài thơ đã đồng hành cùng thời gian, vượt qua hành trình hơn 70 mùa xuân. Giờ đây bài thơ như một chứng tích lịch sử của cách mạng Việt Nam. Qua đó, còn cho chúng ta thấy phong thái ung dung tự tại, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sỹ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh về những năm tháng hoạt động bí mật, đầy gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong cuộc sống đầy gian khổ ấy, tinh thần là một thứ vô cùng quan trọng. Thú lâm tuyền là cách chơi vui thú, tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ, lâm tuyền là rừng núi và khe suối nước chảy, thú vui của Bác là yêu thiên nhiên, yêu rừng Pác Bó, cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng nước róc rách dưới khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Ngay ở những câu thơ đầu Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nếp sống sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng nhưng một đặc điểm là tất cả đều gắn liền với thiên nhiên. Chúng ta đã thấy được một bức tranh thiên nhiên sinh động. Cuộc sống thường ngày của Bác ở nơi núi rừng thiếu thốn trăm bề, Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng: Cháo bẹ, rau măng. Dù khó khăn là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài lòng, chấp nhận, sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở. Khó khăn gian khổ tới đâu cũng không bao giờ có thể làm nhụt đi tinh thần ý chí của Bác cũng như của cả dân tộc ta.
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Nhưng vần thơ mộc mạc, nhẹ nhàng ấy, luôn nằm trong những vần thơ của Bác. Bác cho chúng ta thấy vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động. “Thú lâm tuyền” của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này. Dù hoàn cảnh ở thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như không thể cản được việc lớn của Bác, từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác. Câu thơ cuối như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình. Câu thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Làm cách mạng có gian truân, khổ cực nhưng đối với Bác nó lại thật là sang. Sang của Bác ở đây không nói về vật chất chỗ ăn chỗ ở, làm việc mà cái Bác muốn nói đến là sang về mặt tinh thần. Được hoạt động cách mạng để cứu nước là niềm vui lớn với Bác, niềm vui không thể mua được. Những tinh thần ấy có được, là nhờ lòng yêu nước thương dân nồng nàn của Bác, mong mỏi cuộc sống yên bình, ấm no hạnh phúc cho con dân cả nước.
Bài thơ với cách viết hóm hỉnh, nghệ thuật đối từ bài thơ Tức cảnh Pác Pó đã cho chúng ta thấy được thú lâm tuyền của Bác thật khoáng đạt, đó là tinh thần lạc quan, tình yêu nước sâu nặng và sự căm thù giặc, tất cả đều chứa đựng trong người Bác. Bác vĩ đại, về tất cả mọi mặt.
Bài văn mẫu số 6
Hồ Chí Minh là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hoài bão cứu nước đã làm cho Người luôn nghĩ về đất nước: “Đêm mơ ước thấy hình của nước” (Chế Lan Viên). Đất nước Việt Nam luôn in đậm trong trái tim người. Tình yêu đất nước nồng nàn đã làm Bác quên đi sự gian khổ tột cùng trong bước đường hoạt động cứu nước, cứu dân. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã cho thấy cuộc sống đầy gian khổ của Bác trong thời kì ở hang Pác Bó nhưng cũng thể hiện tâm trạng thoải mái, lạc quan của Người khi được sống giữa thiên nhiên. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng Bác vẫn tràn đầy tình yêu thiên nhiên và lòng lạc quan tin tưởng. Bác tự hào về cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng.
Mở đầu bài thơ là phong cảnh núi rừng, là nơi hoạt động của người cộng sản:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ có hai vế sóng đôi đã làm toát lên một cuộc sống nhịp nhàng, nề nếp của con người: Sáng ra, tối vào. Nơi vào lại là hang trong núi, một nơi ở sao mà chật chội lạ lùng. Cuộc sống trong hang đá khó khăn, gian khổ biết nhường nào, thế nhưng ta luôn bắt gặp một tâm hồn khoáng đạt, đa cảm. Bác Hồ sống thật ung dung nơi núi rừng đầy gian khổ ấy. Sự ung dung của Bác đã thể hiện rõ trong cuộc sống vật chất đạm bạc, thiếu thốn:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bác đã thích nghi với cuộc sống thiếu thốn một cách tự nhiên, Bác không mảy may cảm thấy mình vất vả mà ngược lại Bác cảm thấy rất vui. Có lẽ vui nhất vì sau bao nhiêu năm xa đất nước nay được trở về sống với đất nước thân yêu. Bác tin rằng, thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới.
Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động và lãnh đạo kháng chiến.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ, vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng không lấy gì thoải mái vì bàn đá chông chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình. Từ láy chông chênh chỉ sự tạm bợ, nghèo về vật chất. Sống giữa thiên nhiên, làm việc giữa đất trời khoáng đạt, Bác cảm thấy vui và hăng say với công việc của mình. Trên cái bàn đá “thiên tạo” ấy, Bác vẫn miệt mài dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong những ngày tháng ở núi rừng Việt Bắc, ở hang Pác Bó, cuộc sống thật kham khổ về vật chất nhưng qua giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người, ta thấy toát ra niềm vui lớn lao của Bác. Câu kết bài thơ là lời nhận định tổng quát của Bác:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Bác tự hào về cuộc đời cách mạng, nó sang trọng, cao quý. Chữ sang ở cuối bài thơ đã tỏa sáng tinh thần của toàn bài thơ. Sang ở đây không phải là vật chất sang trọng, giàu sang phú quý mà đây là cái thoải mái tinh thần, cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng. Với Bác, cứu dân, cứu nước là niềm vui, là lẽ sống, là lí tưởng của mình. Hơn nữa, dường như ở Bác luôn sẵn có, cái thú lâm truyền: Bác thích sống ở núi rừng, được sống hòa hợp cùng thiên nhiên, cây cỏ. Tuy nhiên, cái vui thú của Bác không phải là được làm một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ, suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân tộc. Rõ ràng ở Bác có những nét đẹp của phong cách cổ điển đan xen với nét đẹp của phong cách hiện đại. Vẻ đẹp này đã thể hiện trong phong cách thơ của Bác.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang.
Bài văn mẫu số 7
Cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh trải qua biết bao bôn ba sóng gió. Nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, trải qua nhiều khó khăn, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng, cho đến tận năm 1941 Bác mới trở về Việt Nam tiếp tục hoạt động cách mạng. Cuộc sống ở Pác Bó, Cao Bằng lúc bấy giờ còn hết sức thiếu thốn, nhưng đã được con mắt luôn lạc quan, ung dung của Bác ghi lại hết sức hóm hỉnh trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sang
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Bài thơ không chỉ cho thấy quá trình hoạt động cách mạng của Bác mà còn phản ánh cuộc sống trong những thời gian đầu trở về nước hết sức khó khăn, gian khổ. Mở đầu bài thơ là bối cảnh nơi Bác ở:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cấu trúc câu sáng ra, tối vào cho thấy nhịp điệu sinh hoạt hết sức đều đặn của Bác. Nhưng sau đó còn hé lộ cuộc sống thiếu thốn, phải sống nơi rừng sâu, nơi hang, nơi suối. Mặc dù hoàn cảnh sống khó khăn là vậy, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn rất ung dung, làm chủ cuộc sống của mình, ngày cơm vẫn ba bữa: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Ba chữ vẫn sẵn sàng đem đến những cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu là cháo bẹ rau măng, những thức ăn rừng núi luôn sẵn sàng, phục vụ cho cuộc sống con người. Nhưng đằng sau đó là nụ cười, là tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh sống gian khổ. Điều này không chỉ được thể hiện riêng trong tác phẩm này, mà ở một bài thơ khác, Ngươi cũng nhắc lại ý thơ tương tự:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Đó chính là tâm hồn của người chiến sĩ hóm hỉnh, yêu đời. Vượt lên trên hoàn cảnh đến sống cuộc đời an nhiên, phục vụ cống hiến cho đất nước. Đồng thời ba chữ vẫn sẵn sàng cũng có thể hiểu tuy hoàn cảnh sống, chiến đấu có nhiều khó khăn, gian khổ nhưng tinh thần cách mạng không hề thuyên giảm, vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Không lánh đời, nhận lấy cái an nhàn vào mình, Bác sẵn sàng xông pha vào những nơi nguy hiểm, sẵn sàng lao mình vào cuộc sống khó khăn để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Bởi vậy, hoàn cảnh sống thiếu thốn, khó khăn kia đâu có nghĩa lí gì, Bác vẫn hàng ngày dịch sử Đảng phục vụ cho cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Bàn đá chông chênh vừa gợi lên cái thế chênh vênh, khó khăn chồng chất nhưng đồng thời cũng bộc lộ khí phách kiên cường của Người. Câu thơ cuối cùng có thể coi là điểm sáng của toàn bài: sang ở đây là sang trọng, cao sang. Cho thấy Bác vượt lên trên hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt để sống một cuộc đời thật sang. Qua đó cho thấy tinh thần ung dung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của cuộc cách mạng dân tộc.
Tức cảnh Pác Bó sử dụng lớp ngôn ngữ hết sức dung dị, gần gũi, thân thuộc như lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhưng qua những vần thơ đó cũng đả đủ để bộc lộ vẻ đẹp nhân cách của Người. Bác - một con người giản dị, mộc mạc nhưng lại có một ý chí sắt đá, kiên cường, lí tưởng sống cao đẹp cả đời cống hiến cho nhân dân, đất nước.
Bài văn mẫu số 8
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể hoạt động cứu nước, tháng 2 - 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người sống trong hang Pác Bó, điều kiện sinh hoạt vật chật rất gian khổ, nhưng tất cả thiếu thốn đó đối với Bác không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, mà còn thật là sang. Bởi niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh là được sống cuộc đời cách mạng cứu dân, cứu nước. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Bài thơ bốn câu, theo thể thất ngôn tứ tuyệt thật tự nhiên, bình dị, giọng điệu thoải mái pha chút vui đùa hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một cảm giác vui thích sảng khoái. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ cũng toát lên từ đó. Đi tìm hiểu bài thơ chính là đi tìm hiểu niềm vui của nhân vật trữ tình.
Mở đầu bài thơ là câu thơ có giọng điệu rất tự nhiên, rất ung dung và thoải mái, hòa điệu với cuộc sống của núi rừng:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Câu thơ là sự khái quát của một nhịp sống đã trở thành nếp rất chủ động. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành thế đôi sóng đôi rất nhịp nhàng: sáng ra - tối vào. Nếp sống ở đây chủ động mà đàng hoàng. Đàng hoàng vì ban ngày Bác làm việc đời thường. Tối mới trở về hang để ngủ. Với Bác, còn gì thú vị hơn khi ngày ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về nhà (nhà vẫn là hang núi) để nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng suối chảy. Thật thú vị, thoải mái khi con người được sống giao hòa với thiên nhiên. Phải chăng quy luật vận động ấy là Bác đã vượt lên được hoàn cảnh. Đó chẳng phải là tinh thần lạc quan hay sao?
Chính sự cân đối ở câu thơ thứ nhất đã làm nền cho các câu thơ sau xuất hiện.
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Nhịp 4/3 là nhịp thông thường ở thơ tứ tuyệt, nhưng ở câu này, nhịp 4 được chuyển thành nhịp 2/2 tạo thành một sự đều đặn cùng với hai thanh trắc liền nhau ở nhịp 3 (vẫn, sẵn) càng khẳng định thêm điều đó. Câu thơ toát nên một sự yên tâm về cuộc sống vật chật của Bác. Thơ xưa thường biểu lộ thú vui vì cảnh nghèo như Nguyễn Trãi đã từng viết: Nước là cơm rau hay tri tức. Điều khác biệt của Bác, với các nhà thơ xưa như Nguyễn Trãi là ở chỗ: Nguyễn Trãi sống ở chốn núi rừng vui với thiên nhiên (ở Côn Sơn) để quên đi nỗi đau không được giúp nước, giúp đời. Còn Bác Hồ sống ở chốn núi rừng, bằng lòng với cuộc sống đạm bạc nơi đầu nguồn để đem ánh sáng cứu dân cứu nước. Vì thế câu thơ thứ ba của bài thơ là một sự chuyển biến đột ngột:
Bàn đá chông chềnh dịch sử Đảng
Hai câu nói về chuyện ăn, chuyện ở thong dong bao nhiêu, thoải mái bao nhiêu thì câu nói về chuyện làm việc vất vả bấy nhiêu. Không có bàn, người chiến sĩ cách mạng phải dùng dạ làm bàn, lại là bàn đá chông chênh. Rõ ràng là với từ chông chênh, Bác đã lột tả được điều kiện làm việc rất khó khăn. Công việc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người chiến sĩ cách mạng phải cố gắng hết sức, không ngừng không nghỉ. Ba tiếng cuối cùng sử dụng toàn thanh trắc để thể hiện sự vất vả, nhưng khỏe khoắn, kiên quyết. Như vậy đối với Bác lúc này, việc cách mạng là cần thiết nhất, phải vượt lên tất cả mọi khó khăn. Kết thúc bài thơ là một nhận xét, một kết thúc rất tự nhiên, bất ngờ và vô cùng thú vị:
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Ba câu đầu của bài thơ nói về việc ở, việc ăn và việc làm. Câu thứ tư là một lời đánh giá làm người đọc bất ngờ. Và bằng phép loại suy, ta có thể khẳng định việc ăn, việc ở không phải là sang, chỉ có việc làm dịch sử Đảng là sáng nhất vì nó đem ánh sáng của chu nghĩa Mác – Lê Nin để phát động đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Ở đây ta bắt gặp câu thơ có khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương (thường gặp trong hàng loạt những bài thơ xưa nói cho vui cảnh nghèo đã trở thành truyền thống) trong văn học phương Đông:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà…
(Bác đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)
Đúng là nói cho vui! Thật đấy mà lại đùa đấy! Nghèo nhưng mà lại chẳng nghèo! Giọng điệu thơ rất tự nhiên, dí dỏm thể hiện niềm vui của Nguyễn Khuyến khi có bạn đến nhà chơi.
Ta thấy ở đây niềm vui thích của Bác Hồ là rất thật, không chút gượng gạo, lên gân vì thế nên giọng thơ sảng khoái, ngân vang: Thật là sang. Rõ ràng trong cái sang của Bác, của người cách mạng không phải là điều kiện ăn ở, sinh hoạt mà chính là tri thức cách mạng để giải phóng đất nước, đem lại sự giàu sang, hạnh phúc cho cả dân tộc. Ý nghĩa của bài thơ thật lớn lao.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ Đường rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý thứ hai của nó là nói chơi, còn ý đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai có thể cấm được cái quyền nói trêu của người đã biết tự rèn luyện mình mà vượt lên tất cả. Bài thơ đã vượt qua hành trình hơn 60 năm nhưng đến nay vẫn giữ nguyên được giá trị.
Bài văn mẫu số 9
Suốt những tháng năm học trò đã qua, có lẽ trong mỗi giờ văn, mỗi bài học, mỗi vần thơ đều để lại cho em những cảm xúc khó quên, đặc biệt khi học những tác phẩm mà Bác viết. Em không khỏi bâng khuâng trước vẻ đẹp của đêm trăng huyền diệu trong bài thơ "Ngắm trăng", không khỏi không cảm phục trước nghị lực sắt đá, kiên cường của Người trong ''Đi đường'' và cũng không khỏi xúc động nghẹn ngào trước tấm chân tình của Bác dành cho các cháu thiếu nhi trong bài 'Trung thu'. Đến với "Tức cảnh Pác Pó", em càng kính trọng và yêu quý Bác hơn bởi một tâm hồn sống chan hòa, xem thiên nhiên như người bạn tri âm tri kỉ cùng một nếp sống giản dị và lạc quan trong gian khó của Người.
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng
Bàn ghế chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Sau khi trở về quê hương phục vụ cách mạng, hoạt động kháng chiến ở vùng núi Pác Pó. Tại đây, Bác được sống gần gũi, chan hòa với thiên nhiên, bởi vậy mà Bác xem thiên nhiên như người bạn tâm tình của mình vậy. Như một thói quen, cuộc sống bình dị, ngày qua ngày:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng".
Cuộc sống khá ung dung, như một nếp sống quen thuộc hàng ngày của Người, song, vẫn rất đề phòng và luôn luôn cẩn trọng trong mọi tình huống trước sự gian manh của địch. Nơi sống không mấy đủ đầy, cuộc sống cũng còn nhiều thiếu thốn, trong những bữa ăn hàng ngày cũng chỉ có cháo bẹ, rau măng nuôi tấm thân gầy. Song, không vì thế mà Bác than phiền hay trách móc, với Bác đó đã là đủ đầy, may mắn. Tiếng thơ"sẵn sàng" cất lên cùng giọng điệu hóm hỉnh cho thấy sự hài lòng trong Bác.
"Bàn ghế chông chênh dịch sử Đảng"
Chốn núi rừng không có những bộ bàn ghế sang trọng, đất nước đang trong cảnh khó khăn cũng không thể đòi hỏi gì thêm. Bộ bàn ghế chông chênh nhưng tinh thần yêu nước thì vững bền, cháy bỏng. Ngày ngày, Người vẫn miệt mài làm việc, dõi theo từng bước đi của cách mạng. Với mục đích cao đẹp mong giải phóng dân tộc, giành lại tự do, ấm no cho nhân dân thì dẫu bao gian khổ, khó khăn cũng không làm lung lay ý chí phi thường, sắt son trong con người của Bác.
"Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Câu thơ cuối bài như một lời khẳng định chắc chắn, một chân lý vững bền về con người làm cách mạng. Em đã từng thắc mắc tại sao trong cảnh thiếu thốn như vậy mà Bác vẫn dùng từ "sang" để nói về cuộc đời cách mạng. Phải chăng, hơn ai hết, Người hiểu được rằng, vật chất không là gì so với một trái tim đẹp đẽ, một công việc vì mọi người, vì nhân dân, vì đất nước thì trong bần cùng vẫn ngời sáng, cao đẹp. Từ "sang" như một lối chơi chữ hay và độc đáo, tạo nên sự dí dỏm, bông đùa trong câu thơ, làm bừng sáng ý tưởng đầy nhân văn của tác phẩm. Đồng thời, nó cũng hàm chứa tầng ý nghĩa ngợi ca con đường cách mạng vì lý tưởng mang lại hòa bình cho dân tộc.
Thơ Bác đến gần với chúng em không chỉ bởi những hình ảnh gần gũi, ngôn ngữ tự nhiên bình dị mà còn bởi đó là những vần thơ được viết nên bởi một tâm hồn đẹp. Bài thơ giúp em hiểu rằng không có thiếu thốn nào hơn thiếu thốn mục đích, lí tưởng sống cả. Không có nghèo nàn nào hơn nghèo nàn trong tâm hồn cả. Chỉ cần có lý tưởng sống cao đẹp, mọi gian nan, khó khăn chỉ là bản lề để ta vượt qua và thành công hơn mà thôi.
Bài văn mẫu số 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó nói về cuộc sống của người trong những năm tháng kháng chiến ở chiến trường Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ là cảnh sinh hoạt hằng ngày của Bác:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Sáng ra - tối vào là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác - vị lãnh tụ của cả một đất nước, một dân tộc chỉ là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, tuy nhiên vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người chấp nhận và vô cùng lạc quan với cuộc sống túng thiếu của mình.
Không chỉ là nơi ở mà đồ ăn thức uống của Người cũng vô cùng đạm bạc:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn là thế nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận với tâm thế thoải mái, sẵn sàng. Có thể thấy, Bác không chỉ là một vị lãnh tụ với tài thao lược hơn người mà còn là người cha già có cốt cách giản dị, lạc quan khiến chúng ta phải ngưỡng mộ.
Điều kiện làm việc của Bác cũng gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá nơi đá là bàn, đất là ghế. Câu thơ đã cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này so với các vị lãnh tụ chúng ta thường thấy.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đấu tranh gian khổ đó, Bác vẫn vô cùng lạc quan, yêu đời, yêu cách mạng:
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.
Chúng ta đang sống ở nhiều năm tháng sau này, khi đất nước đã giành được độc lập, có được một cuộc sống tốt đẹp đáng mơ ước. Tuy nhiên, những gian khó mà Bác phải chịu để mang đến tự do cho ta, chúng ta mãi khắc ghi trong tim. Bài thơ nói riêng và nhiều tác phẩm khác nói chung đã giúp chúng ta thêm biết ơn Bác Hồ, đồng thời trân trọng cuộc sống mà mình đang có.
Bài văn mẫu số 11
Trong tim mỗi con người Việt Nam ta không bao giờ có thể quên được những cống hiến, hi sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc mình. Bác không chỉ dạy chúng ta sống ở trên đời sao có ích, Bác còn để lại nền văn học Việt Nam ta những bài thơ hay đặc sắc. Tiêu biểu trong những bài thơ ấy phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Người.
Ba câu thơ đầu thể hiện được cuộc sống sinh hoạt của Hồ Chí Minh ở Pác bó. Nơi đây không có những món ngon vật lạ, không trang hoàng lộng lẫy như phủ chúa xưa mà nơi đây chỉ có những món ăn thiên nhiên luôn sẵn có:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Buổi sáng thức giấc, Người ra bờ suối trong lành, tối Người lại trở về hang sâu. Nơi đây Người làm bạn với thiên nhiên, ăn ở với thiên nhiên hòa mình vào thiên nhiên mà sống chan hòa. Thức ăn hàng ngày của một vị lãnh tụ là cháo bẹ và rau măng. Những thứ ấy không xa xỉ nhưng luôn sẵn có.
Điều đó cho thấy được sự thanh cao đạm bạc trong cuộc sống của Người. Nơi hang tối ấy Người vẫn không ngừng làm việc để tìm những bước tiến cho cách mạng nước nhà. Chẳng có bàn lim ghế gỗ, Người ngồi trên bàn ghế đá chông chênh để dịch sử Đảng. Ở đây ta thấy được một cuộc sống thanh bình không bom đạn, giản dị nhưng thanh cao, khó khăn mà yên bình không tiếng súng.
Sống trong hoàn cảnh ấy, Người không những không chán nản mà còn cho đó là “sang”: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Đối với Người như vậy là quá sang rồi bởi vì ở ngoài kia Người biết còn có hàng trăm nghìn người không có gì để ăn, những đứa trẻ khát sữa, những người mẹ nhịn đói cho con ăn, những người bà còng lưng gồng gánh, những người lính ăn bữa này nhịn bữa kia.
Bài thơ chỉ vỏn vẹn có bốn câu thôi nhưng đã thể hiện được cuộc sống của Hồ Chí Minh nơi pác Bó. Đồng thời qua đó ta cũng cảm nhận được vẻ đẹp trong nhân cách của Người, giản dị đạm bạc và thanh cao.
Bài văn mẫu số 12
Cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh trải qua biết bao bôn ba sóng gió. Nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, trải qua nhiều khó khăn, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng, cho đến tận năm 1941 Bác mới trở về Việt Nam tiếp tục hoạt động cách mạng. Cuộc sống ở Pác Bó, Cao Bằng lúc bấy giờ còn hết sức thiếu thốn, nhưng đã được con mắt luôn lạc quan, ung dung của Bác ghi lại hết sức hóm hỉnh trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sang
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Bài thơ không chỉ cho thấy quá trình hoạt động cách mạng của Bác mà còn phản ánh cuộc sống trong những thời gian đầu trở về nước hết sức khó khăn, gian khổ. Mở đầu bài thơ là bối cảnh nơi Bác ở:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cấu trúc câu sáng ra, tối vào cho thấy nhịp điệu sinh hoạt hết sức đều đặn của Bác. Nhưng sau đó còn hé lộ cuộc sống thiếu thốn, phải sống nơi rừng sâu, nơi hang, nơi suối. Mặc dù hoàn cảnh sống khó khăn là vậy, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn rất ung dung, làm chủ cuộc sống của mình, ngày cơm vẫn ba bữa: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Ba chữ vẫn sẵn sàng đem đến những cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu là cháo bẹ rau măng, những thức ăn rừng núi luôn sẵn sàng, phục vụ cho cuộc sống con người. Nhưng đằng sau đó là nụ cười, là tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh sống gian khổ. Điều này không chỉ được thể hiện riêng trong tác phẩm này, mà ở một bài thơ khác, Ngươi cũng nhắc lại ý thơ tương tự:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Đó chính là tâm hồn của người chiến sĩ hóm hỉnh, yêu đời. Vượt lên trên hoàn cảnh đến sống cuộc đời an nhiên, phục vụ cống hiến cho đất nước. Đồng thời ba chữ vẫn sẵn sàng cũng có thể hiểu tuy hoàn cảnh sống, chiến đấu có nhiều khó khăn, gian khổ nhưng tinh thần cách mạng không hề thuyên giảm, vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Không lánh đời, nhận lấy cái an nhàn vào mình, Bác sẵn sàng xông pha vào những nơi nguy hiểm, sẵn sàng lao mình vào cuộc sống khó khăn để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Bởi vậy, hoàn cảnh sống thiếu thốn, khó khăn kia đâu có nghĩa lí gì, Bác vẫn hàng ngày dịch sử Đảng phục vụ cho cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Bàn đá chông chênh vừa gợi lên cái thế chênh vênh, khó khăn chồng chất nhưng đồng thời cũng bộc lộ khí phách kiên cường của Người. Câu thơ cuối cùng có thể coi là điểm sáng của toàn bài: sang ở đây là sang trọng, cao sang. Cho thấy Bác vượt lên trên hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt để sống một cuộc đời thật sang. Qua đó cho thấy tinh thần ung dung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của cuộc cách mạng dân tộc.
Tức cảnh Pác Bó sử dụng lớp ngôn ngữ hết sức dung dị, gần gũi, thân thuộc như lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhưng qua những vần thơ đó cũng đả đủ để bộc lộ vẻ đẹp nhân cách của Người. Bác - một con người giản dị, mộc mạc nhưng lại có một ý chí sắt đá, kiên cường, lí tưởng sống cao đẹp cả đời cống hiến cho nhân dân, đất nước.
Bài văn mẫu số 13
Một ngày xuân năm 1941, “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ” lãnh tụ cách mạng - anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau 30 năm trời buôn ba tìm đường cứu nước, cuối cùng cũng quay trở về Việt Nam để trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Người chọn Pác Bó (Cao Bằng) làm căn cứ địa kháng chiến, biến nơi đây trở thành cái cội nguồn của cách mạng nước nhà. Hồ Chí Minh có một sự nghiệp chính trị vẻ vang, đồng thời cũng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ, có thể nói rằng đời cách mạng của Người luôn song hành với đời sống văn chương. Văn chương là vũ khí đấu tranh, là khôi giáp bảo vệ, đồng thời cũng là thú vui tao nhã lúc rảnh rang, những khía cạnh ấy có sự gắn bó mật thiết vô cùng. Thế nên trong những ngày sống và làm việc tại Pác Bó, dẫu hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn đủ đường, cách mạng nước ta còn non trẻ lại phải chống chọi với cả một đế quốc to lớn nhưng Bác giữ cho mình một tinh thần lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung. Tác phẩm Tức cảnh Pác Bó ra đời trong hoàn cảnh ấy chính là minh chứng cho tấm lòng yêu, gắn bó tha thiết với thiên nhiên Pác Bó và tấm lòng sâu nặng với “Cuộc đời cách mạng thật là sang” của Người.
Ở hai câu thơ đầu tiên Bác đã tái hiện lại hoàn cảnh sống và sinh hoạt của mình tại Pác Bó với giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng”
Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn thế nhưng đúng với phong cách thơ tứ tuyệt, lời ít ý nhiều mà không gian sinh hoạt và làm việc của Bác đã được gợi mở một cách rõ ràng. Các hình ảnh “bờ suối”, “hang” vốn là những hình ảnh khá xa lạ đối với chúng ta hiện nay, thế nhưng với Bác đó là những hình ảnh gắn bó, gần gũi và thân thuộc nhất. Cuộc sống của Bác bắt đầu với việc buổi sáng ra suối tắm giặt, sau đó làm việc luôn bên bờ suối, đến khi tối đến thì hang chính là nhà, là nơi để Bác nghỉ ngơi, dưỡng sức sau một ngày dài vất vả. Phải nói rằng đó là một cuộc sống không dễ dàng gì, nhưng Hồ Chí Minh lại không cho là vậy, trước hoàn cảnh vất vả, Người lại học cách thích nghi, sống chan hòa với thiên nhiên. Điều đó được chứng minh bởi nhịp thơ 4/3, cùng với 2 vế tiểu đối “sáng ra bờ suối/tối vào hang” gợi cho người đọc sự nhịp nhàng, nề nếp của cuộc sống sinh hoạt, nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh ấy có một phong thái ung dung nhẹ nhàng, lưng gánh bao nhiêu trọng trách, nhưng tâm hồn vẫn rất thảnh thơi, coi nhẹ sự gian khổ của đời cách mạng.
Không chỉ về điều kiện sinh hoạt, mà ngay cả thức ăn đồ uống ở nơi núi rừng Pác Bó cũng rất thiếu thốn, quanh năm Người chỉ ăn “cháo bẹ, rau măng” làm no bụng. Đó là thứ thức ăn nhạt vị, lại không có mấy chất dinh dưỡng, ăn nhiều có lẽ cũng có phần không chịu được. Nhưng khi vào thơ của Hồ Chủ tịch, thái độ của Người với hai thứ “cháo bẹ, rau măng” không khỏi khiến người ta thêm kính trọng. Bác viết “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”, mấy chữ “vẫn sẵn sàng” có nhiều điều cần phải phân tích. Thứ nhất nó nói lên tâm thế của Hồ Chủ tịch khi đứng trước điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, dẫu có phải ăn bắp, ăn măng trường kỳ, nhưng Người chưa từng chê bai, bởi Người hiểu rõ gian khó của nước nhà, nhân dân không có cơm ăn, thì Người ăn cháo bẹ rau măng cũng chẳng có gì mà than vãn. Hồ Chí Minh khi đứng trước hai thức ấy, vẫn sẵn sàng ăn một cách vui vẻ, ngon lành, thậm chí thấy đó là một cái thú của người làm cách mạng, sống ở rừng thì ăn sản vật của rừng núi, chan hòa với thiên nhiên, còn gì quý hóa hơn thế nữa. Một ý thứ hai nữ về mấy chữ “vẫn sẵn sàng”, đây cũng có thể được xem là lời khen kín đáo của Bác về sự dồi dào măng, bắp của căn cứ địa Pác Bó, thế nên làm cách mạng ở đây người chiến sĩ chẳng bao giờ lo đói, bởi lúc nào cũng có sẵn bắp, sẵn măng cho Người ăn thoải mái.
Có thể thấy Hồ Chí Minh sống chan hòa, gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống đạm bạc như vậy rất có phong vị của các bậc hiền nhân thời xưa, có thể ví với Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi đức tính thanh cao, giản dị, rất biết thưởng thức cái thú với hoa lá, cỏ cây. Nhưng Người không giống như các bậc hiền triết thời xưa, thích tìm chốn hoang vu, không người để tận hưởng cuộc sống an nhàn không màng thế sự, xa lánh cuộc đời, hay ôm nỗi đau bất đắc chí mà trốn tránh thế nhân,... Người sống với với tư cách là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, ý thức trách nhiệm với dân tộc khiến Người luôn luôn cố gắng, chính vì vậy trong các hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn thì tâm hồn lạc quan và phong thái ung dung biết thưởng thức đã giúp Người khuây khỏa, ý chí chiến đấu từ đó lại càng trở nên mạnh mẽ. Tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ hòa vào làm một càng khiến cho sự nghiệp cách mạng của Người thêm vẻ vang, rực rỡ. Và hai câu thơ tiếp theo đã cho thấy tấm lòng tha thiết của Người đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Sống giữa cảnh đơn sơ, giản dị, nhiều vất vả, khó khăn thì tấm lòng sâu nặng với cách mạng của Hồ Chí Minh càng được bộc lộ rõ ràng. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” không chỉ cho chúng ta thấy được hoàn cảnh làm việc thiếu thốn, khó khăn, mà nó còn mang đến cho người đọc những cảm giác không vững vàng, có nhiều thiếu hụt, điều đó gợi ra tình thế của cách mạng Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Đảng ta mới thành lập, còn non trẻ, lực lượng quân đội còn yếu kém, thiếu thốn mọi mặt cả về cơ sở vật chất lẫn lương thực thực phẩm. Chúng ta chỉ có nhiều nhất là tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bấy nhiêu ấy khiến người đứng đầu trực tiếp chỉ huy cách mạng là Hồ Chủ tịch có nhiều lo lắng. Thế nhưng người chiến sĩ cách mạng, người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam ta có lúc nào nao núng? Người vẫn một lòng “dịch sử Đảng”, một lòng lãnh đạo nhân dân ta tiến về phía trước bằng toàn bộ khối óc và thân thể, luôn vững vàng tư tưởng, kiên trì trong tranh đấu, chưa một phút nào buông lỏng. Và dẫu có nhiều khó khăn chồng chất, từ điều kiện sống cá nhân, đến điều kiện cách mạng của dân tộc, nhưng tấm lòng Hồ Chí Minh giữa núi rừng Tây Bắc dành cho cách mạng vẫn luôn sáng rõ và tươi đẹp “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Người ý thức rằng, mình sinh ra là để làm cách mạng, để đóng góp một phần công sức giành lại nền độc lập của dân tộc mà mấy trăm năm nay cha ông đã đổ máu xương để gìn giữ. Với Hồ Chí Minh, chẳng sự nghiệp nào, chẳng lý tưởng nào lúc này “sang” hơn lý tưởng cách mạng, lý tưởng cứu quốc nữa. Người ca ngợi cách mạng, đồng thời cũng thể hiện lòng tự hào, tấm lòng tha thiết không đổi với cách mạng của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà trí thức tiến bộ, một nghệ sĩ có tâm hồn thanh cao, giản dị. Như vậy có thể thấy rằng trái ngược với “bàn đá chông chênh” đầy thiếu thốn, thì với Bác “cuộc đời cách mạng thật là sang”, thật đầy đủ, thật giàu có. Có sung túc, giàu có ấy nó ngự trị ở trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, Người giàu có nhất là lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, và tinh thần lạc quan, yêu đời, gắn bó tha thiết với thiên nhiên. Có thể thấy những dòng thơ đầu là phong thái ung dung, đủng đỉnh, thì đến câu thơ cuối chính là tiếng cười hóm hỉnh, tươi vui của Bác, vượt lên trên tất cả gian khó, vang vọng khắp núi rừng.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hay và sâu sắc của Bác trong quá trình hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Với giọng thơ vui tươi, lạc quan, ngôn ngữ giản dị, ở đó ta không chỉ thấy hiện lên một Hồ Chí Minh với phong thái ung dung, tự tại, sống chan hòa với thiên nhiên, mà còn thấy hình ảnh một chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng sâu sắc, cùng một tâm hồn thanh cao, giản dị vô cùng.
Bài văn mẫu số 14
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại và cũng là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh của chính mình - người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến, Bác đã mang đến cho bạn đọc góc nhìn, khía cạnh vô cùng lạc quan trong hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống của Bác ở Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
“Sáng ra - tối vào” là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở trong hang với nhiều mối đe dọa nguy hiểm. Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.
Cuộc sống tuy có khó khăn là thế nhưng không ảnh hưởng được đến sự chuyên tâm của Bác dành cho cách mạng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này. Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.
Cuộc sống của Bác hiện lên vô cùng giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tươi đẹp, lạc quan. Trong những hoàn cảnh khó khăn, éo le nhất, Bác vẫn biết cách khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Bài văn mẫu số 15
“Người lãnh tụ, nhà nghệ sĩ
Của mỗi người của cả trăm quê
Trái tim lớn đập hoài không nghỉ
Những buồn vui, căm giận, say mê ...”
(Giang Nam)
“Buồn vui, căm giận, say mê ...” của Bác xuất phát từ lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc nồng nàn. Bác hoạt động chính trị (người lãnh tụ), và làm thơ (nhà nghệ sĩ) cũng là để thể hiện lòng yêu thương cao cả ấy. Nhiều lúc cả hai công việc như hòa làm một trong con người Bác. Điều ấy đã được chứng tỏ ở những bài thơ Người sáng tác ở núi rừng Việt Bắc khi từ nước ngoài về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước mà bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một ví dụ.
Bài thơ được làm theo thể Đường luật tứ tuyệt vời đúng niêm luật của thể loại thơ này. Mở đầu là câu Khai, nhà thơ viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Câu thơ giới thiệu thời gian, nơi chốn và việc thường làm được ngắt nhịp 4/3 bằng dấu phẩy một cách rõ ràng, dứt khoát. Đọc câu thơ ta có cảm giác ngày ngày, mỗi sáng mỗi tối nhà thơ đều lặp lại hành vi “ra, vào” ấy. Tại sao?
Bác đang trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Công việc của một lãnh tụ chính trị không giống công việc của một nhà thơ, nhất là với một lãnh tụ chính trị đang hoạt động chống lại tập đoàn thống trị để giành lại độc lập, tự do cho nước cho dân.
Tất yếu là lãnh tụ phải làm nhiều công việc đúng với vai trò lãnh đạo phong trào. Nhưng thuở ban đầu cơ ngơi không có, Để tránh bị truy lùng, Bác tìm nơi hiểm trở để đặt cơ quan đầu não cho hoạt động ban đầu. Công việc của lãnh tụ phần lớn là vạch đường lối, kỷ cương, kế hoạch,... Ánh sáng để làm việc và an toàn trong hoạt động cách mạng là ý nghĩa sâu xa của “Sáng ra, tối vào” ở câu Khai.
Nếu câu Khai giới thiệu thời gian, nơi chốn để làm việc và nghỉ ngơi thì ở câu Thừa nhà thơ giới thiệu bữa ăn hàng ngày của mình: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Hai món trong một bữa: cháo ngô (bắp, bẹ), và rau măng. Nhưng không chỉ là một bữa mà là mọi bữa.
Cụm từ “vẫn sẵn sàng" gợi cho người đọc cảm nhận đó. Ấy là bữa ăn để nuôi mạng sống mà người dấn thân phải chấp nhận. Ngày trước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi khi dấy nghĩa ở Lam Sơn cũng có lúc lâm vào hoàn cảnh:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội
Cực khổ từ miếng cơm manh áo, nơi ăn chốn ngủ nhưng Hồ Chí Minh vẫn: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Một cách hiểu giản dị, nôm na là không có cả bàn để làm việc, dù là một việc quan trọng là dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu học tập tư tưởng cho cán bộ cách mạng thời bấy giờ. Không có bàn ư? Thì lấy đá làm bàn. Thử tưởng tượng hình ảnh Bác say sưa làm việc bên cái bàn “chông chênh” ấy để thấy rõ tính nghệ sĩ lẫn sự say mê công việc của Người! Câu chuyện của bài thơ có ý nghĩa như thế!
Dinh thự của một lãnh tụ chỉ là cái hang bên bờ suối, thức ăn mỗi bữa thuần là “cháo bẹ, rau măng, chỗ làm việc là bàn đá chông chênh ” bên suối, vậy mà Bác vẫn cho rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Câu hợp của bài thơ phảng phất phong thái của các chí sĩ thuộc thế hệ trước. Chuyện tù đày gian lao với Phan Bội Châu thì:
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Còn với Phan Chu Trinh thì:
Gian nan chỉ kể chuyện con con.
Ấy là tâm trạng lạc quan trước nguy hiểm, tù đày, gian khổ của những người chấp nhận dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là con đường đầy nước mắt, đầy máu; là cái giá phải trả để có được độc lập và tự do. Không mang tâm trạng lạc quan trước gian khổ, nguy hiểm thì ít ai thành công, thành danh được.
Trước cái chết vẫn lạc quan không run sợ thì sống với “cháo bẹ, rau măng” cũng đã sang lắm rồi! Ngày trước, sau khi thôi làm quan, Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn tìm vui với trúc, thông và với suối mát. Trong:
Nghìn mẫu xanh chen chúc
Ta đủng đỉnh ngâm dưới gốc
Hỏi ai sao chẳng sớm quay về
Nửa đời vui mãi trong lầm tục
Muôn chung chín vạc để làm gì?
Cũng là vui thú lâm tuyền nhưng cái vui của Hồ Chí Minh khác xa cái vui của Nguyễn Trãi. Khái quát về sự khác biệt ấy là: với Nguyễn Trãi, vui thú lâm tuyền sau khi đã hoàn thành sự nghiệp khởi nghĩa chống quân nhà Minh, sau đó làm quan, và rồi xa lánh đời “lầm tục”; còn với Hồ Chí Minh thì vui thú lâm tuyền lúc mới khởi nghĩa chống Pháp, đang trực tiếp lãnh đạo các lực lượng chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tức cảnh Pác Bó, một bài thơ tứ tuyệt có ngôn ngữ giản dị; dễ hiểu và gợi những hình ảnh rõ ràng về sự khó khăn, gian khổ trong những ngày đầu cách mạng của một lãnh tụ. Âm điệu của bài thơ, nhất là những từ cuối của mỗi câu kết hợp với ngữ nghĩa của toàn bài khiến người đọc cảm nhận được sự thỏa mái, chấp nhận cảnh sống khó khăn lúc bấy giờ vì lý tưởng cao quý mà nhà thơ đang cố thực hiện. Hẳn nhiều người đọc cũng học được bài học lạc quan ở bài thơ này.
Bài văn mẫu số 16
Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.
Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.
Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.
Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
hoặc:
Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó
(Nguyễn Trãi)
Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.
Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, chan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.
Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.
Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.
Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.
Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:
Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần vần,
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.
Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.
Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.
Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.
Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.
Xem thêm các bài văn mẫu 8 hay khác:
TOP 10 Đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ thiên trường vãn vọng (2024) SIÊU HAY
TOP 15 Đoạn văn cảm nhận về bài thơ qua đèo ngang (2024) SIÊU HAY
TOP 20 Bài văn cảm nhận 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Đoạn văn nêu cảm nhận thơ mưa xuân II của nguyễn bính (2024) SIÊU HAY
TOP 30 bài Phân tích Khi con tu hú (Tố Hữu) 2024 CỰC CHI TIẾT