PHÂN TÍCH BÀI THƠ KHI CON TU HÚ
Sơ đồ tư duy
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.
- Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
- Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.
- Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
- Các tác phẩm chính:
- Từ ấy (1937 - 1946)
- Việt Bắc (1947 - 1954)
- Gió lộng (1955 - 1961)
- Ra trận (1962 - 1971)
- Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
- Máu và hoa (1972 - 1977)
- Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
- Một tiếng đờn (1978 -1992)
- Ta với ta (1992 - 1999)
- Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi tác giả mới bị bắt giam trong nhà lao Thừa Phủ
2.2. Bố cục: 4 phần
- Phần 1 (6 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên vào hè.
- Phần 2 (4 câu cuối): Tâm trạng người chiến sĩ trong tù.
2.3. Nội dung chính: Bài thơ là bức chân dung tinh thần tự họa của Tố Hữu, cho chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách mạng anh hùng. Tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
2.4. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
2.5. Thể thơ: Lục bát
2.6. Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.
2.7. Giá trị nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát sử dụng uyển chuyển.
- Giọng điệu linh hoạt.
- Từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
+ Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta trong giai đoạn 1930 - 1945.
+ Bài thơ “Khi con tu hú” là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Tố Hữu thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát khao tự do mãnh liệt của người tù cách mạng.
II. Thân bài
* Khái quát về bài thơ
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được Tố Hữu sáng tác trong khoảng thời gian bị giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), trong không gian chật hẹp và tối tăm của nhà tù.
- Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.
* Luận điểm 1: Cảm nhận về bức tranh mùa hè yên bình, tươi đẹp (6 câu thơ đầu)
- Âm thanh:
+ Tiếng chim tu hú kêu
+ Tiếng ve ngân
+ Tiếng diều sáo vi vu trên trời
-> Âm thanh báo hiệu hè sang, như một bản nhạc sôi động đầu mùa.
- Màu sắc:
+ Màu vàng của lúa chín, của bắp ngô
+ Màu vàng hồng của nắng mới
+ Màu xanh thẳm của bầu trời
-> Gam màu tươi sáng, màu của sức sống, đó còn là những màu tượng trưng cho sự tự do.
=> Cả âm thanh và hương vị đều gợi lên khung cảnh của làng quê nông thôn Việt Nam khi vào hè.
- Hình ảnh: cánh đồng lúa chín, trái cây bắt đầu chín -> báo hiệu mùa hè, bước chuyển mình của thời gian từ xuân qua hạ.
- Đường nét: diều sáo “lộn nhào” giữa nền trời xanh thẳm -> cảnh vật, đường nét có đôi có cặp, thể hiện sức sống.
-> Báo hiệu mùa hè đến, thời điểm vụ mùa lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, trong vườn cây hoa trái đang chín ngọt thơm hương.
=> Bức tranh mùa hè tươi mới, sinh động, tràn đầy sức sống qua con mắt của một tâm hồn trẻ trung, yêu đời. Phải vô cùng tinh tế mới có thể cảm nhận được từng bước chuyển của không gian và thời gian như vậy!
* Luận điểm 2: Cảm nhận về tâm trạng, cảm xúc của người tù cách mạng (4 câu thơ cuối)
- Trước khung cảnh tràn đầy sức sống của mùa hè, tâm trạng người tù cách mạng dường như đang bí bách, ngột ngạt hơn bao giờ hết.
+ Động từ mạnh: “đạp”, “ngột”, “chết uất”
+ Một loạt từ cảm thán: “ôi!”, “làm sao”, “thôi!”
+ Kết thúc bằng một câu cảm thán
+ Nhịp thơ thay đổi: 6/2, 3/3
- Hồi tưởng về những hình ảnh bình dị, thân thuộc nơi cuộc sống làng quê và rồi đẩy nỗi nhớ của mình lên cao độ.
-> Tâm trạng lên đến đỉnh điểm khiến nhà thơ phải liên tục thốt lên, nhớ về tiếng ve đặc trưng mỗi khi hè tới, tiếng ve râm ran làm cho cái nắng hè càng thêm lan tỏa, cái nắng đào hong khô những bắp rây phơi đầy sân vàng ruộm.
=> Tiếng ve réo rắt và râm ran như mang đầy tâm trạng của nhà thơ, đó là tâm trạng đầy bức bối và ngột ngạt, tù túng.
- Nhà thơ muốn phá tan xiềng xích, muốn được hòa mình vào không gian mùa hè, và hơn hết là muốn được tự do, khát khao tuổi trẻ cứ thế sục sôi hừng hực trong lòng tác giả.
- Tiếng chim tu hú được lặp lại 2 lần ở câu mở đầu và câu kết thúc: kết cấu đầu cuối tương ứng, tạo ra sự logic.
=> Tiếng chim tu hú hay chính là tiếng gọi của sự tự do, tiếng gọi của cuộc sống đang hối hả, dồn dập, thúc giục niềm khao khát tự do, thoát khỏi chốn ngục tù, và sâu xa hơn là khao khát đất nước được hòa bình độc lập đang cháy hừng hực nơi tâm hồn người chiến sĩ trẻ.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Thể thơ lục bát giản dị, mềm mại, uyển chuyển
- Nhịp thơ thay đổi bất ngờ, diễn tả tâm trạng của tác giả
- Cảm xúc logic, giọng điệu thay đổi linh hoạt, khi vui tươi, hóm hỉnh, khi uất ức, dồn nén.
- Từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường.
III. Kết bài
- Nêu đánh giá, cảm nhận chung về bài thơ.
Bài phân tích mẫu
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 1
Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trong bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ - Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh.
Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Mở đầu bài thơ, với tựa đề Khi con tu hú, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.
Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
(Trăng trối)
Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Một bức tranh được “vẽ" trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. “Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”, sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đang chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc.
Phải là một người tha thiết yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế! Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng vài con sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm. Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động: “muốn đạp tan phòng”.
Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bực bội, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên: "Ngột làm sao, chết uất thôi".
Bài thơ khép lại nhưng là nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi... Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 2
Tố Hữu là một tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn. Tác phẩm "Khi con tu hú" là một trong những sáng tác được đánh giá cao.
Tác phẩm được ông sáng tác khi đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ. Tác phẩm diễn tả nổi khổ của người cách mạng, càng khao khát được phục vụ cách mạng được chiến đấu người chiến sĩ càng cảm thấy bức bối uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt chứng kiến thời gian cứ đằng đẵng trôi qua khi ở bên ngoài tinh thần kháng chiến đang sôi sục.
Nhan đề "Khi con tu hú" của bài thơ không chỉ nói đến thời gian mà còn ẩn ý là một thời điểm bừng lên của thiên nhiên tạo vật bên cạnh đó chỉ khát khao hoạt động cách mạng của con người. Tiếng chim tu hú có tác động mạnh mẽ đến nhà thơ bởi lẽ nó báo hiệu một mùa hè đến và là biểu tượng cho sự bay nhảy được tự do , do đó có ảnh hưởng lớn đến nhà thơ khi đang bị giam cầm. Tiếng chim tu hú vọng qua thanh sắt len lỏi vào trong tâm hồn tâm trạng buồn bã của nhà thơ:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chim đương chín trái cây ngọt dần
Con chim tu hú đánh thức tâm hồn nhà thơ khi "lúa chiêm đang chín"còn trái cây thì "ngọt dần". Ta thấy tác giả nói "đương chín"chứ không phải là đang chín trái cây ngọt dần chứ không phải là đã ngọt. Dường như mùa hè đang đến dần, nhà thơ muốn nó đừng trôi qua nhanh mà hãy chậm rãi nhà thơ muốn níu giữ từng chút một thời gian. Nhưng đâu chỉ có thế tiếng chim gọi lên một bầu trời tràn ngập màu sắc và âm thanh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng vàng
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Giữa chốn ngục tù người chiến sĩ ấy nhớ tiếng ve ngân nhớ sân bắp phơi đầy. Đó là những hình ảnh âm thanh màu sắc của dời sống thường thật bên ngoài mà sao nhà thơ lại nhớ đến tột cùng như thế, thèm muốn được ngắm nhìn chúng đến như thế. Chắc hẳn trong chốn lao tù ấy ánh sáng thiên nhiên bầu trời thiên nhiên cũng là một điều tưởng chừng như quá xa xỉ đối với nhà thơ.
Bầu trời trong xanh ấy với tiếng ve ngân còn được điểm xuyết thêm hình ảnh "đôi con diều sáo lộn nhào từng không" mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng được bay bổng tự do cùng thiên nhiên đất trời. Nhà thơ phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên , hòa nhập với thiên nhiên và khát khao được sống trong thiên nhiên lắm thì nhà thơ mới có thể vẽ ra một bức tranh thiên nhiên trong trẻo tươi mới và rộn ràng đến như thế.
Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp và thơ mộng kia không phải được nhìn từ con mắt của nhà thơ mà được tưởng tượng qua hình nhả con tu tú kêu gọi bầy. Nhà thơ đã sử dụng những giác quan để nghe ngửi và cảm nhận tất cả mọi âm thanh đường nét màu sắc của mùa hè. Chỉ bằng sáu câu thơ nhà thơ đã làm hiện lên một khung cảnh của làng quê yên bình như bao làng quê khác của Việt Nam.
Nhìn thiên nhiên ấy tác giả càng thấy đau xót cho thân phận mình khi con chim ngoài trời cũng được tự do bay lượn trong bầu trời mà tại sao con người lại bị chôn vùi trong nhà lao với bốn bức tường cô độc không thể tự do vùng vẫy bên ngoài. Trong cảnh tù đầy mùa của ngô lúa hay màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế những màu sắc âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh huyền ảo rực rỡ hẳn lên.
Trẻ trung và yêu đời say mê khát khao sống khao khát được tự do. Nhà thơ đang bị đày đạo trong ngục tối nhưng tinh thần ở ngoài lao mới có cảm xúc, cảm hứng ấy. Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh rất sinh động cụ thể gợi cảm các từ ngữ lựa chọn có giá trị tạo hình. Đặc biệt phép liệt kê được vận dụng để tạo ra những ấn tượng huy hoàng về một mùa hè phong phú và khát khao của tuổi trẻ.
Hình ảnh thiên nhiên mùa hè hiện lên trong tâm hồn nhà thơ trong cảnh lao tù ấy đã thể hiện khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm nén nổi. Đoạn thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. Người chiến sĩ xả thân vì lí tưởng cao đẹp đó có một thế giới nội tâm rất phong phú rung động mãnh liệt đối với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó tha thiết với quê hương ruộng đồng. Giọng thơ từ nhung nhớ tha thiết chuyển sang uất ức trong những câu thơ tiếp theo:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu
Mùa hè đã đến trong thiên nhiên cảnh vật và đất trời quê hương Việt Nam. Mùa hè đến dậy trong lòng bao thôi thúc giục giã. Mùa hè đất trời lại tiếp tục len lỏi vào tâm hồn nhà thơ thúc giục tinh thần thoát khỏi nhà lao ra hòa nhập với thiên nhiên đất trời bay nhảy cùng chim muông cảnh vật. Bao âm thanh giục giã khiến nhà thơ muốn "đập tan phòng" đập tan song sắt, xà lim chật chội để ra ngoài giải phóng mình.
Lòng uất hận đang dâng trào khiến nhà thơ chỉ muốn thoát khỏi sự chật chội ấy để ra ngoài thiên nhiên rộng lớn. Tiếng chim tu hú tạo một nghịch trạng trong tâm hồn người chiến sĩ cộng sản. Mùa hè tràn đầy sức sống đang đến vậy mà nhà thơ lại bị giam cầm tù đầy.
Ngoại cảnh tác động vào con người khiến con người bức bối ngột ngạt muốn vùng vẫy tung phá. Nhưng thực tế không thể làm được nên phải thốt lên thành lời than, đó chính là biểu hiện của niềm khao khát tự do khao khát hoạt động cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Tiếng chim tu hú kia dường như là tiếng đời tiếng cách mạng đang gọi nhà thơ giục giã lên đường kháng chiến phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Tiếng chim tu hú gọi bầy tha thiết gợi ra một không gian thế giới bao la vô cùng sinh động. Nhưng thế giới ấy càng rộng lớn bao la rực rỡ bao nhiêu càng khiến cho người tù cảm thấy chặt chội khó chịu bấy nhiêu. Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của thiên nhiên mời gọi nhà thơ nhưng tâm trạng của nhà thơ khi nghe tiếng tu hú mỗi lần cất lên lại hoàn toàn khác nhau.
Nếu như lúc đầu tiếng chim tu hú mở ra một khung trời thiên nhiên rộng lớn bao la với đủ màu sắc âm thanh hình ảnh của cuộc sống thường nhật khi mùa hè đến trên khắp quê hương Việt Nam nhưng tiếng chim tu hú sau đó lại khiến cho tâm trạng nhà thơ cảm thấy ngột ngạt khó chịu chỉ muốn thoát ra khỏi thế giới ngục tù ấy một cách nhanh chóng. Nhưng hiện thực lại không thể thoát khỏi chốn lao tù đã khiến tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc khó chịu.
Bài thơ được tác giả dùng những hình ảnh thơ gần gũi giản dị mà giàu sức gợi cảm ở nghệ thuật sử dụng thơ lục bát uyển chuyển tự nhiên và cả những cảm xúc thiết tha sâu lắng thể hiện nguồn sống sục sôi của người cộng sản. Bài thơ là khúc ca tâm tình tiếng gọi đàn hướng về đồng quê và bầu trời tự do với niềm khát khao cháy bỏng. Bài thơ còn là vẻ đẹp chân thực của người cộng sản luôn muốn phục vụ cộng sản phục vụ cách mạng phục vụ nhân dân đồng bào.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 3
Tố Hữu sáng tác bài thơ "Khi con tu hú" tại nhà lao Thừa Phủ (Huế) vào mùa hè năm 1939, sau khi bị thực dân Pháp bắt giam vì "tội" yêu nước và làm cách mạng. Bài thơ thể hiện tâm trạng xốn xang, bức bối của người thanh niên cộng sản đang bị cầm tù, khi nghe thấy tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã muốn phá tung xiềng xích để trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương.
Tiếng chim tu hú gọi bầy gợi cho nhà thơ nghĩ đến khung trời lồng lộng ở bên ngoài và càng cảm thấy ngột ngạt trong xà lim chật chội, càng khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do. Tiếng chim là yếu tố gợi mở để mạch cảm xúc trào dâng mãnh liệt:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở. Tiếng chim vô tình tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Nằm trong xà lim chật hẹp, tối tăm, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã, lắng nghe mọi âm thanh cuộc đời bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi trong tâm tưởng nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè nồng nàn của quê hương.
Mùa hè là mùa của Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần dưới cái nắng vàng óng như mật của miền Trung. Những âm thanh rạo rực và hình ảnh tươi đẹp, tràn đầy sức sống của mùa hè nối nhau hiện lên trong kí ức nhà thơ:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ôi tiếng ve! Tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt tuổi học trò, làm sao quên được! Tiếng ve gợi nhớ về những khu vườn râm mát bóng cây, những sân phơi bắp (ngô) đầy ắp nắng đào. Màu vàng của lúa, bắp; màu hồng của nắng; màu xanh của trời tạo nên những mảng màu sắc lung linh, rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây hương lúa, hương thơm trái chín đầu mùa. Xa xa, tiếng chim tu hú lảnh lót, tiếng ve ngân ra rả trong vòm lá.
Trên bầu trời cao rộng, những cánh diều chao lượn, tiếng sáo vi vu trong gió nam mát rượi chiều hè... Phải gắn bó, yêu mến quê hương sâu đậm đến độ nào thì nhà thơ mới hình dung ra một bức tranh mùa hè xứ Huế sống động đến như vậy. Đó là những mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình, bè bạn, đồng bào, đồng chí thân thương.
Sáu câu-thơ lục bát uyển chuyển mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Nhiều âm thanh, hình ảnh tiêu biểu của mùa hè được đưa vào bài thơ: tiếng ve ngân trong vườn cây, lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với cánh diều chao lượn, trái cây chín mọng ngọt lành...
Tiếng chim tu hú khởi đầu và bắt nhịp cho mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ màu sắc, ngạt ngào hương vị... trong cảm nhận của người tù. Đoạn thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế và khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ trung, yêu đời nhưng đang bị quân thù tước mất tự do. Đang hồi tưởng về quá khứ, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng của chốn lao tù:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Thi hứng được khơi nguồn bắt đầu từ tiếng chim tu hú. Tiếng chim nhắc nhớ đến mùa hè và tạo nên sự xao động lớn trong tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc cứ dâng lên từng đợt, từng đợt như sóng dậy, thôi thúc con người biỉt tung xiềng xích, phá tan tù ngục để trở về với cuộc sống phóng khoáng, tự do.
Dường như sức nóng của mùa hè đang rừng rực cháy trong huyết quản người thanh niên yêu nước Tố Hữu. Sức sống mãnh liệt của mùa hè chính là sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ khát khao lí tưởng cách mạng, khát khao hoạt động, cống hiến cho dân, cho nước. Tiếng chim tu hú là tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đối với người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm. Bên ngoài là tự do, phóng khoáng, còn nơi đây là tù túng, bức bối:
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tâm trạng đau khổ, uất ức bật thốt thành lời thơ thống thiết. Cách ngắt nhịp bất thường kết hợp với các từ ngữ có khả năng đặc tả và những từ cảm thán như truyền đến độc giả cái cảm giác uất hận cao độ và niềm khao khát cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cảnh tù ngục, trở về với cuộc sống tự do bên ngoài của người thanh niên yêu nước đang bị giam cầm trong lao tù đế quốc.
Câu thơ chứa đựng nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt khôn nguôi cả về thể xác lẫn tâm hồn của nhà thơ trẻ. Trong hoàn cảnh ấy, thời khắc ấy, người cộng sản phải tự đấu tranh với bản thân để làm chủ mình, vượt lên những đắng cay nghiệt ngã của lao tù đế quốc, nuôi dưỡng ý chí, giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh cách mạng.
Đó là một hình thức đấu tranh tích cực mà Bác Hồ rất tâm đắc khi Người rơi vào chốn lao tù của Tưởng Giới Thạch: Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao. Các chiến sĩ cách mạng tiền bối trung kiên cũng đã khẳng định: Giam người khóa cả chân tay lại, Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do. (Xuân Thủy). Tiếng chim tu hú cứ kêu hoài như nhắc nhở tới nghịch cảnh của nhà thơ, giục giã nhà thơ phá tung tù ngục để giành lại tự do.
Bài thơ Khi con tu hú làm theo thể thơ lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm tư nhân vật. Sáu câu đầu nhịp điệu thong thả, từ ngữ trong sáng, hình ảnh tươi vui, tạo nên bức tranh mùa hè tuyệt đẹp. Bốn câu thơ sau nhịp điệu thay đổi hẳn. Câu thơ căng thẳng như chứa đựng một sức mạnh bị dồn nén chỉ chực bật tung ra. Đó là tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi hoạt động chưa được bao lâu đã lâm vào cảnh tù ngục, lúc nào cũng khao khát tự do, muốn thoát khỏi bốn bức tường xà-lim lạnh lẽo để trở về với đồng bào, đồng chí thân yêu.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ được tạo nên từ rung động tột đỉnh của cảm xúc kết hợp với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật vừa chân thực vừa tinh tế. Tiếng chim tu hú chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đã làm dậy lên tất cả cảnh và tình mùa hè trong tâm tưởng nhà thơ. Người tù thấu hiểu được cảnh ngộ trớ trêu của mình trong chốn lao tù ngột ngạt, giữa lúc cuộc sống bên ngoài đang nảy nở, sinh sôi. Phải bứt tung xiềng xích, phá tan những nhà ngục hữu hình và vô hình đang giam hãm cả dân tộc trong vòng nô lệ.
Bài thơ "Khi con tu hú" là tiếng lòng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 4
Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác trong những ngày bị giam tại nhà lao Thừa phủ. Cả bài thơ vang vọng tiếng chim tu hú, đây cũng chính là âm thanh khơi mạch nguồn cảm xúc của người tù cách mạng. Như vậy, ta có thể thấy tiếng chim tu hú có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong tác phẩm.
Ngoại trừ nhan đề bài thơ, thì tiếng chim tu hú hai lần xuất hiện trong bài thơ, mỗi lần xuất hiện, tiếng chim ấy lại khơi lên trong lòng tác giả một suy nghĩ, một cảm xúc riêng. Trước hết, tiếng chim tu hú khởi nguồn, gợi nhắc Tố Hữu về một cuộc sống ngoài kia hết sức đẹp đẽ, ngập tràn sức sống:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Tiếng chim tu hú này trước hết xuất phát từ thực tế, mỗi khi tu hú kêu tức báo hiệu một mùa trái cây đã vào vụ chín đỏ trên từng ngọn cây. Từ thực tế ấy, khi đang bị giam trong cảnh tù ngục, không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, Tố Hữu đã dùng những giác quan, sự cảm nhận của mình để cảm nhận thế giới ngoài kia. Mọi sự vật bên ngoài đang độ viên mãn căng tràn nhất: lúa chiêm đang chín, trái cây dần ngọt; màu sắc rực rỡ: xanh, vàng, nắng đào; không gian rộng rãi thoáng đại: trời xanh càng rộng càng cao.
Thế giới bên ngoài được Tố Hữu tái hiện hết sức sống động, giàu sức sống, mọi vật căng đầy sức sống, tự do, tự tại, khác hẳn với cảnh tù ngục trong này của ông. Bởi vậy, ngay từ những câu thơ này ta đã phần nào thấy được niềm vui thích, hứng thú, nhưng đồng thời cũng khao khát, mong mỏi được sống một cuộc đời tự do như những sự vật ngoài kia.
Trẻ trung, yêu đời, khao khát sống và cống hiến, khiến cho nỗi mong mỏi được vượt thoát khỏi cảnh ngục tù này càng trào dâng mạnh mẽ hơn trong lòng Tố Hữu. Để khi tiếng chim tu hú một lần nữa hữu ý cất lên, khao khát đó bùng cháy dữ dội, biến thành những ước muốn cụ thể, hữu hình:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp, tan phòng hè ôi,
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Mùa hè đến mang đến sức sống, thôi thúc, giục giã người tù cách mạng đập tan phòng, chân muốn đạp đổ mọi xiềng xích để đến với thế giới tự do bên ngoài. Một tinh thần khỏe khoắn như vậy làm sao có thể cam chịu cuộc sống tù đày chật chội và ngột ngạt cho được.
Lòng uất hận căm tức dâng trào trong lòng, bật lên thành lời nói: Ngột làm sao/chết uất thôi. Câu thơ ngắt nhịp 3/3, cảm xúc dồn nén bỗng chốc cuộn trào, qua đó thể hiện một ý chí mạnh mẽ kiên cường, kiên quyết không chịu đời nô lệ, phải sống một cuộc đời từ do. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú gọi bầy, mở ra không gian sống đầy ánh sáng, kết thúc bài thơ là tiếng chim tu hú cứ kêu, như lời thúc giục người chiến sĩ hãy nhanh lên đường chiến đấu.
Khi con tu hú sử dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc, với ngôn từ giản dị, giàu cảm xúc đã cho thấy tâm hồn yêu tự do mãnh liệt của tác giả. Bức tranh chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản đầy đẹp đẽ, sáng ngời, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 5
Mỗi tác phẩm văn học đều được các tác giả coi như đứa con yêu quý của mình để bộc lộ những dòng tâm sự thầm kín. Với Tố Hữu cũng vậy, thông qua đứa con tinh thần "Khi con tu hú", nhà thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa hè rạo rực với khát vọng tự do, tình yêu quê hương, đất nước đến mãnh liệt:
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu!"
Bài thơ "Khi con tu hú" được nhà thơ sáng tác trên con đường hoạt động cách mạng và bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ - Huế. Tiếng chim tu hú đã phá tan song sắt, len lỏi vào trong tâm hồn làm thức tỉnh con người:
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần"
Tu hú đến mang theo mùa hè với biết bao hương sắc, Tố Hữu cảm nhận được lúa chiêm đang chín khiến cho hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng như hiện lên trước mắt chúng ta. Tiếng chim tu hú đã làm bừng tỉnh một góc tăm tối trong tâm hồn thi nhân với khao khát được hòa hợp cùng thiên nhiên đến mãnh liệt.
Không chỉ thế, nhà thơ còn ngửi thấy những hương thơm thoang thoảng của hoa quả chín dần tác động vào khứu giác. Có lẽ, nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi đi thật nhanh và muốn níu giữ những hương thơm của đất trời nên đã viết rằng "đang chín" và "ngọt dần" chứ không phải đã chín và đã ngọt.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ có âm thanh của tiếng chim tu hú, màu vàng của lúa chín, hương vị của trái cây ngọt dần mà còn có cả âm thanh của tiếng ve, tiếng sáo diều đang tự do bay lượn trên bầu trời xanh thẳm và màu vàng của những sân ngô pha thêm chút màu hồng của nắng đào:
"Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không..."
Tiếng ve ngân vang trong vòm lá đưa ta trở lại những hồi ức của một thời cắp sách đến trường. Qua trí tưởng tượng của Tố Hữu, người đọc như được tận mắt chứng kiến một bức tranh thiên nhiên vùng quê đầm ấm và tươi vui. Điểm nhìn của nhà thơ được mở rộng ra những sân "bắp rây vàng hạt" hòa quyện cùng những tia nắng chói chang của mùa hạ.
Có lẽ màu hồng của những tia nắng chính là cái nhìn tích cực của nhà thơ về thế giới bên ngoài với một khao khát được tự do trong một ngày gần nhất. Ở dưới mặt đất có những sân ngô vàng hạt thì trên bầu trời xanh thẳm kia có những con diều sáo đang tự do bay lượn.
Bằng ngòi bút tinh tế, nhà thơ đã tạo nên một tuyệt tác của mùa hè đầy sinh động và vui tươi. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong dân gian để phác hoạ thành công bức tranh thiên nhiên ấy. Đặc biệt, phép liệt kê được sử dụng một cách nhuần nhuyễn tạo cho người đọc những ấn tượng khó quên về một mùa hè tràn đầy hương sắc.
Chắc hẳn nhà thơ phải rất yêu thiên nhiên, có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất mình sinh ra nên mới có thể tạo ra bức tranh mùa hè đẹp đến vậy. Bức tranh thiên nhiên về mùa hạ dưới đôi mắt của Tố Hữu không chỉ đẹp mà còn chứa đựng biết bao tâm sự:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu!"
Mạch thơ từ nhung nhớ những âm vang của mùa hạ nay chuyển sang những uất ức vì bị giam cầm. Mùa hè đến đem theo bao mong ước, hoài niệm như muốn thôi thúc người thanh niên ấy phá tan song sắt, "đập tan phòng" để đổi lấy tự do. Nhà thơ nghe ngoài trời "hè dậy bên lòng" mà không khỏi bứt rứt chân tay.
Dòng máu của lòng uất hận đang trào dâng trong cơ thể khiến ông muốn thoát khỏi không gian tù túng chật hẹp ấy để được lao ra ngoài hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn. Ngoại cảnh đã tác động khiến nhà thơ cảm thấy bức bối, ngột ngạt, muốn lao ra thế giới bên ngoài nhưng lại bị những song sắt của nhà tù thực dân kìm hãm đành thốt lên thành lời than: "Ngột làm sao chết mất thôi"
Khao khát tự do của Tố Hữu ngày càng trở nên mãnh liệt bởi ông muốn cống hiến cho cách mạng, muốn tiếp tục con đường cách mạng của mình. Nhà thơ đã sử dụng các động từ mạnh "đạp", "ngột", "chết" và dấu chấm than cuối câu thơ để bộc lộ những dòng cảm xúc phẫn uất đang trực trào. Biết làm sao khi ta đang bị giam cầm mà con chim tu hú ở ngoài trời vẫn cứ kêu.
Phải chăng nhà thơ cảm nhận được đó là tiếng gọi của cách mạng đang giục giã nhà thơ lên đường kháng chiến cứu nước. Tiếng chim tu hú gọi bầy trước không gian to lớn mênh mông đã tạo nên sự đối lập trong tâm hồn nhà thơ khi nhà thơ đang bị giam cầm không thể ra ngoài để hoạt động cách mạng. Nếu tiếng chim tu hú ở phần đầu báo hiệu mùa hè tới với biết bao tươi vui thì tiếng chim tu hú ở cuối bài lại khiến nhà thơ cảm thấy khó chịu và ngột ngạt.
Nhà thơ muốn thoát li khỏi chốn lao tù nhưng hiện thực nghiệt ngã khiến cho tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc, khó chịu hơn. Thế nhưng dù có phải chịu cảnh tù đày nhà thơ vẫn không nản chí sờn lòng, trong bài thơ "Trăng tối" nhà thơ đã viết:
"Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày"
Bởi vậy, dù con đường cách mạng có khó khăn đến đâu thì nhà thơ cũng sẽ đương đầu và hoàn thành tốt các nhiệm vụ. Bài thơ "Khi con tu hú" đã khép lại nhưng tiếng chim tu hú vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn nhà thơ. Qua bức tranh thiên nhiên tràn đầy hương sắc được cảm nhận bằng nhiều giác quan đã giúp Tố Hữu giãi bày được những uất ức trong lòng mình.
Với cách sử dụng ngôn từ giản dị nhưng có tính tạo hình cao đã khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Người nghệ sĩ không chỉ cầm bút để đánh giặc mà còn có thể cầm súng ra chiến trường. Họ có một niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, khát khao được đứng trong hàng ngũ của Đảng để mang sức mình phục vụ cách mạng.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 6
Tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học...
(Bếp lửa - Bằng Việt)
Tu hú phải chăng là nguồn đề tài đầy cảm xúc của nhiều thi nhân miền Bắc? Bài thơ "Khi con tu hú" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trên bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại Lao Thừa Phủ - Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh.
Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt, giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tú hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất càng dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nỗi:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Mở đầu bài thơ, với tựa đề "Khi con tu hú", tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do. Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa.
(Trăng trối)
Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: "Khi con tu hú gọi bầy". Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con chim tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt Giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Một bức tranh được Vẽ trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần, sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đang chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc.
Phải là một con người tha thiết yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế! Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với "đôi con diều sáo lộn nhào từng không". Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng, vài con diều sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm. Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu.
Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động: "muốn đạp tan phòng".
Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bức bối, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên:
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
Bài thơ đã khép lại, đã kết thúc rồi mà như còn giọng rền rĩ thở than của thi nhân! Đó là tâm trạng đau đớn, nói chẳng nên lời của một cánh chim non đang tràn trề sinh lực, càng khát khao bay lên lại càng bị kéo xuống giam hãm trong bốn bức tường!
Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.
Bài thơ khép lại nhưng ta nghe tiếng tu hú "cứ kêu", kêu hoài, kêu mãi... đó là tiếng kêu của khát vọng tự do cho tác giả, tự do cho dân tộc, quê hương!
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 7
Đối với lí tưởng cộng sản, tâm hồn người thanh niên trí thức Nguyễn Kim Thành tràn ngập âm thanh và ánh sáng ông ví hồn mình như một “vườn hoa lá, rộn hương và tiếng chim". Người chiến sĩ cộng sản trẻ ấy đang hoạt động say sưa, hết mình. Những ngày ở nhà lao Thừa Phủ với Tố Hữu là những ngày dài đẵng, khát khao tự do là ước vọng lớn nhất, ông lắng nghe cuộc đời bên ngoài song sắt với tất cả niềm yêu tha thiết.
Tâm sự ấy gửi gắm trong nhiều bài thơ. Một trong số đó là Khi con tu hú. Mùa hè được phác họa bằng thơ có hương thơm ngọt ngào của lúa chiêm đang chín, có vị ngọt của trái cây đầu mùa đang làm mật, có tiếng ve râm ran dưới cái nắng khô như lửa ở miền Trung, có một bầu trời cao rộng mênh mang trong vắt, mà ở đó, những cánh diều lượn bay. . . Lời thơ theo thể lục bát ngọt ngào, cả một mùa hè được cô kết lại bằng sáu dòng:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. . .
Quả là một mùa hè tràn trề nhựa sống, đầy hương vị, rực rỡ sắc màu và rộn rã âm thanh. Họa sĩ - nhà thơ chắc phải là người gắn bó máu thịt với cuộc đời, phải từng sống hết mình với thiên nhiên mới có thể tạo ra những hình ảnh, những chi tiết sống động đến như vậy!
Nhưng, không hẳn chỉ là như vậy. Điều đáng nói ở đây là, thi tứ về hương sắc ngày hè được khơi gợi từ một âm thanh: tiếng con tu hú gọi bầy. Đúng là tất cả dường như sống lại, “dậy bên lòng", từ cái lúc người tù - thi sĩ nghe thấy tiếng chim tu hú tìm bạn. Cái khoảnh khắc ấy chính là khoảnh khắc thần diệu nảy sinh mọi nỗi niềm.
Người tù nhận thức lại một cách đau đớn về cảnh ngộ trớ trêu của mình giữa “bốn tường vôi" tăm tối, ngột ngạt, cô đơn. Ở ngoài kia sự sống đang đơm hoa kết trái, ở ngoài kia là bầu trời tự do, “ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu". . . Bởi vậy, cánh đồng lúa chín ấy và bầu trời cao xanh vời vợi kia, vườn cây đầy tiếng ve ngân nga ấy với tiếng réo rắt của đôi diều sáo kia, . . . thực ra, chỉ là những hồi ức, chỉ còn là những kỉ niệm về những ngày anh ta còn tự do hoạt động cách mạng cùng bạn bè đồng đội trên quê hương mình.
Mùa hè ấy chỉ là trong tâm tưởng. Nó chứa chất một điều gì bức bối đến tột cùng, muốn được “tháo cũi sổ lồng", muốn được đập phá tất cả để tự giải thoát, để được hòa vào thiên nhiên, vào cuộc đời, để được là mình, được sống hết mình cho cách mạng:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi.
Câu thơ chân thành như một lời bộc bạch. Nó thể hiện chân thực trạng thái ngột ngạt, nỗi uất hận vì bị cầm tù, thái độ phản ứng gay gắt với cảnh ngộ. . . của nhà thơ. Vì vậy, nó tạo nên sự đồng cảm, sẻ chia rất tự nhiên trong lòng người đọc.
Nhớ lại khoảng mấy tháng trước đó thôi, tháng 4 năm 1939, người thanh niên học sinh Tố Hữu đang hoạt động sôi nổi trong phong trào cách mạng ở quê hương xứ Huế thì bị giặc Pháp bắt giam. Những ngày đầu trong ngục tù, người cách mạng trẻ tuổi ấy đã giải bày lòng mình qua lời thơ da diết:
Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
(Tâm tư trong tù)
Trong “cảnh thân tù" người cộng sản trẻ tuổi ấy đã tìm được một cách để tiếp tục gắn bó với cuộc sống qua cái “kênh" âm thanh: Tai mở rộng và lắng nghe tiếng đời lăn náo nức. Trở lại với bài thơ này, rõ ràng là nhà thơ không những chỉ nghe được “tiếng đời lăn náo nức" ngoài nhà tù kia mà còn thấy được, cảm nhận được nó bằng mọi giác quan tạo hóa đã ban cho.
Thử hình dung mà xem, ở cái tuổi 19 đang sôi trào nhiệt huyết cách mạng mà bị bắt giam, lần đầu tiên bị cắt đứt với cuộc sống tự do, với bạn bè đồng chí! Quả thật, bởi vì sớm được giác ngộ bản thân, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt mà tự nuôi dưỡng tinh thần tranh đấu. Thiết nghĩ, đây cũng là một cách để tự giải phóng mình khỏi xiềng xích của quân thù, điều mà chính Bác Hồ sau này cũng tâm đắc khi rơi vào cảnh ngộ tương tự:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
(Hồ Chí Minh - Nhật kí trong tù)
Tinh thần ấy, ý chí ấy hàm ẩn trong nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt về thể xác lẫn tâm hồn - khi hè đến với tiếng “con chim tu hú ngoài trời cứ kêu" quả là đáng cảm thông và trân trọng. Câu thơ cuối bài khép lại một góc “tâm tư trong tù" của nhà thơ cộng sản Tố Hữu nhưng chắc là vẫn còn khơi gợi những ý tưởng mới mẻ, sâu xa trong lòng người đọc.
Đọc Khi con tu hú ta hiểu hơn tâm hồn, tình cảm và khát vọng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Thêm yêu mến và trân trọng những con người giàu lí tưởng đã sống trọn vẹn cho đất nước thân yêu.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 8
Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không. ”
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông lúa chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân…
Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:
“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn
(…)
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!”
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.
Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do.
Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.
Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.
“Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 9
Tố Hữu là lá cờ đầu của thi ca cách mạng Việt Nam. Con đường thơ của ông luôn bắt nhịp đồng hành cùng với con đường cách mạng. Với phong cách trữ tình – chính trị, kết hợp với giọng điệu ngọt ngào, thiết tha, đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu đã để lại cho đời rất nhiều tiếng tiếng thơ hay.
Bài thơ "Khi con tu hú" được sáng tác vào tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), in trong tập thơ "Từ ấy", là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình yêu cuộc sống thiết tha và niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cộng sản khi phải chịu cảnh tù đày khắc nghiệt. Trước hết sáu câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên mùa hạ thanh bình, rực rỡ nơi đồng quê:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không. . .
Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, hết sức tự nhiên, sống động, linh hoạt, nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên mùa hạ đẹp như một bức tranh lụa. Âm thanh của tiếng chim tu hú gọi bầy cứ réo rắc, ngân nga vang vọng như đánh thức cả thiên nhiên, dìu hồn người lạc vào thế giới của hoài niệm xa xăm về một mùa hạ sáng tươi, rộn rã, ngập tràn sức sống. Cảnh vật hiện lên thật lung linh với sự hòa trộn một cách hài hòa của âm thanh, màu sắc, hương vị.
Đó là âm thanh rộn ràng của tiếng chim tu hú, của tiếng ve gọi hè, của tiếng sáo diều vi vu trên tầng không; đó là màu sắc rực rỡ của màu lúa chín, của bắp rây vàng hạt; của ánh nắng đào dịu nhẹ; đó là hương vị ngọt ngào của trái cây; là bầu trời rộng lớn, tự do của trời cao, diều sáo. . . Tất cả như đang tấu lên khúc nhạc mùa hè với rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, chan hòa ánh sáng, ngọt ngào hương vị.
Chắc chắn Tố Hữu phải là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và có trí tưởng tượng phong phú thì mới có thể dựng lên một bức tranh thiên nhiên mùa hạ đẹp, sinh động và giàu cảm xúc khi đang ở trong cảnh tù đày như vậy. Và qua đó chúng ta cũng thấy được tâm hồn trẻ trung, yêu đời và niềm khát khao tự do mạnh mẽ của thi nhân. Bốn câu thơ cuối là cảm xúc và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Cách ngắt nhịp linh hoạt: 2/2/2; 6/2; 3/3; 4/4 kết hợp với các động từ tình thái mạnh như: "đập tan phòng", "chết uất thôi"; cùng với những từ cảm thán như "ôi, làm sao, thôi" đã có tác dụng diễn tả tâm trạng uất ức đến tột cùng muốn phá tan cả ngục tù tăm tối. Điều đó cho thấy niềm khát khao tự do luôn thường trực, mạnh mẽ cháy bỏng trong lòng người chiến sĩ trẻ.
Âm thanh tú hú cứ kêu hoài không nghỉ như giục giã, thôi thúc người tù hành động, vẫy gọi người tù trở về cuộc sống tự do, yên ả, thanh bình. Cho nên, nếu tiếng chim tu hú mở đầu bài thơ là tiếng gọi vào hè náo nức, rộn ràng thì tiếng chim tu hú ở câu thơ kết lại là tiếng gọi của khát vọng tự do da diết, cháy bỏng.
Bài thơ được viết theo thể lục bát đậm đà tính dân tộc, kết hợp với một giọng điệu thơ linh hoạt, ngôn ngữ thơ tự nhiên, gần gũi. . . tất cả đã góp phần tạo nên cảm xúc nhất quán của bài thơ: tình yêu thiên nhiên, tâm trạng ngột ngạt khi phải sống trong cảnh tù đày và khát vọng trở về với cuộc sống tự do.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 10
Tố Hữu là nhà thơ có nhiều những tác phẩm hay viết về nhiều chủ đề khác nhau trong thời kì cách mạng. Do đó, tên tuổi của ông trở thành một trong những nhà thơ có nhiều thành công nhất. “ Khi con tu hú” được sáng tác trong thời gian nhà thơ bị bắt giam khi đang hoạt động. Bài thơ đã thể hiện được khao khát cháy bỏng của người chiến sĩ muốn hướng tới cuộc sống tự do ở bên ngoài.
Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc tại những vùng làng quê ở Việt Nam. Khi tu hú kêu cũng chính là lúc mùa hè về. Và trong hoàn cảnh như vậy thì người chiến sĩ cách mạng cảm thấy bị bó buộc hơn bao giờ hết.
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh mà người thanh niên đang tưởng tượng ở trong tâm trí của mình khi được nghe tiếng những chú chim tu hú kêu. Anh tưởng tượng ra rất nhiều thứ, đó đều là những hình ảnh đẹp gắn liền với kí ức khi còn có được tự do. Cả không gian như tràn đầy nhựa sống, biết bao nhiêu hình ảnh với đầy những màu sắc hiện lên như màu vàng của vựa lúa chiêm, những hạt thóc, ánh nắng đào cùng những âm thanh như tiếng sáo diều, tiếng ve ngân.
Đó là sự kết hợp cảm nhận cả về hình ảnh và âm thanh của nhà thơ. Phải có một tình yêu thiên nhiên, trí tưởng tượng phong phú lắm thì anh mới có thể cảm nhận được những điều như vậy. Tất cả những giác quan đều được cảm nhận qua đường nét, màu sắc, âm thanh của quê hương.
Những hình ảnh đều là của mọi vật khi đang viên mãn và có nhiều thành quả nhất: là khi những hạt lúa được kết tinh, là thành quả của biết bao mồ hôi và nước mắt. Với tâm hồn tinh tế cùng con mắt độc đáo, ánh nắng cũng có sự thay đổi bởi nhiều góc độ, bên cạnh cả bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình, giúp cho tầm nhìn của con người càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết. “ Trời xanh càng rộng càng cao”.
Cả không gian như được mở rộng ra tới vô tận. Dù cho người thanh niên lúc ấy đang ở trong tù, phía sau song sắt nhưng vẫn cảm nhận được hình ảnh ở bên ngoài bằng chính trái tim và sức sống của mình. Tất cả mọi thứ đều đang tươi vui, ngay cả sáo diều cũng không hề lẻ loi mà luôn có đôi có cặp, được tự do bay lượn, cảm nhận được vùng trời của chính mình.
Thế nhưng, con người- người thanh niên bây giờ lại không được như vậy. Anh khao khát, mong muốn có được tự do như cặp chim ấy nhưng cũng không thể có được. Anh chỉ có thể nhìn tự do, gửi gắm tâm hồn khao khát của mình tới những cảnh vật bên ngoài. Đến đây, nhịp thơ lục bát bỗng dưng như chia đôi.
Nhà thơ đã vẽ lên hai bức tranh đối nghịch nhau. Bên ngoài là những tự do, hạnh phúc với một cuộc sống tràn ngập ánh nắng, còn bên trong nhà tù, phía sau song sắt lại là một cuộc sống tối tăm, gò bó. Trong chính hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ trào lên những khao khát cháy bỏng hơn bao giờ hết.
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp tình cảm của tác giả. Cảm xúc dồn nén tới mức bị bức bối, với hàng loạt những câu cảm thán “ôi”, "mất thôi” khiến cho người chiến sĩ càng muốn đi ra ngoài để có được tự do thực hiện những lí tưởng của mình. Khổ thơ chính là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, muốn đạp bỏ tất cả những cảnh giam cầm để có được tự do của mình. Có lẽ bởi vậy, mà bên ngoài đời thực, sau ba năm, Tố Hữu đã vượt ngục để quay về đội ngũ, làm tròn ước nguyện cống hiến với cuộc đời.
Bài thơ là sự kết hợp hoàn chỉnh giữa cảnh và tình. Những hình ảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả hết sức sinh động, qua đó thể hiện được ý chí kiên cường của người chiến sĩ.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 11
Tự do, vốn là khao khát của con người, từ xưa đến nay vốn thế. Nó tha thiết và thiêng liêng. Tuy nhiên, quan niệm về tự do thì mỗi thời một khác. Cái khác ấy ớ bài thơ Khi con tu hú là khao khát của một thế hệ mới – thế hệ những chàng trai vừa bước chân vào con đường tranh đấu để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, của một thời đại mới – thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười năm 1917 ("Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi" – Hi vọng).
Tiếng gọi ấy lại vang vọng vào thơ, thơ của một thời Thơ mới (1932 – 1945) lại là cái khác thứ hai, lần này là về nghệ thuật. "Khi con tu hú" là điểm gặp gỡ giữa hai yếu tố nội dung và hình thức nói trên. Nó là đại diện cho nền thơ ca cách mạng những năm ba mươi của thế kỉ trước.
Vậy nên hiểu bài thơ như thế nào? Trả lời câu hỏi: nếu viết một câu văn xuôi mở đầu bằng cụm từ "Khi con tu hú" để tóm tắt nội dung bài thơ, có thể có hai cách viết: – Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng một cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài.
Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ. – Khi chim tu hú gọi bầy, người tù cách mạng – chủ thể trữ tình, với một tâm hồn trẻ trung vốn gắn bó với phong trào, với đồng chí, bè bạn giữa cuộc đời đấu tranh cao rộng nay bị giam cầm cháy lên một nỗi nhớ không nguôi.
Nỗi nhớ ấy hướng về tự do. Nó trở thành một niềm khao khát. Giữa hai cách diễn đạt này, nên chăng chọn cách thứ hai? Bởi nó trình bày đúng hơn, khách quan hơn mạch cảm xúc, nền cảm xúc của bài thơ, nghĩa là cơ sở tinh thần của những khao khát tự do ấy. Trên định hướng đúng này, ta đi vào phân tích bài thơ. Bài thơ có mười câu, đã dành sáu câu cho đoạn thứ nhất:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đây là cảnh mùa hè tiêu biểu ở các làng quê. Nhưng bức tranh hiện thực ấy được mở ra bằng hai lớp: lắng nghe và hồi tưởng, hiện tại và quá khứ, cái đang tới và cái đã qua. Cái hôm nay – cái bây giờ mà nhà thơ đã nghe là tiếng chim tu hú, một sự lắng nghe bất chợt sau một thời gian bị xiềng xích trong tù ("Khi con tu hú gọi bầy"). Cái cảm giác đột nhiên ấy – sở dĩ là đột nhiên, vì nó xuất hiện trong một khối cánh không gian đặc biệt: hiếm khi có âm thanh cuộc sống vọng vào.
Cảm giác này phải chăng giống với tâm trạng của tác giả Nhật kí trong tù khi nghe tiếng sáo ("Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu"). Nó lạ lẫm và khơi gợi vô cùng. Tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến. Nhưng nó đến như thế nào thì tác giả không nhìn thấy. Vốn sống, sự gắn bó với mọi làng quê đã được huy động để thay vào.
Lấp đầy cái khoảng trống bị vây bọc bởi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo là sự tưởng tượng của nhà thơ mà người đọc không cảm thấy có một chút gì khiên cưỡng, gò ép. Mạch thơ vẫn hết sức tự nhiên như không có một sự lắp ghép cố tình nào. Hãy đọc lại:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.
Hai câu thơ, và rồi bốn câu tiếp như một tác động dây chuyền: cứ tiếng chim xuất hiện là mùa màng, cây trái đến theo. Sự hô – ứng ấy bao đời vẫn thế bởi đó là quy luật của tự nhiên. Tiếng chim gọi bầy mà cũng là tiếng chim gọi mùa chính là vì thế. Nó lập tức xôn xao. Nó va đụng vào lòng người nao nức lắm.
Cần chú ý hai trạng thái chín của lúa và ngọt của cây: đang chín, ngọt dần. Nếu thay vào đã chín, ngọt rồi, câu thơ sẽ khác, sẽ ở vào thế tĩnh, đông cứng lại ngay. Còn ở đây tả chim mà như nó đang bay, tả hoa mà như nó chớm nở, nó mỉm cười thì ấy là cái động của thơ, của họa.
Cái động ấy ở đây là do tài của nhà thơ, nhưng cũng là do tình của nhà thơ thân mến nó. Nghe một tiếng chim kêu mà thấy mạch sống của cây, của lúa sinh sôi, đang rạo rực thân cành thì chỉ có thể ở những con người yêu thương cuộc đời, yêu thương sự sống đến mức thắt lòng. Từ đó mà tưởng tượng nảy sinh. Ấy là chưa nói đến ưu thế uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu khả năng diễn đạt tâm tình của thơ lục bát.
Thơ lục bát vừa có hình thức cố định lại vô cùng biến hoá. Chẳng hạn trong bốn câu thơ đầu, nếu lấy tiêu chí giác quan mà nhìn vào kết cấu thì ta thấy mỗi cặp câu 6/8 có đủ cả thính giác và thị giác, từng đôi một, tạo cảm giác âm thanh giục giã mùa màng bước vào ngày hội:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Nếu bốn câu thơ đầu là bốn câu thơ đẹp, nó nói được cái ríu rít của mùa hè, của cây trái xum xuê thì hai câu sau tưởng như không ăn nhập gì với không khí ấy bởi nó nói đến những con diều sáo, một sắc trời xanh. Nguyễn Trãi xưa vì mừng thấy dân khắp nơi "giàu đủ" mà nghĩ đến cây đàn của vua Thuấn. Cây đàn với bát cơm, tấm áo trên một phương diện nào đó là khá xa nhau, nhưng thực thì chúng lại rất gần nhau, ở cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Vậy thì hai câu "Trời xanh càng rộng càng cao – Đôi con diều sáo lộn nhào từng không" phải chăng là những âm thanh vút cao lên từ một giai điệu bè trầm là bốn câu trước đó. Để cắt nghĩa vì sao bức tranh nông thôn hiện ra trong thơ rất thực và rất đẹp, ta nghĩ đến hai điều: bản thân cảnh nông thôn, nhất là vào dịp mùa màng là rất đẹp, nó gợi cái ấm, cái no của người cày cuốc một nắng hai sương.
Song điều thứ hai, trong trường hợp bài thơ này, mới là quan trọng: nhà thơ chiến sĩ bị giam cầm vì yêu nó, đang mơ thấy nó, thấy nó như đang ở tầm tay. Yêu nó, không được gần mà nhớ đã dành (đã bao lần ở trong tù, người thanh niên ấy đã nhớ người, nhớ đồng?), cái chính là: bức tranh ấy là bức tranh tự do, thứ tự do vừa lớn lao vừa bình dị như một chân lí đơn sơ.
Để vừa miêu tả (ngoại cảnh) vừa diễn tả (tâm cảnh, tâm trạng), với một độ hấp dẫn đến xúc động lòng người, Tố Hữu đã huy động cả thành tựu của thơ dân gian (thể lục bát của ca dao), cả thành tựu của thơ mới. Riêng về ảnh hưởng của thơ mới, thành công của Tố Hữu ở đây trước hết là biết phát huy mạnh mẽ "cái tôi" nội cảm, "cái tôi" của cảm xúc dồi dào, của sức tưởng tượng phong phú.
Sáu câu đầu giống như một bản nhạc say sưa, nó vừa thể hiện bằng ngôn từ, vừa thể hiện từ một đời sống bên trong của nó. Ngay câu thơ đầu thôi, cái nguyên cớ, cái nguồn cơn để từ đó cảm xúc trào dâng giống như một giây phút "chạnh lòng" (tên một bài thơ của Thế Lữ).
Một âm thanh nhỏ của cuộc đời mấy ai để ý mà với Tố Hữu, tiếng "gọi bầy" ấy có sức gợi rất lớn, sức gợi tức thời. Sự nhạy cảm ở đây là của thơ nói chung, trước hết là của thơ mới. Đọc Khi con tu hú, ta có cảm giác nó vừa là ca dao, vừa không phải là ca dao chính bởi sự kết hợp của hai thành tựu vừa nêu. Bài thơ có thể chia làm hai đoạn. Đoạn một gần như tả cảnh (nói gần như vì đó là một bức tranh gián tiếp) còn đoạn hai bộc lộ tâm tình, ít ra là trên những dấu hiệu hình thức của lời thơ:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Trong phần phân tích đoạn một, chúng ta có nêu một hiện tượng: quy luật dây chuyền, cảnh này gọi cảnh khác. Trên cấp độ lớn hơn, xét cả kết cấu bài thơ thì đoạn hai chính là do tác động dây chuyền của đoạn một. Dấu hiệu của tác động dây chuyển này là từ hè ("Ta nghe hè dậy bên lòng"). Không có cái mùa hè tốt tươi, bay lượn ấy thì có lẽ cái phòng giam vẫn cứ chỉ là phòng giam, một thứ phòng giam không tạo ra phản cảm.
Bởi biết đâu người chiến sĩ sẽ phải chung sống với nó suốt đời? Ta mới hiểu tác động dây chuyền, sự đánh thức một tiềm năng cảm nghĩ ở nhà thơ mạnh mẽ đến chừng nào. Đạp tan phòng là mạnh mẽ, còn hè ôi như một tiếng kêu thương cảm xót xa. Cấu trúc của câu tám này về tiết tấu cũng khá đặc biệt.
Thông thường nó được phổ vào hai vế tương đương 4/4. Còn ở dãy là 6/2. Nhịp 6 ấy cứ như một uất hận xung thiên, còn nhịp 2, sau khi sức mạnh tưởng chừng lớn lao không gì ngăn cản được đụng phải bức tường hiện hữu khô khan và lạnh lẽo, nó trở nên một tiếng kêu thương, một tiếng thở dài cay đắng. Ấy là cuộc đụng đầu giữa ý chí chủ quan và hoàn cảnh khách quan của người thua cuộc.
Nhưng thua cuộc chỉ là nhất thời, tạm thời. Cuộc vật lộn trong tâm trí của nhà thơ vẫn còn tiếp diễn. Không những dai dẳng, cường độ của nó không giảm đi mà còn tăng lên. Biết làm thế nào chiến thắng được hoàn cảnh, chiến thắng được bản thân khi lực lượng giao tranh không hề ngang sức. Nhịp thơ 3/3 ở câu "Ngột làm sao, chết uất thôi" diễn tả sự giằng co. Nhưng nó lại nghiêng về phía chủ thể người tù.
Chính vì vậy ý thơ đã được nâng cấp nhưng vẫn bế tắc. Thế là, tiếng gọi của tự do thì vẫn tự do lên tiếng một cách vô tư, còn con người khao khát nó vần bị mất tự do, vẫn đang bị cầm tù. Cặp thơ lục bát song đôi cuối cùng mới như một niềm khắc khoải, bởi xung đột tinh thần ở nhà thơ đã đạt đến mức cao trào. Một cái gì đó sẽ phải xảy ra nhằm giải thoát một hoàn cảnh không thể dung hòa giữa nhà thơ với cảnh đời tù ngục.
Tiếng chim tu hú, tiếng gọi của tự do ấm áp làm sao, mà cũng nóng bỏng làm sao. Nó đang cháy lên một nỗi niềm khao khát. Từ tiếng gọi mùa đến tiếng kêu thúc giục con người hành động, bài thơ vận hành theo hướng đi từ bóng tối tù ngục đến ánh sáng của tự do.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 12
Tố Hữu được coi là lá cờ đầu trong nền thơ ca Cách mạng và kháng chiến. Thơ của ông thường hướng đến lý tưởng Cách mạng với những niềm tin yêu tuyệt đối vào Đảng và Bác Hồ. Điển hình trong số các tác phẩm của ông như tập thơ Từ ấy (1937 – 1946), Ra trận (1962 – 1971), … Trong đó, tác phẩm Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác năm 1939 khi đang bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ. Bài thơ là khung cảnh thiên nhiên vào hè thật rực rỡ hòa cùng với khát khao tự do đến cháy bỏng, cực độ của người tù Cách mạng trẻ tuổi.
Bài thơ được sáng tác khi Tố Hữu đang trong ngục tù, không thấy được tự do, không có chút ánh sáng. Thế nhưng, bừng lên trong lòng ông vẫn là tình yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng cháy bỏng được thoát khỏi nơi chốn địa ngục này. Với nhan đề "Khi con tu hú", Tố Hữu muốn nhấn mạnh rằng tiếng chim ấy là thứ đã khiến ông thức tỉnh, đánh thức trong ông một tình yêu với cuộc sống, một khát vọng tự do mãnh liệt.
Chẳng vậy mà mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vào hè thật tươi đẹp, đầy sống động và thấy được những âm thanh sôi động ngày hè mà đặc biệt là tiếng chim tu hú đang cất lên từng hồi để "gọi bầy":
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …"
Giờ đây, giữa chốn lao tù, người thanh niên Cách mạng đang lắng tai nghe tiếng những con chim tu hú đang cất lên những âm thanh gọi nhau, gọi mùa hè đến. Tiếng gọi ấy như đánh thức trong tâm hồn người thanh niên niềm khao khát tha thiết đang sum họp với đồng đội, bạn bè. Và nó cũng đánh thức luôn nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo khi ông đang muốn đem tất cả nhiệt huyết cả thanh xuân mà cống hiến cho Cách mạng.
Tiếng chim tu hú đã đánh thức Tố Hữu, và ông bất chợt thấy mọi âm thanh của sự sống ngày hè đang ngay gần bên khung cửa. Ông thấy được tiếng ve đang ngân nga trong những vườn cây, thấy tiếng sáo diều đang vi vu trên bầu trời cao xanh ngoài khung cửa sổ nhà lao. Tất cả những âm thanh ấy sao mà sống động, tươi vui đến thế! Nó là một bản nhạc được hòa tấu bằng nhiều thứ âm thanh sặc sỡ, sống động mà rộn ràng, đầy sức sống, thúc giục con người ta tận hưởng.
Và không chỉ vậy, tiếng chim tu hú kia còn đánh thức hết thảy mọi giác quan của Tố Hữu. Ông như đang nhìn thấy những màu sắc thật tươi tắn, rực rỡ của ngày hè. Nào là những cánh đồng lúa chín vàng óng đang đến ngày thu hoạch, những hạt bắp vàng đang óng ánh giữa sân "nắng đào" hồng tươi, nào là bầu trời xanh thẳm, biêng biếc xanh… Tất cả những màu sắc ấy thật tươi đẹp, thật giàu sức sống, vẫy gọi người tù Cách mạng đến mà tận hưởng. Và màu xanh của bầu trời kia hay chăng còn là màu xanh của tự do nhà thơ đang mơ ước, là bầu trời của hòa bình tươi đẹp trong con mắt của người Cách mạng?
Tố Hữu nghe tiếng chim tu hú mà như thấy được những khung cảnh thật đậm sắc thái đặc trưng của ngày hè. Đó là hình ảnh cánh đồng lúa chiêm bát ngát đang chín rực, là vườn trái cây trĩu nặng quả ngọt đang "ngọt dần". Tất thảy mọi sự vật đang dần tiến đến độ "chín", độ hoàn mĩ của mình. Phải tinh tế lắm thì Tố Hữu mới nhận ra được sự vận động êm đềm của thời gian đang chuyển dần sang hạ từ tốn đến như thế! Phải, đâu phải ai cũng đủ nhạy bén mà cảm nhận được hương thơm của vườn cây trái từ trong lao ngục, đâu phải ai cũng nghe được âm thanh của mùa hè náo nức đến thế qua bức tường đá cầm tù lạnh lẽo? Phải là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có thể có những cảm nhận thực sự đặc sắc đến như vậy được chứ?
Tưởng chừng như những người tù, không gian bốn bề của bao quanh bởi bức tường đá lạnh lẽo, nhưng với Tố Hữu thì không. Bởi ông cảm nhận được cả một không gian đang rộng mở ngay trước mặt, rộng rãi, khoáng đạt biết mấy, mênh mông, rộng lớn biết chừng nào:
"Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …"
Hình ảnh "đôi con diều sáo" như một nét chấm phá nhỏ nhoi giữa bầu "trời xanh" đang rộng mở. Thế nhưng, có lẽ Tố Hữu cũng chỉ mong được làm cánh diều sáo nhỏ nhoi ấy để được tự do, thỏa thuê tung bay giữa bầu trời xanh, giữa những bè bạn, đồng chí thân yêu của mình?
Một bức tranh ngày hè thật quá đỗi sống động, với đầy đủ âm thanh, màu sắc, với không gian và hình ảnh thật rực rỡ. Với phép liệt kê được sử dụng hết sức nhuần nhuyễn, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh ngày hè thanh bình, đẹp tươi và giàu sức sống chỉ bằng trí tưởng tượng của mình. Chắc hẳn Tố Hữu phải yêu quê hương mình tha thiết lắm mới có thể tinh tế mà hình dung ra và nắm bắt được hết âm sắc của ngày hè dung dị qua từng ấy câu thơ.
Tố Hữu là một trong những người giác ngộ Cách mạng sớm nhất. Ông hiểu, tin yêu con đường Cách mạng của Bác Hồ. Ông hiểu làm Cách mạng là phải gắn với tù đày, như ông đã nói trong một bài thơ của mình rằng:
"Đời cách mạng từ đây tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày".
Ông hiểu là thế nên cũng như muôn vàn người đồng đội khác, khi phải đứng trong nhà lao, giữa bốn bức tường cô quạnh, ông chỉ muốn thật mau được thoát ra khỏi, để lại được sum vầy cùng đồng đội, sát cánh chiến đấu với kẻ thù. Bốn câu thơ cuối trong bài thơ Khi con tu hú là tâm trạng, là cảm xúc của Tố Hữu, là khát khao muốn được tự do của người tù Cách mạng:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu"
Đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta mới nhận ra rằng bức tranh phong cảnh bên trên, tất cả chỉ được "vẽ" lên qua tâm tưởng của nhà thơ. Mùa hè bên ngoài đang tươi đẹp là thế, mà người tù Cách mạng lại phải ngồi đây, biệt giam trong nhà lao Thừa Phủ. Và thế là niềm khao khát tự do bừng dậy thật mạnh mẽ trong lòng Tố Hữu. Nhịp sống ấy cứ dâng trào, sôi sục trong lòng khiến ông không thể kìm nén mà thốt lên:
"Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi"
Khao khát tự do đã len lỏi vào từng tế bào trong cơ thể người thanh niên trẻ, biến nỗi khao khát ấy trở thành hành động cụ thể muốn "đạp tan phòng" giam để được đến với tự do. Nhà thơ muốn được chạy ra ngoài kia, đến với tự do, đến với thế giới rộng mở, to lớn, thoát khỏi cái nhà lao chật hẹp, tăm tối này.
Sự bức bối ấy khó chịu đến mức chỉ vài câu thơ, Tố Hữu đã liên tục sử dụng một loạt những động từ mạnh để diễn tả sự ngột ngạt, bực mình đến cực điểm của mình trong chốn lao tù của mình: nào là "đạp tan", nào là "chết uất". Toàn những từ ngữ thật mạnh bạo, có lẽ khao khát tự do đã quá cháy bỏng, cái không khí ngột ngạt, bức bối đã khiến cho nhà thơ trở nên thật nhạy cảm, chỉ muốn đạp tan hết mọi thứ để được bước đến với tự do ngoài kia. Kèm với những động từ mạnh là những từ ngữ cảm thán được sử dụng liên tục: "ôi, thôi, sao, làm sao" khiến cho chúng ta càng cảm nhận rõ hơn sự ngột ngạt tới bức bách của người thanh niên Cách mạng.
Cũng ở trong cùng những dòng thơ này, Tố Hữu cũng sử dụng cách ngắt nhịp thơ nhanh 6/2 hoặc 3/3 mà chúng ta ít thấy để diễn tả cho chúng ta thấy sự ngột ngạt tới cao điểm mà nhà thơ đang phải chịu đựng đồng thời bộc lộ khát khao tự do đến cháy bỏng của mình, muốn được thoát khỏi lao tù, trở về với thế giới tự do ngoài kia.
Như chúng ta có thể nhận thấy, bài thơ được mở đầu bằng tiếng chim tu hú và kết lại cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Đây là âm thanh gợi lên tất cả, xuyên suốt toàn bài thơ, khắc khoải mà da diết. Ở đầu bài thơ, tiếng chim là tiếng kêu của tự do, của đất trời bao la ngày hè đầy sức sống đang vẫy gọi thì ở câu kết bài, tiếng chim ấy lại là tiếng kêu khiến cho người tù cảm thấy đau khổ, khắc khoải và bực bội nhất. Bởi ông đang bị giam cầm trong thế giới mất tự do và tiếng chim kia lại tha thiết mời gọi đến với tự do, càng khiến ông thêm dằn vặt, bực bội hơn bao giờ hết.
Có thể nói, tiếng chim tu hú chính là tiếng gọi của tự do, cho sự sống. Nó khiến cho người tù Cách mạng phải bồn chồn, xao xuyến, mong mỏi được thoát ra khỏi không gian ngột ngạt chốn lao tù để hòa mình vào thế giới của tự do. Sâu trong từng câu chữ hòa với tiếng chim tu hú là khát vọng được tự do trong một đất nước hòa bình độc lập.
Về mặt nghệ thuật trong bài thơ, Tố Hữu đang thành công khi sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc – thể thơ lục bát, vừa uyển chuyển lại dễ hiểu dễ nghe. Nhịp thơ được ông biến chuyển linh hoạt, được ngắt nhịp đều đặn xúc cảm và tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ ông sử dụng cũng giản dị, dễ hiểu, hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, lời thơ da diết thể hiện niềm khát vọng cháy bỏng của nhà thơ.
Bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã dựng lên bức tranh ngày hè thật đẹp đẽ với đầy đủ âm thanh và sắc màu. Tất cả đều toát lên một sức sống cực kì mãnh liệt. Tình cảm trong bài thơ được nhà thơ thể hiện sâu sắc và da diết qua thể thơ lục bát mộc mạc. Bài thơ là tình yêu cuộc sống tha thiết, sâu nặng của nhà thơ và niềm khao khát tự do tới cháy bỏng của người tù Cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 13
Khi nhắc tới Tố Hữu người ta nhớ đến ông là một cây đại thụ của văn chương cách mạng đặc biệt là ở loại thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng phản ánh các chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ. tiêu biểu là một số các bài thơ Từ ấy (1937-1946); Việt Bắc (1946-1954) và một số bài thơ khác. Bài thơ Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác tại nhà lao Thừa Phủ vào mùa hè năm 1939 sau khi bị thực dân pháp bắt giam vì tội yêu nước và làm cách mạng. bài thơ thể hiện tâm trạng xốn xang bức bối của người thanh niên cộng sản khi đang bị cầm tù khi nghe tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã muốn phá tung xiềng xích để trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương.
Trong bóng tối mịt mù của chốn lao tù dường như sự sống đã chấm dứt hẳn bởi lạnh giá bởi cô độc. Vậy mà giữa những âm thanh khô khốc chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời. Tố Hữu bằng cảm xúc của mình đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “khi con tu hú”
Khi tiếng chim tu hú gọi bầy gợi cho nhà thơ nghĩ đến khung trời lồng lộng ở bên ngoài và càng cảm thấy ngột ngạt khi ở trong xà lim chật chội khiến ông lại càng khao khát được tự do.
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Tu hú chính là báo hiệu của mùa hè đến, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở, tiếng chim đã tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Khi ở trong xà lim chật chội tối tăm cách biệt với thế giới bên ngoài nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã lắng nghe mọi âm thanh của cuộc đời bằng chính tâm hồn và trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi cho nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè của quê hương.
Như ta cũng đã biết mùa hè là mùa thu hoạch, là mùa của lúa chiêm đang rộ chín, trái cây dường như cũng ngọt dần dưới cái nắng của miền trung. Những âm thanh rạo rực và những hình ảnh tươi đẹp tràn đầy sức sống của mùa hè liên tục hiện lên trong kí ức của nhà thơ.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Rồi là tiếng ve kêu tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt những năm tháng học trò, làm sao có thể quên được, tiếng ve kêu gợi nhớ về những năm tháng ấy. Màu vàng của bắp màu hồng của nắng màu xanh của trời tạo nên những mảng sắc màu lung linh rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây mùi hương lúa, hương thơm của trái chín đầu mùa. Xa xa là tiếng chim hót líu lo tiếng ve ngân nga trên cành lá…phải gắn bó yêu mến quê hương lắm mới hình dung ra được một bức tranh quê xứ Huế sống động đến như vậy. đó là mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình bè bạn và đồng chí thân thương.
Sáu câu thơ lục bát nhẹ nhàng mà uyển chuyển như mở ra cả một thế giới rộn ràng tràn trề nhựa sống. Cùng với rất nhiều âm thanh hình ảnh tiêu biểu của mùa hè được đưa vào bài thơ. Tiếng chim tu hú khởi đầu cho một mùa hè rộn rã âm thanh rực rỡ màu sắc, ngọt ngào hương vị trong cảm nhận của người tù. Đoạn thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế và khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ trung, yêu đời nhưng đang bị quân thù tước mất tự do.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 14
Từ ấy là tập thơ đầu tay của nhà thơ Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1937 đến năm 1946. Phần lớn các bài thơ được đăng trên báo chí công khai và bí mật từ năm 1938, được tập hợp lại và xuất bản lần đầu năm 1946. Trong tập thơ có bài Khi con tu hú, được sáng tác vào năm 1939, khi ấy nhà thơ bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ – Huế. Bị giam cầm trong bốn bức tường vôi lạnh, tâm trạng người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi cảm thấy ngột ngạt, lòng lúc nào cũng hướng về bầu trời tự do bên ngoài. Nỗi ngột ngạt, u uất bị dồn nén đã biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng khi ngoài song sắt nhà tù, nơi không gian tự do thoáng đãng bỗng vang lên tiếng chim tu hú gọi bầy.
Nhan đề Khi con tu hú của bài thơ không chỉ nói đến thời gian mà còn ẩn ý là một thời điểm bừng lên của thiên nhiên tạo vật bên cạnh đó chỉ khát khao hoạt động cách mạng của con người. Tiếng chim tu hú có tác động mạnh mẽ đến nhà thơ bởi lẽ nó báo hiệu một mùa hè đến và là biểu tượng cho sự bay nhảy được tự do, do đó có ảnh hưởng lớn đến nhà thơ khi đang bị giam cầm.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vào hè thật tươi đẹp, đầy sống động và thấy được những âm thanh sôi động ngày hè mà đặc biệt là tiếng chim tu hú đang cất lên từng hồi để gọi bầy:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Tiếng chim tu hú chính là dấu hiệu của mùa hè đến, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở, tiếng chim đã tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Khi ở trong xà lim chật chội tối tăm tách biệt với thế giới bên ngoài nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã lắng nghe mọi âm thanh của cuộc đời bằng chính tâm hồn và trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi cho nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè của quê hương.
Như ta cũng đã biết mùa hè là mùa thu hoạch, là mùa của lúa chiêm đang rộ chín, trái cây dường như cũng ngọt dần dưới cái nắng của miền trung. Những âm thanh rạo rực và những hình ảnh tươi đẹp tràn đầy sức sống của mùa hè liên tục hiện lên trong kí ức của nhà thơ.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Rồi là tiếng ve kêu tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt những năm tháng học trò, làm sao có thể quên được, tiếng ve kêu gợi nhớ về những năm tháng ấy. Màu vàng của bắp màu hồng của nắng màu xanh của trời tạo nên những mảng sắc màu lung linh rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây mùi hương lúa, hương thơm của trái chín đầu mùa. Xa xa là tiếng chim hót líu lo tiếng ve ngân nga trên cành lá…. đó là mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình bè bạn và đồng chí thân thương. Phải gắn bó yêu mến quê hương lắm mới hình dung ra được một bức tranh quê xứ Huế sống động đến như vậy!
Trước vẻ đẹp của thiên nhiên và đặc biệt là tiếng chim tu hú rộn ràng, cái ước muốn thoát ra bên ngoài của người tù càng mạnh mẽ hơn:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
Bốn câu thơ cuối trực tiếp bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Đó là tâm trạng đau khổ, bực bội, uất ức, ngột ngạt nhưng không hề có vẻ bi quan, chán chường, tuyệt vọng của một tâm hồn yếu đuối dễ bị gục ngã trước hoàn cảnh. Nhịp thơ đang đều đều, êm ái đến câu 8 và 9 bỗng bị ngắt bất thường 6/2, 3/3; các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột… Tất cả đều thể hiện khát khao cháy bỏng muốn thoát khỏi cảnh tù ngục của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi khi đang phơi phới trên con đường cách mạng bỗng đâu gió cản cánh chim bằng.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú. Mỗi tiếng kêu của nó là một tín hiệu gợi nhắc về cuộc sống tự do và thân phận tù tội. Nếu ở đầu bài, tiếng chim tu hú là tiếng báo mùa, một thứ âm thanh hay và đẹp thì ở cuối bài, nó là một thứ âm thanh nhức nhối, thúc giục hành động. Tố Hữu đã rất tinh tế khi chỉ bằng tiếng chim báo mùa đã gợi tả được nhiều nỗi niềm, tâm sự, cảm xúc của người tù cộng sản… Lắng nghe tiếng chim tu hú, tâm trạng của tác giả cũng chuyển biến từ niềm hân hoan trước mùa hè sôi động đến nỗi uất ức, bực tức, đau khổ khi bị giam cầm uổng phí và khát khao phá tan bức tường nhà giam ngột ngạt để trở về với cuộc sống tự do tươi đẹp. Bài thơ kết thúc bằng cách mở ra tiếng chim tu hú cứ kêu như giục giã những hành động sắp tới. Có thể nói, tiếng chim tu hú chính là tiếng gọi của tự do, của sự sống. Nó khiến cho người tù cách mạng phải bồn chồn, mong mỏi được thoát ra khỏi không gian ngột ngạt chốn lao tù để hòa mình vào thế giới của tự do. Sâu trong từng câu chữ hòa với tiếng chim tu hú là khát vọng được tự do trong một đất nước hòa bình độc lập.
Không chỉ thành công về mặt nội dung, Tố Hữu cũng thành công về mặt nghệ thuật khi sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc – thể thơ lục bát, vừa uyển chuyển lại dễ hiểu dễ nghe. Nhịp thơ được ông biến chuyển linh hoạt, được ngắt nhịp đều đặn xúc cảm và tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ ông sử dụng cũng giản dị, dễ hiểu, hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, lời thơ da diết thể hiện niềm khát vọng cháy bỏng của người tù.
Bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã dựng lên bức tranh ngày hè thật đẹp đẽ với đầy đủ âm thanh và sắc màu. Tất cả đều toát lên một sức sống cực kì mãnh liệt. Tình cảm trong bài thơ được nhà thơ thể hiện sâu sắc và da diết qua thể thơ lục bát mộc mạc. Bài thơ là tình yêu cuộc sống tha thiết, sâu nặng của nhà thơ và niềm khao khát tự do tới cháy bỏng của người tù cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 15
Đối với lí tưởng cộng sản, tâm hồn người thanh niên trí thức Nguyễn Kim Thành tràn ngập âm thanh và ánh sáng ông ví hồn mình như một “vườn hoa lá, rộn hương và tiếng chim". Người chiến sĩ cộng sản trẻ ấy đang hoạt động say sưa, hết mình. Những ngày ở nhà lao Thừa Phủ với Tố Hữu là những ngày dài đẵng, khát khao tự do là ước vọng lớn nhất, ông lắng nghe cuộc đời bên ngoài song sắt với tất cả niềm yêu tha thiết.
Tâm sự ấy gửi gắm trong nhiều bài thơ. Một trong số đó là Khi con tu hú. Mùa hè được phác họa bằng thơ có hương thơm ngọt ngào của lúa chiêm đang chín, có vị ngọt của trái cây đầu mùa đang làm mật, có tiếng ve râm ran dưới cái nắng khô như lửa ở miền Trung, có một bầu trời cao rộng mênh mang trong vắt, mà ở đó, những cánh diều lượn bay. . . Lời thơ theo thể lục bát ngọt ngào, cả một mùa hè được cô kết lại bằng sáu dòng:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. . .
Quả là một mùa hè tràn trề nhựa sống, đầy hương vị, rực rỡ sắc màu và rộn rã âm thanh. Họa sĩ - nhà thơ chắc phải là người gắn bó máu thịt với cuộc đời, phải từng sống hết mình với thiên nhiên mới có thể tạo ra những hình ảnh, những chi tiết sống động đến như vậy!
Nhưng, không hẳn chỉ là như vậy. Điều đáng nói ở đây là, thi tứ về hương sắc ngày hè được khơi gợi từ một âm thanh: tiếng con tu hú gọi bầy. Đúng là tất cả dường như sống lại, “dậy bên lòng", từ cái lúc người tù - thi sĩ nghe thấy tiếng chim tu hú tìm bạn. Cái khoảnh khắc ấy chính là khoảnh khắc thần diệu nảy sinh mọi nỗi niềm.
Người tù nhận thức lại một cách đau đớn về cảnh ngộ trớ trêu của mình giữa “bốn tường vôi" tăm tối, ngột ngạt, cô đơn. Ở ngoài kia sự sống đang đơm hoa kết trái, ở ngoài kia là bầu trời tự do, “ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu". . . Bởi vậy, cánh đồng lúa chín ấy và bầu trời cao xanh vời vợi kia, vườn cây đầy tiếng ve ngân nga ấy với tiếng réo rắt của đôi diều sáo kia, . . . thực ra, chỉ là những hồi ức, chỉ còn là những kỉ niệm về những ngày anh ta còn tự do hoạt động cách mạng cùng bạn bè đồng đội trên quê hương mình.
Mùa hè ấy chỉ là trong tâm tưởng. Nó chứa chất một điều gì bức bối đến tột cùng, muốn được “tháo cũi sổ lồng", muốn được đập phá tất cả để tự giải thoát, để được hòa vào thiên nhiên, vào cuộc đời, để được là mình, được sống hết mình cho cách mạng:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi.
Câu thơ chân thành như một lời bộc bạch. Nó thể hiện chân thực trạng thái ngột ngạt, nỗi uất hận vì bị cầm tù, thái độ phản ứng gay gắt với cảnh ngộ. . . của nhà thơ. Vì vậy, nó tạo nên sự đồng cảm, sẻ chia rất tự nhiên trong lòng người đọc.
Nhớ lại khoảng mấy tháng trước đó thôi, tháng 4 năm 1939, người thanh niên học sinh Tố Hữu đang hoạt động sôi nổi trong phong trào cách mạng ở quê hương xứ Huế thì bị giặc Pháp bắt giam. Những ngày đầu trong ngục tù, người cách mạng trẻ tuổi ấy đã giải bày lòng mình qua lời thơ da diết:
Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
(Tâm tư trong tù)
Trong “cảnh thân tù" người cộng sản trẻ tuổi ấy đã tìm được một cách để tiếp tục gắn bó với cuộc sống qua cái “kênh" âm thanh: Tai mở rộng và lắng nghe tiếng đời lăn náo nức. Trở lại với bài thơ này, rõ ràng là nhà thơ không những chỉ nghe được “tiếng đời lăn náo nức" ngoài nhà tù kia mà còn thấy được, cảm nhận được nó bằng mọi giác quan tạo hóa đã ban cho.
Thử hình dung mà xem, ở cái tuổi 19 đang sôi trào nhiệt huyết cách mạng mà bị bắt giam, lần đầu tiên bị cắt đứt với cuộc sống tự do, với bạn bè đồng chí! Quả thật, bởi vì sớm được giác ngộ bản thân, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt mà tự nuôi dưỡng tinh thần tranh đấu. Thiết nghĩ, đây cũng là một cách để tự giải phóng mình khỏi xiềng xích của quân thù, điều mà chính Bác Hồ sau này cũng tâm đắc khi rơi vào cảnh ngộ tương tự:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
(Hồ Chí Minh - Nhật kí trong tù)
Tinh thần ấy, ý chí ấy hàm ẩn trong nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt về thể xác lẫn tâm hồn - khi hè đến với tiếng “con chim tu hú ngoài trời cứ kêu" quả là đáng cảm thông và trân trọng. Câu thơ cuối bài khép lại một góc “tâm tư trong tù" của nhà thơ cộng sản Tố Hữu nhưng chắc là vẫn còn khơi gợi những ý tưởng mới mẻ, sâu xa trong lòng người đọc.
Đọc Khi con tu hú ta hiểu hơn tâm hồn, tình cảm và khát vọng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Thêm yêu mến và trân trọng những con người giàu lí tưởng đã sống trọn vẹn cho đất nước thân yêu.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 16
Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trong bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ - Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh. Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Mở đầu bài thơ, với tựa đề Khi con tu hú, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.
Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
(Trăng trối)
Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Một bức tranh được “vẽ" trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. “Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”, sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đang chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc. Phải là một người tha thiết yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế!
Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. . .
Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng vài con sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm.
Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động: “muốn đạp tan phòng”.
Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bực bội, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên:
Ngột làm sao, chết uất thôi.
Bài thơ khép lại nhưng là nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi. . .
Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 17
Tố Hữu sáng tác bài thơ Khi con tu hú tại nhà lao Thừa Phủ (Huế) vào mùa hè năm 1939, sau khi bị thực dân Pháp bắt giam vì "tội" yêu nước và làm cách mạng. Bài thơ thể hiện tâm trạng xốn xang, bức bối của người thanh niên cộng sản đang bị cầm tù, khi nghe thấy tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã muốn phá tung xiềng xích để trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương.
Tiếng chim tu hú gọi bầy gợi cho nhà thơ nghĩ đến khung trời lồng lộng ở bên ngoài và càng cảm thấy ngột ngạt trong xà lim chật chội, càng khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do. Tiếng chim là yếu tố gợi mở để mạch cảm xúc trào dâng mãnh liệt:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở. Tiếng chim vô tình tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Nằm trong xà lim chật hẹp, tối tăm, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã, lắng nghe mọi âm thanh cuộc đời bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi trong tâm tưởng nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè nồng nàn của quê hương.
Mùa hè là mùa của Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần dưới cái nắng vàng óng như mật của miền Trung. Những âm thanh rạo rực và hình ảnh tươi đẹp, tràn đầy sức sống của mùa hè nối nhau hiện lên trong kí ức nhà thơ:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. . .
Ôi tiếng ve! Tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt tuổi học trò, làm sao quên được! Tiếng ve gợi nhớ về những khu vườn râm mát bóng cây, những sân phơi bắp (ngô) đầy ắp nắng đào. Màu vàng của lúa, bắp; màu hồng của nắng; màu xanh của trời tạo nên những mảng màu sắc lung linh, rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây hương lúa, hương thơm trái chín đầu mùa. Xa xa, tiếng chim tu hú lảnh lót, tiếng ve ngân ra rả trong vòm lá. Trên bầu trời cao rộng, những cánh diều chao lượn, tiếng sáo vi vu trong gió nam mát rượi chiều hè. . . Phải gắn bó, yêu mến quê hương sâu đậm đến độ nào thì nhà thơ mới hình dung ra một bức tranh mùa hè xứ Huế sống động đến như vậy. Đó là những mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình, bè bạn, đồng bào, đồng chí thân thương.
Sáu câu-thơ lục bát uyển chuyển mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Nhiều âm thanh, hình ảnh tiêu biểu của mùa hè được đưa vào bài thơ: tiếng ve ngân trong vườn cây, lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với cánh diều chao lượn, trái cây chín mọng ngọt lành. . . Tiếng chim tu hú khởi đầu và bắt nhịp cho mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ màu sắc, ngạt ngào hương vị. . . trong cảm nhận của người tù. Đoạn thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế và khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ trung, yêu đời nhưng đang bị quân thù tước mất tự do.
Đang hồi tưởng về quá khứ, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng của chốn lao tù:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Thi hứng được khơi nguồn bắt đầu từ tiếng chim tu hú. Tiếng chim nhắc nhớ đến mùa hè và tạo nên sự xao động lớn trong tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc cứ dâng lên từng đợt, từng đợt như sóng dậy, thôi thúc con người phá tung xiềng xích, phá tan tù ngục để trở về với cuộc sống phóng khoáng, tự do.
Dường như sức nóng của mùa hè đang rừng rực cháy trong huyết quản người thanh niên yêu nước Tố Hữu. Sức sống mãnh liệt của mùa hè chính là sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ khát khao lí tưởng cách mạng, khát khao hoạt động, cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếng chim tu hú là tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đối với người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm. Bên ngoài là tự do, phóng khoáng, còn nơi đây là tù túng, bức bối:
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tâm trạng đau khổ, uất ức bật thốt thành lời thơ thống thiết. Cách ngắt nhịp bất thường kết hợp với các từ ngữ có khả năng đặc tả và những từ cảm thán như truyền đến độc giả cái cảm giác uất hận cao độ và niềm khao khát cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cảnh tù ngục, trở về với cuộc sống tự do bên ngoài của người thanh niên yêu nước đang bị giam cầm trong lao tù đế quốc.
Câu thơ chứa đựng nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt khôn nguôi cả về thể xác lẫn tâm hồn của nhà thơ trẻ. Trong hoàn cảnh ấy, thời khắc ấy, người cộng sản phải tự đấu tranh với bản thân để làm chủ mình, vượt lên những đắng cay nghiệt ngã của lao tù đế quốc, nuôi dưỡng ý chí, giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh cách mạng. Đó là một hình thức đấu tranh tích cực mà Bác Hồ rất tâm đắc khi Người rơi vào chốn lao tù của Tưởng Giới Thạch: Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao. Các chiến sĩ cách mạng tiền bối trung kiên cũng đã khẳng định: Giam người khóa cả chân tay lại, Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do. (Xuân Thủy).
Tiếng chim tu hú cứ kêu hoài như nhắc nhở tới nghịch cảnh của nhà thơ, giục giã nhà thơ phá tung tù ngục để giành lại tự do.
Bài thơ Khi con tu hú làm theo thể thơ lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm tư nhân vật. Sáu câu đầu nhịp điệu thong thả, từ ngữ trong sáng, hình ảnh tươi vui, tạo nên bức tranh mùa hè tuyệt đẹp. Bốn câu thơ sau nhịp điệu thay đổi hẳn. Câu thơ căng thẳng như chứa đựng một sức mạnh bị dồn nén chỉ chực bật tung ra. Đó là tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi hoạt động chưa được bao lâu đã lâm vào cảnh tù ngục, lúc nào cũng khao khát tự do, muốn thoát khỏi bốn bức tường xà-lim lạnh lẽo để trở về với đồng bào, đồng chí thân yêu.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ được tạo nên từ rung động tột đỉnh của cảm xúc kết hợp với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật vừa chân thực vừa tinh tế. Tiếng chim tu hú chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đã làm dậy lên tất cả cảnh và tình mùa hè trong tâm tưởng nhà thơ. Người tù thấu hiểu được cảnh ngộ trớ trêu của mình trong chốn lao tù ngột ngạt, giữa lúc cuộc sống bên ngoài đang nảy nở, sinh sôi. Phải bứt tung xiềng xích, phá tan những nhà ngục hữu hình và vô hình đang giam hãm cả dân tộc trong vòng nô lệ.
Bài thơ Khi con tu hú là tiếng lòng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 18
Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác trong những ngày bị giam tại nhà lao Thừa phủ. Cả bài thơ vang vọng tiếng chim tu hú, đây cũng chính là âm thanh khơi mạnh nguồn cảm xúc của người tù cách mạng. Như vậy, ta có thể thấy tiếng chim tu hú có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong tác phẩm.
Ngoại trừ nhan đề bài thơ, thì tiếng chim tu hú hai lần xuất hiện trong bài thơ, mỗi lần xuất hiện, tiếng chim ấy lại khơi lên trong lòng tác giả một suy nghĩ, một cảm xúc riêng. Trước hết, tiếng chim tu hú khởi nguồn, gợi nhắc Tố Hữu về một cuộc sống ngoài kia hết sức đẹp đẽ, ngập tràn sức sống:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Tiếng chim tu hú này trước hết xuất phát từ thực tế, mỗi khi tu hú kêu tức báo hiệu một mùa trái cây đã vào vụ chín đỏ trên từng ngọn cây. Từ thực tế ấy, khi đang bị giam trong cảnh tù ngục, không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, Tố Hữu đã dùng những giác quan, sự cảm nhận của mình để cảm nhận thế giới ngoài kia. Mọi sự vật bên ngoài đang độ viên mãn căng tràn nhất: lúa chiêm đang chín, trái cây dần ngọt; màu sắc rực rỡ: xanh, vàng, nắng đào; không gian rộng rãi thoáng đại: trời xanh càng rộng càng cao. Thế giới bên ngoài được Tố Hữu tái hiện hết sức sống động, giàu sức sống, mọi vật căng đầy sức sống, tự do, tự tại, khác hẳn với cảnh tù ngục trong này của ông. Bởi vậy, ngay từ những câu thơ này ta đã phần nào thấy được niềm vui thích, hứng thú, nhưng đồng thời cũng khao khát, mong mỏi được sống một cuộc đời tự do như những sự vật ngoài kia.
Trẻ trung, yêu đời, khao khát sống và cống hiến, khiến cho nỗi mong mỏi được vượt thoát khỏi cảnh ngục tù này càng trào dâng mạnh mẽ hơn trong lòng Tố Hữu. Để khi tiếng chim tu hú một lần nữa hữu ý cất lên, khao khát đó bùng cháy dữ dội, biến thành những ước muốn cụ thể, hữu hình:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp, tan phòng hè ôi,
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Mùa hè đến mang đến sức sống, thôi thúc, giục giã người tù cách mạng đập tan phòng, chân muốn đạp đổ mọi xiềng xích để đến với thế giới tự do bên ngoài. Một tinh thần khỏe khoắn như vậy làm sao có thể cam chịu cuộc sống tù đày chật chội và ngột ngạt cho được. Lòng uất hận căm tức dâng trào trong lòng, bật lên thành lời nói: Ngột làm sao/chết uất thôi. Câu thơ ngắt nhịp 3/3, cảm xúc dồn nén bỗng chốc cuộn trào, qua đó thể hiện một ý chí mạnh mẽ kiên cường, kiên quyết không chịu đời nô lệ, phải sống một cuộc đời từ do. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú gọi bầy, mở ra không gian sống đầy ánh sáng, kết thúc bài thơ là tiếng chim tu hú cứ kêu, như lời thúc giục người chiến sĩ hãy nhanh lên đường chiến đấu.
Khi con tu hú sử dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc, với ngôn từ giản dị, giàu cảm xúc đã cho thấy tâm hồn yêu tự do mãnh liệt của tác giả. Bức tranh chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản đầy đẹp đẽ, sáng ngời, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 19
Tố Hữu là một tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn. Tác phẩm "khi con tu hú" là một trong những sáng tác được đánh giá cao. Tác phẩm được ông sáng tác khi đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ. Tác phẩm diễn tả nỗi khổ của người cách mạng, càng khao khát được phục vụ cách mạng được chiến đấu người chiến sĩ càng cảm thấy bức bối uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt chứng kiến thời gian cứ đằng đẵng trôi qua khi ở bên ngoài tinh thần kháng chiến đang sôi sục.
Nhan đề "khi con tu hú" của bài thơ không chỉ nói đến thời gian mà còn ẩn ý là một thời điểm bừng lên của thiên nhiên tạo vật bên cạnh đó chỉ khát khao hoạt động cách mạng của con người. Tiếng chim tu hú có tác động mạnh mẽ đến nhà thơ bởi lẽ nó báo hiệu một mùa hè đến và là biểu tượng cho sự bay nhảy được tự do , do đó có ảnh hưởng lớn đến nhà thơ khi đang bị giam cầm.
Tiếng chim tu hú vọng qua thanh sắt len lỏi vào trong tâm hồn tâm trạng buồn bã của nhà thơ:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín trái cây ngọt dần
Con chim tu hú đánh thức tâm hồn nhà thơ khi "lúa chiêm đang chín"còn trái cây thì "ngọt dần". Ta thấy tác giả nói "đương chín"chứ không phải là đang chín trái cây ngọt dần chứ không phải là đã ngọt. Dường như mùa hè đang đến dần, nhà thơ muốn nó đừng trôi qua nhanh mà hãy chậm rãi nhà thơ muốn níu giữ từng chút một thời gian. Nhưng đâu chỉ có thế tiếng chim gọi lên một bầu trời tràn ngập màu sắc và âm thanh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng vàng
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Giữa chốn ngục tù người chiến sĩ ấy nhớ tiếng ve ngân nhớ sân bắp phơi đầy. Đó là những hình ảnh âm thanh màu sắc của đời sống thường thật bên ngoài mà sao nhà thơ lại nhớ đến tột cùng như thế, thèm muốn được ngắm nhìn chúng đến như thế. Chắc hẳn trong chốn lao tù ấy ánh sáng thiên nhiên bầu trời thiên nhiên cũng là một điều tưởng chừng như quá xa xỉ đối với nhà thơ. Bầu trời trong xanh ấy với tiếng ve ngân còn được điểm xuyết thêm hình ảnh "đôi con diều sáo lộn nhào từng không" mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng được bay bổng tự do cùng thiên nhiên đất trời. Nhà thơ phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên , hòa nhập với thiên nhiên và khát khao được sống trong thiên nhiên lắm thì nhà thơ mới có thể vẽ ra một bức tranh thiên nhiên trong trẻo tươi mới và rộn ràng đến như thế. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp và thơ mộng kia không phải được nhìn từ con mắt của nhà thơ mà được tưởng tượng qua hình ảnh con tu tú kêu gọi bầy. Nhà thơ đã sử dụng những giác quan để nghe ngửi và cảm nhận tất cả mọi âm thanh đường nét màu sắc của mùa hè. Chỉ bằng sáu câu thơ nhà thơ đã làm hiện lên một khung cảnh của làng quê yên bình như bao làng quê khác của Việt Nam. Nhìn thiên nhiên ấy tác giả càng thấy đau xót cho thân phận mình khi con chim ngoài trời cũng được tự do bay lượn trên bầu trời mà tại sao con người lại bị chôn vùi trong nhà lao với bốn bức tường cô độc không thể tự do vùng vẫy bên ngoài. Trong cảnh tù đày mùa của ngô lúa hay màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế những màu sắc âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh huyền ảo rực rỡ hẳn lên. Trẻ trung và yêu đời say mê khát khao sống khao khát được tự do. Nhà thơ đang bị đày đạo trong ngục tối nhưng tinh thần ở ngoài lao mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.
Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh rất sinh động cụ thể gợi cảm các từ ngữ lựa chọn có giá trị tạo hình. Đặc biệt phép liệt kê được vận dụng để tạo ra những ấn tượng huy hoàng về một mùa hè phong phú và khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh thiên nhiên mùa hè hiện lên trong tâm hồn nhà thơ trong cảnh lao tù ấy đã thể hiện khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm nén nổi. Đoạn thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. Người chiến sĩ xả thân vì lí tưởng cao đẹp đó có một thế giới nội tâm rất phong phú rung động mãnh liệt đối với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó tha thiết với quê hương ruộng đồng.
Giọng thơ từ nhung nhớ tha thiết chuyển sang uất ức trong những câu thơ tiếp theo:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu
Mùa hè đã đến trong thiên nhiên cảnh vật và đất trời quê hương Việt Nam. Mùa hè đến dậy trong lòng bao thôi thúc giục giã. Mùa hè đất trời lại tiếp tục len lỏi vào tâm hồn nhà thơ thúc giục tinh thần thoát khỏi nhà lao ra hòa nhập với thiên nhiên đất trời bay nhảy cùng chim muông cảnh vật. Bao âm thanh giục giã khiến nhà thơ muốn "đập tan phòng" đập tan song sắt, xà lim chật chội để ra ngoài giải phóng mình. Lòng uất hận đang dâng trào khiến nhà thơ chỉ muốn thoát khỏi sự chật chội ấy để ra ngoài thiên nhiên rộng lớn. Tiếng chim tu hú tạo một nghịch trạng trong tâm hồn người chiến sĩ cộng sản. Mùa hè tràn đầy sức sống đang đến vậy mà nhà thơ lại bị giam cầm tù đầy. Ngoại cảnh tác động vào con người khiến con người bức bối ngột ngạt muốn vùng vẫy tung phá. Nhưng thực tế không thể làm được nên phải thốt lên thành lời than, đó chính là biểu hiện của niềm khao khát tự do khao khát hoạt động cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Tiếng chim tu hú kia dường như là tiếng đời tiếng cách mạng đang gọi nhà thơ giục giã lên đường kháng chiến phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Tiếng chim tu hú gọi bầy tha thiết gợi ra một không gian thế giới bao la vô cùng sinh động. Nhưng thế giới ấy càng rộng lớn bao la rực rỡ bao nhiêu càng khiến cho người tù cảm thấy chật chội khó chịu bấy nhiêu. Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của thiên nhiên mời gọi nhà thơ nhưng tâm trạng của nhà thơ khi nghe tiếng tu hú mỗi lần cất lên lại hoàn toàn khác nhau. Nếu như lúc đầu tiếng chim tu hú mở ra một khung trời thiên nhiên rộng lớn bao la với đủ màu sắc âm thanh hình ảnh của cuộc sống thường nhật khi mùa hè đến trên khắp quê hương Việt Nam nhưng tiếng chim tu hú sau đó lại khiến cho tâm trạng nhà thơ cảm thấy ngột ngạt khó chịu chỉ muốn thoát ra khỏi thế giới ngục tù ấy một cách nhanh chóng. Nhưng hiện thực lại không thể thoát khỏi chốn lao tù đã khiến tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc khó chịu.
Bài thơ được tác giả dùng những hình ảnh thơ gần gũi giản dị mà giàu sức gợi cảm ở nghệ thuật sử dụng thơ lục bát uyển chuyển tự nhiên và cả những cảm xúc thiết tha sâu lắng thể hiện nguồn sống sục sôi của người cộng sản. Bài thơ là khúc ca tâm tình tiếng gọi đàn hướng về đồng quê và bầu trời tự do với niềm khát khao cháy bỏng. Bài thơ còn là vẻ đẹp chân thực của người cộng sản luôn muốn phục vụ cộng sản phục vụ cách mạng phục vụ nhân dân đồng bào.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 20
Có những bài thơ để ta yêu. Có những bài thơ để ta nhớ. Bài "Khi con tu hú" của Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ - nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.
Bài thơ này, Tố Hữu viết vào tháng 7 - 1939, khi nhà thơ bước sang tuổi 19, ở nhà lao Thừa Thiên, tư thế hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ gồm 10 câu lục bát, chứa đầy tâm trạng. Sáu câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ da diết đồng quê. Bốn câu cuối là niềm sục sôi căm hờn uất hận.
Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Tố Hữu được giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật trong học sinh, thanh niên tại thành phố Huế quê mẹ. Tháng 4 - 1939, nhà thơ bị mật thám Pháp bắt giam. Nhiều bài thơ tràn đầy dũng khí cách mạng được viết sau song sắt nhà tù đế quốc, sau này được tập hợp lại trong phần "Xiềng xích" của 'Từ ấy".
Sống trong cảnh lao tù ngột ngạt, người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng tâm hồn mình về cuộc sống bên ngoài song sắt nhà tù. Với tâm hồn khao khát tự do và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lắng nghe mọi âm thanh từ xa vọng đến nơi tối tăm tù ngục.
Tiếng kêu của chim tu hú trên đồng quê nghe bồi hồi, tha thiết. Tiếng chim gọi bầy xa gần vang lên. Tiếng ve ngân lên từ những vườn cây trái đôi bờ sông Hương suốt đêm ngày nghe dắng dỏi. Tiếng sáo diều trên đồng quê gợi nhớ gợi thương một thời cắp sách với bao kỉ niệm đẹp:
"Khi con tu hú gọi bầy
(...) Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không".
Nhớ khúc nhạc đồng quê những âm thanh dân dã bình dị và thân quen ấy vô cùng, bởi lẽ trong cảnh tù đày nhà thơ khao khát một tình quê vơi đầy, nhớ khôn nguôi.
Chân tay bị cùm trói trong bốn bức tường xám lạnh và kín mít, người chiến sĩ vẫn nhìn thấy cảnh sắc quê hương bằng tất cả tấm lòng nhớ quê, yêu quê. Sự tưởng tượng thật phi thường. Trong tâm hồn Tố Hữu lúc bấy giờ, hình ảnh quê hương lần lượt hiện lên như một cuốn phim màu tuyệt đẹp.
Có màu vàng thẫm của lúa chiêm, màu đỏ của trái chín với vị ngọt say người:
"Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần".
Có màu "vàng" của bắp, màu "đào" của nắng hạ:
"Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào".
Có màu "xanh" của bầu trời trên đồng quê. Cánh đồng thì rộng, mây trời thì cao.
Các tính từ chỉ màu sắc, tính từ chỉ tính chất: "Xanh, vàng, đào, ngọt, rộng, cao", được phối hợp hài hòa, gợi tả màu sắc và hương vị quê nhà. Những âm thanh nghe thấy, những hình ảnh tưởng tượng thể hiện một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, nỗi nhớ da diết triền miên suốt đêm ngày không bao giờ nguôi. Nỗi nhớ ấy đã phản ánh khát vọng tự do bùng lên như ngọn lửa cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trong đọa đầy. Trong một bài thơ khác của phần "Xiềng xích" Tố Hữu đã nói lên tâm trạng mình khao khát tự do, luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ánh sáng, hướng vẻ cuộc sống bên ngoài:
"Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều,
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về"
Bài thơ "Khi con tu hú" thật đáng nhớ. Bốn câu thơ, đã bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ. Đầy bực bội và sục sôi! Đầy căm thù, uất hận:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi"
"Phòng" là phòng giam, là nhà đá, là nơi biệt giam những người con ưu tú của dân tộc. Lòng căm thù được thể hiện bằng ước muốn và hành động quyết liệt: "Mà muốn đạp tan phòng hè ôi !"."Phòng" ở đây còn tượng trưng cho chế độ thực dân với chính sách cai trị dã man đang đầy đọa nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ.
"Đạp tan phòng..." là đạp tan chế độ thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do. Câu cảm thán: "Ngột làm sao! Chết uất thôi !"là tiếng than, là thái độ căm giận sục sôi, quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Câu thơ Tố Hữu là sự kế thừa những bài ca yêu nước của ông cha ta những năm đầu thế kỉ XX:
"Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời: kêu mà tuốt gươm ra"
Khép lại bài thơ là tiếng kêu của chim tu hú. Âm thanh ấy góp phần đặc tả tâm trạng người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim gọi bầy... tiếng chim báo mùa gặt, gợi nhớ hương vị và cảnh sắc đồng quê. Tiếng chim khắc khoải giục giã căm hờn, nung nấu tinh thần bất khuất đấu tranh.
Có thể nói chất trữ tình tráng ca được diễn đạt một cách đặc sắc để nói tình yêu thuơng và lòng căm giận của nhà thơ trong cảnh tù đày. Cái hay của bài thơ là lấy ngoại cảnh để diễn đạt tâm trạng. Tiếng kêu của chim tu hú như một ám ảnh. Nói rằng bài thơ để ta nhớ là vì thế. Ta nhớ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có một đầu óc lạnh và một trái tim nóng đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
Đọc bài thơ đầy tâm huyết của Tố Hữu, là cảm nhận một phần nào tinh thần gang thép của những chiến sĩ cách mạng. Sống vì tự do và sẵn sàng chết vì tự do. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn các chiến sĩ cách mạng.
Thật vậy, bài thơ "Khi con tu hú" gợi nhớ trong lòng ta:
"Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn"
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 21
Tố Hữu - một chiến sĩ cách mạng, đồng thời là một nhà thơ cách mạng. Bài thơ "Khi con tu hú" sáng tác năm 1039 - lúc tác giả còn rất trẻ, đang bị thực dân Pháp bắ giam ở Huế.
Nhiệt tình yêu đời, khát vọng tự do, tinh thần hăng say hoạt động của nhà thơ nổi bật trong bài "Khi con tu hú" thức dậy trong lòng chàng trai cả một bài ca sôi động, một đất trời tự do mà chàng yêu vô hạn, một ý chí vượt khỏi cảnh ngục tối ngột ngạt khi hè đang về ngoài kia. Tiếng chim tu hú ở đây khác nào tiếng gọi của cuộc đời, lời thôi thúc của cuộc đấu tranh.
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần"
Ta tưởng như hai câu thơ này không phảu bay lên từ mái nhà tù mà đang tuôn ra từ cây bút đứng ở đầu một làng quê thật đẹp, có cánh đồng lúa, có cây quả chín về mùa hè như vải, nhãn...
Cái sinh khí của mùa hè đang dậy lên mãnh liệt. Con chim hay ăn quả ngọt tíu tít gọi nhau, lúa chiêm đang chuyển từ màu xanh sang màu vàng nâng dần thân hạt cho to thêm và trên cây một hương vị ngọt ngào đang theo nắng, sương mù rót vào quả chuyển chất chua thành ngọt!
Lạ nữa là những câu thơ dưới đây vẫn chưa có cái bóng dáng gì về hoàn cảnh của người làm thơ đang ở trong tù, mà như ai đó đứng ở ngoài sáng mắt mới quan sát được cảnh vật mùa hè đang xao động trong một không gian rộng lớn:
"Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không".
Sức sống của mùa hè, dưới ngòi bút của nhà thơ là bức tranh phong cảnh của nông thôn ở độ dạt dào!
Tiếng ve ngân râm ran ở một cây nào đó, trước một sân phơi màu nắng còn non lửa mặt trờ nên thành một thứ nắng đào "vàng nhật''. Đó là trên mặt đất. Còn cái vòm trời cao rộng ngất nghểu kia thì có đôi con điều sáo cho đảo lộn nhào bên nhau. Như thế là bức tranh có cảnh gần cảnh xa, dưới thấp, trên cao, có màu xanh diệp lục của lá cây, màu vàng của bắp, màu "nắng đào" của trời và ngập tràn ánh sáng cho đôi con diều tung hoành trong không gian.
Ôi! Những vần thơ thật là đẹp, tình tứ, đạm đà biết bao.
Nhưng đến mấy câu thơ này thì những cảnh đẹp, những sinh lực, những ngọt ngào bõng biến mất chỉ còn để lại một mùa hè oi bức, ngột ngạt mà nhà thơ người tù chỉ muốn co chân đạp thật mạnh cho gian phòng tan ra:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!"
Thì ra, trên kia nhà thơ ngồi trong tù tưởng tượng ra cái thiên nhiên như mình đang nghĩ đến. Đó là mảnh tự do của tâm hồn thoát khỏi song sắt mà thôi.
Thực trạng thì nhà thơ đang ở trong tù, đang bực dọc, bực sốt, thế mà những vần thơ trênđây vẫn cụ thể, tươi sống.
Lạ thay ở chỗ thiên nhiên bên ngoài thì rực rỡ vậy gọi, mà thực tế bên trong thì bị nhốt trong những bức tường vôi xám lạnh. Nếu mùa hè đã mang lại chút gì đó để hồn thơ vang vọng được với đất trời, thì mùa hè lại là nhà thơ:
"Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu"
Cảm xúc của nhà thơ bắt đầu bối rối, ngột ngạt đến tột cùng vì vẫn là:
"Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu"
Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ là sự kết cấu hai tầng của không gian (ngoài tù, trong tù), hai cảnh vật đối lập nhau, sự bung ra với sức dồn nén làm bật ra niềm khao khát tự do của người chiến sĩ trẻ trên cái nên của mùa hè đầy sinh lực.
Nếu không có một tâm hồn hòa quyện với thiên nhiên làm sao có thế miêu tả một mùa hè như vậy. Bài thơ để lại cho người đọc hai tiếng kêu: tiếng kêu của con chim tu hú và tiếng thét uất hận có tính chất phản kháng tự do của người tù.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 22
Cái tên bài thơ "Khi con tu hú", mấy chữ đó chỉ là một mệnh đề phụ, một câu nói nửa chừng... Qua nội dung bài thơ, người đọc có thể hiểu: Khi chim tu hú kêu, gọi mùa hè về, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong cái phòng giam chật chội này, càng thèm khát cháybỏng cuộc sống tưng bừng, tự do bên ngoài... Cách đặt tên bài thơ như thế của Tố Hữu có tác dụng chuẩn bị cho người đọc đi vào mạch cảm xúc của bài thơ.
Tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu hè về. Mùa hè với không gian bao la, ánh nắng rực rỡ, sự sống trởnên rộn rã tưng bừng... Tiếng chim đã làm bừng dậy tất cả trong lòngngười tù cách mạng trẻ tuổi đang bị nhốt chặt trong phòng giam chật chội. Tiếng chim tu hú với tác giả lúc này chính tiếng gọi của bầu trời tự do của sự sống tưng bừng đã vang động sâu xa trong tâm hồn người tù đang cảm thấy vô cùng ngột ngạt vì thèm không gian và sự sống ấy.
Sáu câu lục bát thật trong trẻo, thanh thoát, nhưng đã mởra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Đó là khi hè sang, nắng đào rực rỡ, lúc chiêm chín vàng trên cánh đồng và trái cây đượm ngọt trong vườn, hạt bắt rây vang..., đó là tiếng ve vang trong vườn râm và tiếng tu hú kêu vang ngoài bão; nó là bầu trời xanh biếc cao lồng lộng và rộng tới vô tận để cho những cánh diều sáo thỏa sức nhào giữa tầng không... Tất cả sự sống như bừng dậy như bước vào độ chín, tất cả đều chan hòa ánh sáng, rực rỡ rộng hơn, khoáng đạt hơn. Tiếng chim tu hú kêu như là tiếng gọi của mùa hè; tiếng chim ấy thức dậy tất cả, mở ra tất cả và bắt nhịp cho tất cả...
Thực ra, đây chỉ cảnh mùa hè trong tâm tưởng của người chiến sĩ trẻ đang trong "cảnh thân thù". Càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng, rộng rãi, mới quyến rũ biết bao! Với niềm thèm khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài; và anh đã mường tượng ra cả một bầu trời tự do bao la, một không gian tràn đầy sự sống.
Mấy câu lục bát bình dị, nhẹ nhõm mà đầy ắp hình ảnh âm thanh, màu sắc là hương vị, chẳng những đã tái hiện sinh động cảnh vật mà còn rất gợi không khí vào hè. Đằng sau mấy câu thơ là một tâm hồn thật trẻ trung, yêu đời nồng nàn, gắn bó máu thịt với sự sống, nên rất nhạy cảm để nắm bắt mọi biểu hiện phong phú của sự sống ấy trong tạo vật bao la.
Nếu sáu câu trên là cảnh thì bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tiếng chim tu hú gọi trời đất vào hè, và mùa hè đã bừng dậy trong lòng người tù cách mạng, vốn đã rất đau khổ, bực bội vì "cảnh thân tù" đêm ngày hằng thèm khát tự do và thèm khát sự sống, thì giờ đây, anh càng cảm thấy không chịu nổi cái phòng giam ngột ngạt này:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Cùng với ý nghĩ rất táo tợn, dữ dội (chân muốn đạp tan phòng) là cách ngắt nhịp ở hai câu 8, 9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3 gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào ra ("hè ôi! ngột làm sao, chết uất thôi") Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ và niềm khao khát mãnh liệt hướng về cuộc đời tự do và sự sống bên ngoài.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tu hú kêu, kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Nhưng tiếng chim mở đầu bài thơ đã đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do cao rộng và sức sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc và sự sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc gọi niềm chua xót, đau khổ. Đólà cách kết cấu tạo được hiệu quả nghệ thuật cao, gây ám ảnh day dứt cho người đọc.
Khi con tu hú chỉ là một bài thơ nhỏ, hình tượng nghệ thuật khá bình dị, không có gì thật tân kì, nhưng là bài thơ thật hay, có sức truyền cảm nghệ thuật mạnh mẽ. Cả hai đoạn tả cảnh (trời đất vào hè) và tả tình (nỗi lòng người tù) đều rất đạt; cảnh thật đẹp và đầy gợi cảm, có hồn, tình (tâm trạng) thì sâu, da diết.
Câu thơ lục bát của bài thơ thật mềm mại, linh hoạt. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu. Bài thơ liền mạch, cảm xúc nhất quán, giọng điệu tự nhiên, khi tươi sáng khoáng đạt, khi dằn vặt, u uất tất cả đều phù hợp với cảm xúc thơ.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 23
Người ta nói:
Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại
Nhật kí trong-tù, nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã viết:
Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài
Quả là cuộc sống sự khác biệt lớn lao. Cái hữu hạn, nhỏ bé ("một ngày").
Mà có thể tương xứng với cái vô cùng, vô tận ("nghìn thu"), như thế đã thấy tâm trạng của người bị giam hãm trong tù nặng nề đến mức nào.
Nỗi nhớ càng lớn hơn khi người tù là một chiến sĩ cách mạng. Nỗi khổ vì vật chất (ăn đói, mặc rách, ghẻ lở,...) có thể vượt qua được nhưng nỗi khổ về tinh thần khi không thế góp sức vào sự nghiệp chung luôn đè nặng lên tâm trí người tù. Trong bài Tâm tư trong tù, Tố Hữu từng viết:
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
"Ở ngoài kia" là không gian tự do, nơi người tù hòa mình trong "tiếng đời lăn náo nức", tiếng lạc ngựa "rùng chân bên giếng lạnh", như vẫy gọi, như thúc giục người chiến sĩ xung trận. Trong bài Khi con tu hú, tứ thơ lại được sáng tạo theo một hướng khác, có phần kín đáo hơn. Mới đọc bài thơ chúng ta không biết người thơ đang ở trong tù:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim "gọi bầy", tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng "lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần". Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt dầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyến thêm bằng hình ảnh "Đôi con diều sáo lộn nhào từng không". Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở hằng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải "hạt bắp vàng" mà là "bắp rây vàng hạt" nắng là "nắng đào" màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì "càng rộng càng cao" tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ "ngân" mà còn "dậy" lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hòa điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cánh diều sáo cũng không chịu "lững lờ" hay "vi vu" mà "lộn nhào từng không". Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe... Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được thoát khỏi ngục tù. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh huyền ảo, rực rỡ hẳn lên.
Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Ta nghe hè dậy trong lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu. Chỉ trong bốn câu thơ đã có đến ba sắc thái.
Nghe tiếng "hè dậy bên lòng", người tù muốn phá tung tất cả.
Không thê vượt qua những bức tường nặng nề, nỗi uất ức bị dồn nén, nỗi đau khổ như tạo thành hai hình khối chi qua sáu âm tiết và hai nhịp thơ "Ngột làm sao...".
Tác giả bật lên lời trách cứ ("Con chim tu hú... cứ kêu").
Giọng điệu bên ngoài là thế nhưng thực ra đó chính là sự thể hiện nỗi uất ức, đau khổ đã lên đến đỉnh điểm.
Tiếng chim tu hú gọi bầy ấm áp, tươi vui nhưng cứ vô tình khoan sâu vào nỗi khổ của người tù, khơi dậy nỗi uất hận trước tình cảnh thực tại và càng làm bùng cháy lên khát vọng tự do.
Thơ viết trong tù nhưng không có một dòng, một chữ nào nói về nỗi khổ vật chất của người tù. Điều đó cho thây người tù đã vượt lên những nỗi đau vật chất bình thường. Nỗi đau lớn nhất của người tù là nỗi đau của người chiến sĩ cách mạng bị mất tự do, đang khao khát "tháo cũi sổ lồng" để đến với cuộc sống tự do, để được chiến đấu cho cách mạng.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 24
Tố Hữu là một con chim đầu đàn của nền thơ ca Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thơ Tố Hữu tràn đầy lý tưởng sống cao đẹp đồng thời thể hiện tinh thần sáng tạo không mệt mỏi trên bước đường nghệ thuật. Chính vì vậy, bài thơ Khi con tu hú trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu-đã có sức cuốn hút độc giả yêu thơ, say thơ, một cách mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là những âm thanh sống động, mở ra một không gian tươi đẹp, thoáng đãng:
"Khi con tu hú gọi bầy"
Trong thi ca Việt Nam, mỗi loài chim kêu, mỗi loài hoa nở, ... báo hiệu một mùa khác nhau. Tiếng chim cuốc kêu trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu mùa xuân đã muộn. Tiếng chim quyên nô nức gọi hè dưới trăng thanh trong thơ Nguyễn Du,.... Riêng Tố Hữu, tiếng chim tu hú đi vào thơ khắc khoải báo hiệu mùa hạ đã bước sang. Tiếng chim làm sống dậy những ngày tự do, êm đềm, hạnh phúc. Thuở ấy, Tố Hữu hãy còn bên ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Phải là một trái tim nhạy cảm, rạt rào nhựa sống mới có được cái nghiêng tai tinh tế như thế giữa bốn bức tường hôi hám, chật hẹp, tối tăm,...Tố Hữu hay lắng nghe những âm thanh của cuộc sống đời thường:
"Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ".
(Tâm tư trong tù)
Có thể nói, từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu đã lắng đọng lòng mình, tập hợp các giác quan và tài năng của người nghệ sĩ để vẽ lên
Một bức tranh thiên nhiên mùa hè của miền Trung thân yêu:
"Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...".
Đây là một bức tranh lóng lánh sắc màu: màu vàng óng ả của lúa chín; màu vàng tươi roi rói của hoa quả; màu xanh dịu mát của khu vườn nhiều cây; màu vàng đặc trưng của bắp; màu nắng; màu xanh bao la của da trời. Như vậy hai gam màu vàng và xanh đã tô điểm cho bức tranh thơ thêm những đường nét mỹ miều, rực rỡ, đậm chất đồng quê. Bên cạnh đó, có thanh âm của tiếng ve rộn ràng lảnh lót. Tiếng ve ngân là đặc trưng của mùa hè. Các chú ve dạo bản đồng ca chào đón đức vua mùa hạ đến ngự trị. Nếu thiếu tiếng ve thì nét sinh động, nhộn nhịp của bức tranh thơ giảm đi nhiều lắm. Hình ảnh "đôi con diều sáo lộn nhào từng không" là nét chấm phá độc đáo làm cho cuộc sống nơi thôn quê trở nên có hồn và thi vị hơn. Nhà thơ lấy cái hữu hạn (con diều sáo) đế biểu thị cái vô hạn (từng không). Không gian của bức tranh thơ được mỏ' ra thoáng đãng và tiến tới vô tận.
Trên đây chỉ là bức tranh mùa hè được vẽ trong tâm tưởng của một con người trẻ tuổi đắm say lý tưởng đẹp. Dù chỉ một chút tình quê nhưng rất đáng được nâng niu, quý trọng. Còn thực tế thì sao?
Nhà thơ đang đối diện với bốn bức tường nóng bức ngột ngạt:
"Ta nghe hè dậy bền lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! (câu 8)
Ngột làm sao, chết uất thôi (câu 9)
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!".
Từ "dậy" trong tiếng Việt, theo Từ điển của Nguyễn Văn Xô có ba nghĩa chính: cất mình lên; nổi lên; vang ầm. Chúng ta có thể hiểu mùa hè đã nổi lên trong lòng nhà thơ ở đỉnh điểm. Hòa với nhịp thơ ỏ' câu 8 là 6/2; ở câu 6 là 3/3 gợi cảm giác phẫn uất, bực bội, căng thẳng tột độ của hệ thống thần kinh trung ương đồng thời cũng thể hiện được sức mạnh và ý chí anh hùng của tuổi trẻ. Bởi thế, Tản Đà nói: "Tài cao phận thấp chí khí uất". Điều đó cũng không sai đối với Tô" Hữu. Riêng câu thơ "Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi" gợi cho chúng ta nhớ tâm trạng của Nguyễn Hữu Cầu:
"Bay thẳng cánh muôn trùng Tiều,
Hán Phá vòng vây bạn với kim ó".
Phải chăng giữa Nguyễn Hữu cầu và Tố Hữu có cùng chung một ước vọng anh hùng của đấng nam nhi? Tiếng kêu "Ngột làm sao, chết uất thôi" của Tố Hữu cũng là một tiếng kêu xé lòng của một lớp thanh niên ham sống, đầy nhiệt huyết, mong muốn đối đời của xã hội ta lúc ấy.
Cả bài thơ, Tố Hữu không nhắc đến chữ "tự do" nào nhưng qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, chúng ta hiểu được nhà thơ nhận biết cái tất yếu đến tầng bậc nào rồi bởi lẽ "Tự do là nhận biết được cải tất yếu" (Các-Mác).
Bài thơ khép lại theo lối "đầu cuối tương ứng". Nếu câu mỏ' đầu gợi tiếng chim tu hú khỏe khoắn mời gọi hè thì câu kết thúc tiếng chim tu hú kêu hoài, kêu mãi giữa bầu trời mênh mông như "tiếng gọi hối thúc của thực tại". Cái kết cấu ấy làm day dứt, xốn xang cõi lòng người đọc.
Tóm lại, Khi con tu hú là một bài thơ hay, lời lẽ mộc mạc, bình dị, dễ hiểu, câu chữ ít nhưng cô đọng, hàm súc. Bức tranh tả cảnh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng hiện lên rất cân xứng. Kết hợp với thể thơ cổ truyền của dân tộc uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã để lại sức rung, sức gợi sâu xa, bền bỉ trong lòng những độc giả yêu thơ, say thơ suốt mấy mươi năm qua.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 25
Nhắc đến những tác giả nổi bật trong phong trào thơ ca cách mạng không thể không nhắc đến nhà thơ Tố Hữu. Các tác phẩm của ông đều là những vần thơ đẹp đẽ mang ánh sáng chói lòa của niềm vui khi có Đảng, của nhiệt huyết tuổi trẻ, của khát khao sống và cống hiến cho cách mạng. Một trong những vần thơ đẹp ấy phải kế đến thi phẩm Khi con tu hú- bài thơ mang tiếng lòng của người chí sĩ yêu nước, khát khao tự do trong cảnh tù đày.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh mùa hè đầy sôi động, vẻ đẹp của thiên nhiên đẹp được dệt nên bởi những ngôn từ quá đỗi trong sáng, bình dị:
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chin, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng vàng"
Nếu khi xuân về có cánh én chao nghiêng thì hè đến là tiếng chim tu hú gọi nhau ngang trời. Câu thơ đầu tiên là một trạng ngữ chỉ thời gian báo hiệu hè về, là cơ sở để gợi mở ra một khung cảnh mùa hè tươi đẹp ở những câu sau. Thiên nhiên vào hè dường như đang "chín" dần theo vị thời gian: những bông lúa vàng ươm gần đến ngày thu hoạch, những trái cây thơm đang đượm dần vị ngọt, những hạt bắp vàng được tưới tắm ánh mặt trời ngày hạ lại đậm thêm vị nắng.
Hè về, lúa ngoài đồng đã chín, bắp trên đồi đã bẻ, quả trong vườn đã ngọt,...những công sức của người nông dân cuối cùng cũng được đền đáp. Vì thế niềm vui như gấp bội, lòng người thi sĩ cũng phấn khởi, rộn ràng. Khúc nhạc "tiếng ve ngân" là thanh âm làm sống động cả khu vườn. Ve đến gọi hè về, tiếng ve ngân nga tự do giữa khung trời, mang bao dư âm của tuổi thơ, mang bao kỉ niệm thời niên thiếu. Cảnh hè tươi mới, rộn ràng với sắc vàng của lúa chín, của nắng hạ, của bắp ngô, với sắc xanh của cây trái vườn nhà, với tiếng tu hú và tiếng ve ngân. Cảnh hè còn được điểm tô bởi cánh diều bay trong gió giữa bầu trời thanh bình, rộng lớn, tự do:
"Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không."
Lòng người thi sĩ như đang say mê, rạo rực trước mùa hè tuyệt diệu, ao ước được đắm chìm trong không gian rộng mở ấy đề tận hưởng vị thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng. Nhưng có lẽ, với thực tại bây giờ, niềm ao ước ấy thật khó để thành hiện thực, bởi nhân vật trữ tình đang bị giam mình trong cõi chật hẹp của nhà tù thực dân. Đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp gợi lên ấy là cả một dòng tâm trạng khôn nguôi, đau xót:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi"
Tiếng hè dậy bên lòng, tiếng hè vẫy gọi thiết tha, hè khiến lòng chiến sĩ rạo rực muốn được chìm đắm trong khoảng không gian tươi đẹp. Lòng thổn thức-chân muốn đạp, muốn vượt thoát khỏi bốn bức tường chật hẹp nơi này để tận hưởng vị thiên nhiên, để được tự do làm cách mạng. Lối nói quá "đạp tan phòng" kết hợp với tiếng gọi tha thiết "hè ôi! " càng diễn tả khát khao tự mãnh liệt như muốn bùng cháy trong trái tim người chiến sĩ trẻ. Còn gì buồn hơn khi sống trong cảnh giam cầm, còn gì bí bách hơn khi một kẻ suốt đời khát khao tận hiến cho cách mạng lại bị dùi xích chôn chân nơi ngục tù.
" Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú, ngoài trời cứ kêu"
Những tính từ mạnh "ngột", "chết uất" được kết hợp khéo léo với các từ mang giá trị biểu cảm như "làm sao", "thôi" đã diễn tả rõ nỗi bực dọc, ngột ngạt đến tột cùng của người chiến sĩ lúc này. Đồng thời, càng cho thấy niềm khát khao được vượt thoát khỏi chốn ngục tù tăm tối để rời xa những khó chịu đang bủa vây trong tâm trí, để được là bước ra đời sống với đôi chân tự do và tâm hồn rộng mở.
Nếu như tiếng tu hú đầu bài gọi hạ đến, là một tín hiệu của thời gian, đánh thức trong tâm hồn nỗi nhớ nhung về một mùa hè tươi đẹp, rộn ràng và tình yêu thiên nhiên tha thiết thì tiếng tu hú cuối bài là là tiếng gọi của tự do, của Đảng, thôi thúc nỗi khát khao được trở về với cách mạng trong lòng người chiến sĩ trẻ. Tiếng tu hú tuy bình dị, giản đơn nhưng là tiếng lòng sâu thẳm của một người suốt đời mình khao khát được cống hiến cho cách mạng lại không may bị giặc giã giam cầm.
Bằng thể thơ lục bát quen thuộc, kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như liệt kê, tả cảnh ngụ tình cùng lối viết giản dị mà giàu sức biểu đạt tác giả đã tạo nên một thi phẩm độc đáo, dạt dào cảm xúc và mang sức sống lâu bền qua bao thế hệ. Có thể nói, bài thơ đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu mỗi khi nhắc đến hồn thơ Tố Hữu và thơ ca cách mạng.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 26
Tố Hữu (1920-2002 là nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca trữ tình chính trị Việt Nam, với hàng loạt các tác phẩm có giá trị như: Từ ấy, Việt Bắc, Một tiếng đờn..., ông được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, có đóng góp to lớn đưa nền thơ ca trữ tình chính trị của nước nhà đạt đến đỉnh cao. Thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất chính trị đậm nét cùng chất trữ tình tha thiết, đằm thắm, một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Tố Hữu có thể kể đến bài thơ Khi con tu hú.
Khi con tu hú được ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt vào khoảng thời gian đầu khi Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Thừa Phủ (tháng 7 năm 1939). Khi ấy Tố Hữu vừa mới gia nhập vào Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao lâu, đang hăng hái hoạt động cách mạng thì bị bắt, điều đó đã mang đến trong lòng tác giả, một con người vừa tìm được con đường sáng sau những năm tháng tối tăm, lọc lõng nhiều xúc cảm phức tạp.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm, dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Trong 6 câu thơ đầu tác giả Tố Hữu đã cảm nhận bức tranh thiên mùa hạ rực rỡ và tràn đầy sức sống bằng nhiều giác quan, bao gồm cả thính giác, vị giác, xúc giác. Mùa hè hiện ra thật nhộn nhịp với tiếng tu hú gọi bầy tha thiết, tiếng ve ngân rạo rực, tiếng sáo diều vi vu vang vọng trời đất. Bên cạnh đó còn rực rỡ, tươi tắn với nhiều màu sắc của thiên nhiên như cảnh lúa chiêm vàng xuộm, cảnh “bắp rây vàng hạt” đầy sân, lại thêm cái “nắng đào”, ấm áp chói chang, mang đến cảnh tượng trù phú, mùa màng bội thu, tràn đầy sức sống.
Không dừng lại ở đó mùa hè còn hiện ra thông qua những cảm nhận từ vị giác, với vị ngọt dịu của lúa chiêm đang dần chín, vị ngọt đậm của trái cây đang vào mùa. Xa xăm hơn, cảnh ngày hè còn đặc biệt ấn tượng với khung cảnh bầu trời trong xanh, không một gợn mây, rộng lớn, cao vút, tô điểm trên nền trời ấy là cảnh từng con diều sáo đang lộn nhào:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Câu thơ gợi ra khung cảnh bình yên, tự do và tràn đầy sức sống, càng đặc biệt hơn khi bức tranh thiên nhiên tràn đầy âm thanh và sắc màu đó lại được nhà thơ cảm nhận qua song sắt chật hẹp của nhà tù. Điều đó đã bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tác giả. Không chỉ là lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, mà ở sáu câu thơ đầu những hình ảnh thiên nhiên đậm hương sắc, còn bộc lộ tấm lòng khao khát tự do, muốn thoát khỏi cảnh tù đày, để hòa vào cuộc sống thiên nhiên tươi đẹp, để tiếp tục thực hiện lý tưởng còn dang dở. Sâu xa hơn nữa, bức tranh hè rực rỡ còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ cách mạng “thân thể ở trong lao, tâm hồn ở ngoài lao”, khi mà song sắt, tường dày cũng chẳng thể nào ngăn nổi ý chí chiến đấu, không thể dập tắt được ngọn lửa cách mạng đang sục sôi trong tâm hồn của người lính trẻ. Dù đang bị giam cầm, khốn khổ với cảnh tù đày, thế nhưng Tố Hữu vẫn rất yêu đời, lạc quan, vui vẻ, hướng về cuộc sống tự do bên ngoài. Đó là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, sáng ngời của người chiến sĩ cách mạng.
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”
Ở bốn câu thơ cuối, tâm trạng của tác giả càng được bộc lộ rõ. Tiếng tu hú càng tha thiết như vẫy gọi người chiến sĩ thoát ra khỏi lồng giam tăm tối về với thế giới tự do, hòa vào mùa hè sôi động, tiếp tục chiến đấu. Từ tấm lòng khao khát tự do, khao khát được chiến đấu, cùng với sự đau khổ, tù túng khi bị giam cầm đã khiến tác giả có xúc cảm mạnh muốn phá tan cái lồng giam ngột ngạt của quân thù để trở về với tự do, trở về với sự nghiệp cách mạng còn dang dở.
Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” càng bộc lộ rõ sự tức giận, phẫn nộ, uất hận của tác giả với tình trạng tù túng, mất tự do của hiện tại. Mà lúc này đây tiếng tu hú kêu, cái nóng bức của ngày hè lại càng làm cho cảm giác ấy càng trở nên rõ nét, trở thành một nguồn lửa nóng không ngừng cuồn cuộn trong trái tim người chiến sĩ, khiến ông vô cùng bực bội, khao khát được trở về với tự do càng thêm cháy bỏng, mạnh mẽ. Kết thúc bài thơ với tâm trạng bức bối, chững lại và nhiều xúc cảm dồn nén như thế chính là dự báo về một sự đột phá, một con đường mới để thoát khỏi cảnh tù đày, tìm về với tự do và sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ trẻ.
Khi con tú hú là một trong những tác tiêu biểu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác thơ ca trữ tình chính trị của Tố Hữu với nguồn xúc cảm tươi trẻ, tràn đầy sức sống mạnh mẽ, ý chí chiến đấu kiên cường. Tác phẩm tinh tế bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, khát khao tự do tha thiết cháy bỏng, cũng như lòng căm thù, phẫn nộ trước cảnh tù đày, cùng với sự mạnh mẽ muốn phá tan xiềng xích phi nghĩa để về với tự do của người chiến sĩ trẻ.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 27
Tố Hữu sinh năm 1920, là nhà thơ lớn của văn học cách mạng Việt Nam. Cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ của ông có sự thống nhất, hài hòa. Hồn thơ Tố Hữu trong trẻo, ngọt ngào, da diết mà sâu lắng với hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà giàu chất tạo hình, khơi gợi bao cảm xúc lắng đọng trong lòng người. “Khi con tú hú” là một thi phẩm thành công tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ được in trong phần Xiềng xích thuộc tập thơ Từ ấy. Tác phẩm được viết vào tháng 7 năm 1939, khi tác giả đang bị giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài thơ đã thể hiện lòng yêu cuộc sống và trái tim khát khao về sự tự do cháy bỏng của nhà thơ trong cảnh tù đày.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Những câu thơ lục bát thanh thoát mở đầu bài thơ gợi ra một bức tranh mùa hè xinh đẹp, và căng tràn nhựa sống. Một thế giới rộn ràng với những hình ảnh, âm thanh sống động được mở ra: Đó là hình ảnh của lúa chiêm, của tiếng ve, của hạt bắp, của bầu trời cao rộng với những cánh diều bay lượn hay những trái cây đượm ngọt,…Âm thanh đặc trưng khi hè đến là tiếng chim tú hú, là tiếng ve ngân vang trên những cành cây trong vườn nhỏ. Tiếng tu hú, tiếng ve gọi hè về khiến khu vườn trở nên tươi vui hẳn, những bản hòa ca, những thanh âm diệu kì của cuộc sống góp vào hè nét sống động, nên thơ.
Hè đến, cảnh vật còn được điểm tô bởi những gam màu rực rỡ, tươi tắn: Đó là sắc vàng của những lúa chiêm đang reo vui rộn rã trên cánh đồng quê “lúa chiêm đang chín”, là sắc vàng đậm của bắp rây “bắp rây vàng hạt”. Đó còn là màu hồng của “nắng đào”, màu xanh lá của cỏ cây và sắc xanh biếc của mây trời “trời xanh”. Tất cả hòa vào không gian cao rộng tạo nên một vẻ đẹp xao xuyến lòng người.
Bằng cảm nhận tinh tế của mình, tác giả gợi mùa hè không chỉ qua hình ảnh, âm thanh, màu sắc mà hè còn được gợi ra bởi những hương vị thanh khiết của tự nhiên. Hương nồng nàn của lúa bắp, hương dịu ngọt của trái cây trong vườn nhà vào độ chín, hương tinh khiết của nắng trời hòa vào bầu không khí trong lành khiến mùa hè càng thêm quyến rũ. Tác giả sử dụng các phó từ như “đang”, “dần”, “càng”, kết hợp khéo léo với các tính từ “chín”, “ngọt”, “rộng”; những động từ “gọi”, “ngân”, “lộn nhào” cũng được sử dụng vô cùng linh hoạt diễn tả được sự vận động bên trong của cảnh vật. Mùa hè sôi động, dạt dào sức sống, cảnh vật không hề tĩnh tại mà luôn vận động, luôn hướng về sự sống.
Qua bức tranh mùa hè đẹp đẽ, đầy khoáng đạt, tự do và thanh bình ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt của tác giả. Trong chốn ngục tù chật hẹp có thể chôn chân người lính trẻ nhưng nào có thể trói buộc tâm hồn trẻ trung, yêu đời kẻ thiết tha với nhân dân, với cuộc đời. Mùa hè tươi vui ấy phải chăng là tiếng gọi của tự do, của cuộc sống bên ngoài, của nỗi khát khao tự do mãnh liệt của một trái tim trẻ tuổi đang bị giam cầm.
Vốn đang say mê với lý tưởng, nhiệt huyết, niềm vui phơi phới đang ngập tràn trong tim, trở về với hiện thực khắc nghiệt, bị bó buộc tự do trong phòng giam chật chội, tù túng, bí bách khiến người lính trẻ không khỏi ngột ngạt, bức bối:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Mùa hè đang vẫy gọi, cuộc sống tự do, tươi đẹp bên ngoài đón chờ khiến lòng người không khỏi rạo rực, băn khoăn. Các tính từ, động từ mạnh như “ngột”, “chết uất”, “đạp” được sử dụng kết hợp với các từ cảm thán “ôi”, “thôi” cùng nhịp thơ bất thường 6/2; 3/3 nhấn mạnh cảm ngột ngạt đến cao độ và nỗi khát khao mãnh liệt được bước ra cuộc sống bên ngoài của người tù cách mạng. Những cảm xúc, tâm trạng phơi phới của tác giả trong những ngày được cống hiến, được say sưa với cuộc đời trước đây dường như bị thay thế bởi nỗi buồn đau đến tột độ khi bị giam cầm trong bốn bức tường lạnh lẽo. Bốn câu thơ khiến ta nhớ đến những lời cùng tâm trạng mà ông từng viết:
“ Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
Nỗi ngột ngạt bủa vây lấy tâm trí, ôm lấy tâm hồn người chiến sĩ, lời thơ buông theo cảm xúc uất ức, bức bối buông ra trong từng hơi thở, tất cả như muốn biến thành hành động phá tan xiềng xích để chạm lấy tự do “đạp tan phòng”, để vượt thoát ra ngoài. Nơi ấy có nhân dân mình, có đồng đội, đồng chí, nơi ấy có tự do để đôi chân được tiếp tục say sưa với cách mạng.
Âm thanh của tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ là một tín hiệu nghệ thuật độc đáo. Nếu tiếng chim tu hú ở đầu bài là tiếng chim gọi hè, sứ giả báo hiệu mùa hè đến, mở ra một khung cảnh mùa hè rộn ràng, đẹp đẽ thì tiếng tu hú cuối bài là tiếng kêu đầy khắc khoải, da diết gợi sự bức bối, thôi thúc khát khao cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là tiếng gọi của tự do- một tiếng gọi tha thiết mà đầy quyến rũ.
Bàng thể thơ lục bát giản dị mà nhịp ngàng, uyển chuyển cùng dòng cảm xúc tự nhiên, Tố Hữu đã viết nên một bài thơ đượm cảnh- đượm tình. Cảnh thì đẹp, dạt dào sức sống, tình thì sôi nổi, da diết mà sâu sắc. Một biểu hiện của lòng yêu nước, đẹp đẽ, sáng trong và mãnh liệt được hội tụ trong từng lời thơ, toát ra trong từng nhịp điệu của thi phẩm. Bài thơ đã gieo vào lòng bao thế hệ đọc giả lòng yêu nước thiết tha và tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống trên quê hương mình.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 28
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là ngôi sao sáng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, được tôn vinh là nhà thơ của nhân dân. Chặng đường thơ của ông gắn liền với chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Bài thơ “Khi con tu hú” sáng tác vào tháng 7/1939 khi tác giả bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ được coi là bức tranh tinh thần của Tố Hữu trong giai đoạn đầu giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Qua bài thơ, chúng ta có thể cảm nhận được tâm tư người chiến sĩ cách mạng bị giam giữ chốn ngục tù, niềm khao khát cuộc sống tự do cùng lí tưởng cách mạng của tác giả.
Tác phẩm có một nhan đề độc đáo, gợi mở mạch cảm xúc cho toàn bài thơ. Về cấu trúc, “Khi con tu hú” chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý, tạo nên cách nói nửa chừng gợi sự tò mò, thu hút đối với độc giả. Trong sáu câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện bức tranh thiên nhiên tươi sáng và dạt dào sức sống. Hàng loạt hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của mùa hè đã hiện ra: Lúa chiêm đang chín, trái cây đương chín, đôi diều sáo, bắp vàng, sân, vườn. Đó là những dấu hiệu vô cùng thân thuộc và gần gũi khi hè về:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Bằng tâm hồn tinh tế cùng giác quan nhạy cảm, tác giả đã tạo nên một bức tranh mùa hè sôi động và đậm chất hội họa với những nét vẽ về âm thanh, màu sắc, hương vị, không gian. Đó là thanh âm “tiếng chim tu hú gọi bầy”, “ve ngân” - những tín hiệu quen thuộc mỗi khi hè về gợi sự tươi vui, rộn rã. Bức tranh còn thêm phần rực rỡ với những gam màu tươi tắn: sắc vàng của “lúa chiêm đang chín”, “bắp rây vàng hạt”, sắc đào của nắng, sắc xanh của bầu trời. Đặc biệt, hương vị ngọt ngào đã được khắc họa thông qua mùi thơm của lúa, vị ngọt của trái cây. Không gian hiện lên cao rộng với sự xuất hiện của hình ảnh “đôi con diều sáo”. Đó không phải là những cánh diều lững lờ trôi êm đềm trên những cánh đồng lúa “thẳng cánh cò bay” mà hiện lên qua trạng thái “lộn nhào”, thả sức bay lượn giữa không trung, gợi sự khoáng đạt, tự do. Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho biểu tượng của cuộc sống tự do đang vẫy gọi? Phải chăng người chiến sĩ cách mạng đang thực hiện một cuộc vượt ngục tinh thần để thỏa sức bay lượn những những cánh diều? Tác giả đã sử dụng những phó từ chỉ thời gian như “đang, dần, càng”, kết hợp với các động từ mạnh “gọi”, “ngân”, “lộn nhào” để thể hiện sự vận động không ngừng nghỉ của cảnh vật. Như vậy, ở sáu câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể cảm nhận được bức tranh vào hè sôi động, rực rỡ và tràn đầy sức sống - một bức tranh đồng nội quê hương thật gần gũi, thân thuộc. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên, cảm nhận tinh tế với mọi biến chuyển của cảnh vật, gắn bó tha thiết với cuộc sống bên ngoài của tác giả. Ở bốn câu thơ tiếp theo, người chiến sĩ quay trở về với cuộc sống hiện tại:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Cảm xúc của người chiến sĩ cách mạng đã được bộc lộ một cách trực tiếp. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: “đạp tan”, “ngột”, “chết uất” kết hợp với những từ cảm thán “ôi”, “thôi”, “làm sao”. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng u uất, ngột ngạt, bức bối. Lúc này, nhà thơ đang bị bắt giam trong bốn bức tường của nhà tù lạnh lẽo. Tiếng đời cuộc sống ngoài kia cứ vẫy gọi, khiến cho tâm trạng người tù chiến sĩ cách mạng càng trở nên u uất, bức bối. Tất cả như những đợt sóng dồn dập và bủa vây lấy tâm trí tác giả, khiến khát vọng tự do trở nên tha thiết hơn bao giờ hết như muốn bật tung ra để trở về với cuộc sống sôi động bên ngoài. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh “Khi con tu hú gọi bầy”, đồng thời kết thúc bằng “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Nếu như tiếng chim ở đầu bài thơ là tiếng gọi đàn - tín hiệu, là sứ giả bắt nhịp cho dàn đồng ca mùa hè, mở ra khung cảnh mùa hè đẹp đẽ, rộn ràng, tươi vui thì ở cuối bài thơ, âm thanh tu hú “ngoài trời cứ kêu” là tiếng kêu khắc khoải, da diết, gợi lên sự bức bối, ngột ngạt và thôi thúc khát vọng tự do đang cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ. Như vậy, thông qua bốn câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được bức tranh tâm trạng tù túng, u uất và khát vọng tự do cháy bỏng trong tâm trạng người tù chiến sĩ cách mạng. Qua đó, cảm nhận sâu sắc về lòng yêu tự do cùng cuộc sống của tác giả.
Như vậy, bằng việc sử dụng thể thơ lục bát dân tộc uyển chuyển, linh hoạt; hình ảnh thơ phong phú, đậm chất hội họa và giàu sức gợi cùng giọng điệu thơ tự nhiên, tác giả đã tái hiện bức tranh mùa hè vui tươi, căng tràn sức sống cùng tiếng lòng cháy bỏng với khao khát tự do của người tù cách mạng. Qua đó, độc giả có thể cảm nhận được sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lí tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu ngọn bút của nhà thơ Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Khi con tu hú - Mẫu 29
Tố Hữu là nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ ca Cách mạng. Con đường thơ của Tố Hữu có sự hòa quyện thống nhất với cuộc đời cách mạng. Có thể nói những kho tàng thơ văn của ông chính là cuốn biên niên sử bằng thơ bởi mỗi sự kiện, từng bước chuyển mình của lịch sử được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm. Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác năm 1939 khi Tố Hữu đang bị giam giữ trong nhà ngục ở Thừa Thiên. Bài thơ là lòng yêu cuộc sống và khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi.
Mở đầu bài thơ là tiếng tu hú đang cất lên từng hồi tha thiết. Tu hú là loài chim rất đặc trưng của mùa hè, tiếng chim tu hú ấy cất lên không chỉ gọi mùa hè tới mà còn đánh thức đánh thức tình yêu cuộc sống, yêu tự do đang âm ỉ cháy trong lòng người chiến sĩ cách mạng:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi mát, sống động mở ra trước mắt độc giả. Bức tranh ấy có đủ âm thanh, màu sắc, những hình ảnh sống động và cả không gian rộng lớn, khoáng đạt. Âm thanh tiếng tu hú, tiếng ve, tiếng sáo diều vi vu làm cho bức tranh mùa hè trở nên sôi động, náo nhiệt. Điểm xuyết cho bức tranh tươi vui, rộn rã ấy là những gam màu rực rỡ, tươi sáng, đó là màu vàng rực của lúa chín, bắp rây, màu nắng “đào” ửng hồng, màu xanh của da trời lồng lộng, màu của trái cây đang độ chín. Không gian cao rộng của bầu trời và hình ảnh những con diều sáo lộn nhào “từng không” càng tô đậm thêm ấn tượng về một không gian rộng lớn, khoáng đạt, đó là thế giới của sự sống, là thế giới của tự do . Bức tranh mùa hè rực rỡ, căng tràn sự sống được Tố Hữu cảm nhận bằng nhiều giác quan và bằng chính trái tim nhạy cảm, tha thiết yêu đời, yêu tự do của người thi sĩ, chiến sĩ.
Tố Hữu giác ngộ Cách mạng từ năm mười tám tuổi, khi còn là một chàng trai bơ vơ giữa cuộc đời. Khi dấn thân vào con đường Cách mạng, ông hiểu rõ:
“Đời cách mạng từ đây tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày”
Giờ đây, ông càng hiểu rõ hoàn cảnh của mình, thế nhưng, một người cách mạng nhiệt huyết làm sao có thể chịu nổi cái cảnh tù đày ngột ngạt này. Nó bức bối quá, ngột ngạt quá, khiến ông phải thốt lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khung cảnh mùa hè ngoài kia đẹp quá đỗi mà tiếc rằng nó chỉ ở trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Bởi ông đang ở giữa bốn bức tường lạnh lẽo của nhà tù thực dân. Tố Hữu cảm thấy bức bối, ngột ngạt, nhà thơ khát khao được tự do, muốn đắm mình tận hưởng cảnh sắc, hương vị của mùa hè và quan trọng hơn nhà thơ muốn tiếp tục hành trình cách mạng còn dang dở của mình.
Tố Hữu đã dùng ở đây một loạt những động từ mạnh như “đạp tan”, “ngột”, “chết uất” để diễn tả sự ngột ngạt, bức bách đến tột cùng của mình. Ông muốn phá tan xiềng xích, phá tan nghịch cảnh để trở về với tự do, trở về với sự nghiệp cách mạng. Cái cảm xúc bức bối ấy được thể hiện càng rõ hơn qua các từ cảm thán như “ôi, làm sao, thôi”. Nhịp thơ ở đoạn thơ này cũng dồn dập, mạnh mẽ hơn đoạn thơ trước, nó như dòng sông cảm xúc cuộn trào trong lòng người thì sĩ.
Bài thơ mở ra bằng tiếng chim tu hú, kết lại cũng bằng tiếng chim tu hú tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng. Nếu ở đầu bài thơ, tiếng chim tu hú gọi về mùa hè, đánh thức tình yêu cuộc sống mãnh liệt nơi tâm hồn nhà thơ thì tiếng chim tu hú cuối bài lại đẩy sự bức bối, u uất của nhà thơ lên cao trào. Tiếng chim tu hú là biểu tượng cho tự do, cho sự sống, tiếng chim ấy khiến người tù cách mạng trẻ tuổi phải bồn chồn, bức bối, ngột ngạt đến tận cùng! Ông muốn thoát ra để hòa mình vào thiên nhiên, hòa mình mà tận hưởng tiếng tu hú ấy!
Bài thơ Khi con tu hú được viết bằng thể thơ lục bát hết sức quen thuộc với người dân Việt Nam ta với nhịp thơ linh hoạt. Theo dòng cảm xúc của nhà thơ khiến người đọc như được hòa mình vào dòng cảm hứng bất tận của Tố Hữu. Hơn thế, những ngôn từ trong thơ vô cùng giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, ca từ da diết, thể hiện một tình yêu tha thiết vào cuộc sống, một khát khao tự do mãnh liệt.
Khi con tu hú là bài thơ được viết vào năm Tố Hữu mới chỉ mười chín tuổi. Thế nhưng, cũng như Từ ấy, bài thơ minh chứng cho một tài năng thơ ca cực kỳ xuất sắc. Đó là tấm lòng yêu cuộc sống sâu sắc, khát khao tự do cháy bỏng của người tù cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 8 hay nhất tại đây: