TOP 10 Đoạn văn nghị luận mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng (2024) SIÊU HAY

Dưới đây là TOP 10 Đoạn văn nghị luận mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng hay nhất hướng dẫn chi tiết, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh, giúp cải thiện khả năng viết văn của các em. Mời các em tham khảo:

Đề bài: Nghị luận mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng.

Mẫu số 1

Con người muốn trưởng thành và hoàn thiện bản thân thì bên cạnh cách rèn luyện những tri thức cần thiết để theo đuổi ước mơ cũng rất cần nuôi dưỡng tâm hồn để có thể cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống. Và những tác phẩm văn học ra đời có nhiệm vụ ươm mầm cho cảm xúc con người. Chính vì thế, ý kiến: “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng” hoàn toàn đúng đắn và chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa.

Để hiểu hơn về ý nghĩa câu nói, trước hết ta cần cắt nghĩa, lí giải từng thành tố. Tác phẩm lớn chính là những tác phẩm mang dấu ấn của từng giai đoạn, từng thời kì, mở ra trước mắt người đọc những hiểu biết phong phú về cuộc sống xã hội con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp. Vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm làm lay động bao trái tim người đọc và có sức sống lâu bền với thời gian. Còn ánh sáng của tác phẩm là cảm xúc, tâm sự, tấm lòng, tinh thần của thời đại… mà nhà văn đã chuyển hoá vào trong tác phẩm. Ánh sáng ấy có khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của ta, chiếu toả soi rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ… Mỗi tác phẩm mang một ánh sáng riêng in đậm dấu ấn, phong cách riêng của nhà văn, từ cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, bày tỏ quan điểm, cách nhìn cuộc sống đều mang nét riêng độc đáo giúp cho độc giả có cái nhìn chân thực về nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống và từ đó hình thành ra nhiều nét cảm xúc khác nhau đối với mỗi người. Từ đây ta có thể khẳng định, tác phẩm văn học nói riêng và văn học nói chung có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng và to lớn đối với việc giúp con người nhận thức, nuôi dưỡng tình cảm, tâm hồn.

Tuổi học trò được cắp sách đến trường là một đặc ân của những người trẻ như chúng ta. Thật vinh dự khi ta được tiếp thu tinh túy từ những tác phẩm văn học nổi bật đã được chọn lọc kĩ lưỡng để đưa vào chương trình sách giáo khoa. Mỗi văn bản đều có nội dung, ý nghĩa và bài học riêng nhưng chúng đều điều hướng con người đến mục đích cuối cùng là biết nói lời hay, làm việc tốt, biết sống tình cảm. Nếu Chuyện người con gái Nam Xương khiến cho độc giả thêm thấu cảm, yêu thương, trân quý hình ảnh người phụ nữ trong xã hội cũ tài sắc vẹn toàn nhưng có số phận bất hạnh vì họ phải chịu nhiều khó khăn, bất công thì sang đến Lặng lẽ Sa Pa ta lại thêm ngưỡng mộ một anh thanh niên luôn cống hiến hết mình cho tổ quốc với tinh thần lạc quan, vui vẻ hiếm thấy. Hay như truyện ngắn Chiếc lược ngà khiến ta không khỏi bùi ngùi, xúc động vì tình cảm cha con thắm thiết, sâu sắc cùng những nét cá tính của bé Thu đã lấy đi nước mắt của bao thế hệ học sinh. Hay như tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, thắm thiết nhất dù trong hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khó khăn, khắc nghiệt qua bài thơ Đồng chí đã giúp ta thêm thấu hiểu, yêu thương và trân trọng nền hòa bình, độc lập mà ta đang hiện có để có thêm động lực phấn đấu vì một tương lai tươi sáng hơn. Dù là khai thác ở bất cứ đề tài, khía cạnh nào đi nữa thì mỗi tác phẩm cũng đều giúp con người có những tình cảm, suy tư khác nhau để từ đó xem xét lại cách sống, suy nghĩ của bản thân sao cho tốt đẹp, tích cực hơn.

Với những ý nghĩa, vai trò to lớn của mình đối với con người và xã hội, những tác phẩm văn học xứng đáng được tôn vinh, ngợi ca và lưu truyền nhiều thế hệ. Mỗi chúng ta được sống trong thời bình như hiện nay, với cuộc sống no đủ, điều kiện thuận lợi để phát triển bản thân cũng như có một kho tàng văn học phong phú, đa dạng để tiếp thu, học hỏi thì hãy nỗ lực hết sức mình để hoàn thiện bản thân, để có thể cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho nhân loại.

Mẫu số 2

Văn chương luôn cho con người nhiều điều bổ ích. Nó mở rộng tâm hồn ta, cho ta nhiều xúc cảm. Nó giúp ta hiểu về chính mình, con người và xã hội. Gặp các tác phẩm lớn, ta lại càng được mở mang thêm nhiều điều, khai thác đầy đủ các khía cạnh khác nhau của một chủ đề. Khẳng định vai trò lớn lao ấy, nhà văn Nguyễn Đình Thi có viết:

“Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng…”.

Chỉ với một câu văn mà ông đã gợi ra trong tôi nhiều điều suy ngẫm. “Tác phẩm lớn” là tác phẩm mang dấu ấn của thời đại, hiện thực, xã hội,…; hướng con người đến những điều tốt đẹp. “Một ánh sáng riêng” là quan niệm, tình cảm, tư tưởng… mà tác giả cất công lồng ghép vào tác phẩm của mình. Mỗi tác giả đặt ra mỗi vấn đề, có cách nghĩ khác nhau, có cách diễn đạt khác nhau. Vậy nên, ánh sáng của mỗi tác phẩm là mỗi “ánh sáng riêng”. Với câu văn giàu hình ảnh so sánh, nhà văn đã khẳng định: Đọc các tác phẩm lớn, ta sẽ tiếp thu các tư tưởng, nội dung… mang bản sắc riêng của từng tác giả. Đó có thể là những hiểu biết về tự nhiên và xã hội. Đó có thể là nhạc điệu trữ tình khiến ta vui, buồn, giận, ghét… Nhưng vô hình chung, chúng đều hướng người đọc đến cái “chân – thiện – mỹ”. Từ đó, các tác phẩm sẽ để lại giá trị lâu dài và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Tôi là một người yêu văn. Và tôi cũng đã từng đọc nhiều “tác phẩm lớn”. Tâm hồn tôi trải dài theo từng trang văn, trải rộng theo các từ ngữ diệu kì. “Ánh sáng riêng” trong tôi là những gam màu đặc sắc. Có lẽ “ánh sáng” lung linh nhất chiều vào tôi đến từ truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn người Mĩ O-hen-ri.

Truyện ngắn lấy không gian là một nhà trọ ở gần Oa-sinh-tơn với cốt truyện xoay quang ba họa sĩ nghèo (Xiu, Giôn-xi, cụ Bơ-men). Với bối cảnh đơn giản ấy, tác phẩm đã “rọi” vào trong tôi rất nhiều thứ “ánh sáng”, đến ngay lăng kính bảy màu của Niu-tơn cũng không thể sánh bằng.

“Ánh sáng riêng” đầu tiên mà tôi nhận được từ O-hen-ri là bài học về sự lạc quan: Sống trong đời, con người cần yêu cuộc sống; có niềm tin yêu, sự lạc quan và nghị lực để vươn đến sự sống. Chúng ta có thể thấy rõ “ánh sáng” ấy toát lên từ nhân vật Giôn-xi rất nhiều. Cô bị bệnh phổi và cô buông mình chờ chết, không còn niềm tin để khát khao sống tiếp. Ví như chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống thì cô cũng “rụng” theo. Có thể chính nỗi tuyệt vọng và buồn bã ấy đã khiến bệnh tình ngày một thêm nặng. Nhưng sau khi chứng kiến cảnh chiếc lá vẫn còn thì mọi chuyện khác hẳn. Cô yêu cuộc sống trở lại, muốn được “vẽ vịnh Na-plo khi khỏi bệnh”. Cũng đúng thôi! Một chiếc lá nhỏ bé, sau một cơn bão khủng khiếp, vẫn cố gắng bám níu cành cây để tiếp tục được sống. Tại sao con người như chúng ta lại không thể? Tác giả đã truyền cho chúng ta niềm tin và tình yêu vào cuộc sống. Dẫn chứng là việc Giôn-xi thuyên giảm bệnh tình sau khi lạc quan trở lại. Phải chăng con người và cuộc sống đều đáng và cần được lạc quan như vậy? Vì đời đẹp và con người là đáng quý. Hãy mỉm cười và đừng bao giờ quay lưng với cuộc đời: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.

Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng…

Sống để được thương yêu và yêu thương người khác. Đó là “ánh sáng” thứ hai mà tác giả “rọi” vào tâm hồn tôi. Như Giôn – xi với căn bệnh hiểm nghèo, cô được mọi người quan tâm, săn sóc và thậm chí hi sinh vì cô. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi sống giữa tình thương của mọi người, song ban đầu cô lại không nhận ra mà lại chực chờ cái chết. Như Xiu và cụ Bơ-men với tình yêu thương bao la, họ yêu thương Giôn-xi như người ruột thịt. Xiu như chị gái của Giôn-xi, chăm sóc em hết lòng dù cô cũng nghèo như ai cả. Cụ Bơ-men lại có thể hi sinh vì Giôn-xi, chín cụ đã đứng giữa trời mưa gió để vẽ chiếc lá vốn đã bị gió cuốn đi. Cụ ra đi vì bệnh sưng phổi nặng, để đổi lại cho Giôn-xi cuộc sống vẹn toàn. Nhưng trong Xiu, Giôn-xi và tôi, cụ sẽ không chết vì tấm lòng “vàng” của cụ vẫn còn. “Chết như sống”, liệu đó có phải là nghệ thuật sống đẹp đẽ nhất khi ta hi sinh vì người khác?

“Ánh sáng” cuối cùng mà O-hen-ri truyền đạt khi viết truyện ngắn này là quan niệm về nghệ thuật. Quan niệm này đã đưa “Chiếc lá cuối cùng” trở thành “bức thông điệp màu xanh về tình yêu thương”. Nghệ thuật có hai mục đích cơ bản” “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Ở O-hen-ri, ta bắt gặp cả hai mục đích tốt đẹp ấy. Cụ Bơ-men mong muốn vẽ được một kiệt tác, cuối cùng, tâm nguyện ấy đã thành hiện thực. Chiếc lá cụ vẽ ra thật và đẹp đến nỗi họa sĩ trong nghề như Xiu và Giôn-xi cũng không nhận ra đó là “tranh vẽ”. Phải chăng đó là “Nghệ thuật vị nghệ thuật”? Song giá trị nhân văn của truyện là ở chỗ chiếc lá đã cứu sống Giôn-xi. Và cái giá đắt phải trả là mạng sống của cụ già tội nghiệp – chủ nhân bức tranh. Nhưng cụ hóa thân bất tử vào chiếc lá để nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu thương. Cụ chưa từng chết! Một người nghệ sĩ chân chính như cụ biết cách để hòa mình bất tử vào cuộc sống để giúp đời, giúp người. Quả không sai khi có thể xem chiếc lá cụ vẽ là một kiệt tác. Quan niệm của O-hen-ri như được tôn cao thêm vì chiếc lá: Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc sống.

Bằng cách kể chuyện hấp dẫn và cảm động, kết hợp đảo ngược tình huống hai lần, truyện ngắn đã truyền vào tôi những “ánh sáng” diệu kì. Tôi có quan niệm đẹp về nghệ thuật và tôi sẽ viết nó vào trang đầu tiên trong nhật kí làm văn. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên truyện ngắn ấy cùng nhà văn ấy. “Chiếc lá cuối cùng” sẽ sống trong tôi như một nghệ thuật, như một linh hồn.

Giờ đây, tôi lại thấm thía thêm nội dung câu văn của Nguyễn Đình Thi. Mỗi lần đọc lại bài “Tiếng nói của văn nghệ”, gặp đến câu văn ấy, tôi lại dừng lại, suy tư, ngẫm nghĩ. “Chiếc lá cuối cùng”, “Cô bé bán diêm”, “Tắt đèn”, “Lão Hạc”… ùa về trong tôi lúc nào không hay. Để rồi tôi quên rằng mình đã dừng lại cả tiếng đồng hồ. Vì sao tôi lại thế? Có phải vì các tác phẩm ấy rất “lớn” và từng “ánh sáng” ấy rất riêng? Hay là vì tôi đã hóa thân vào văn chương diệu kì? Tôi không hay biết.

Mẫu số 3

Trong hành trình trưởng thành và hoàn thiện bản thân, không chỉ tri thức mà còn tâm hồn đóng vai trò quan trọng. Câu nói “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng” đúng đắn, vì nó mô tả chính xác vai trò của văn học trong việc ươm mầm và phát triển cảm xúc con người.

Tác phẩm lớn không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà là một bức tranh đậm chất xã hội, thể hiện sự phong phú và đa dạng của cuộc sống. Những tác phẩm này không chỉ mở ra hiểu biết sâu sắc về con người và xã hội qua từng giai đoạn lịch sử mà còn chứa đựng vẻ đẹp thẩm mĩ, làm đảm bảo sức sống lâu bền qua thời gian.

Ánh sáng của tác phẩm không chỉ đến từ sự tài năng văn chương của tác giả, mà còn là cảm xúc, tâm hồn, và tinh thần của thời đại được chuyển hoá một cách tinh tế. Đây là ánh sáng kì diệu có khả năng tác động sâu sắc vào nhận thức, tư tưởng, và tình cảm của người đọc. Tác phẩm mang một ánh sáng riêng, điều này làm nổi bật phong cách độc đáo của nhà văn, từ cách giải quyết vấn đề, bày tỏ quan điểm, đến cách nhìn nhận cuộc sống.

Chúng ta, những người trẻ may mắn có cơ hội tiếp xúc với những tác phẩm nghệ thuật nổi bật, được chọn lọc kỹ lưỡng trong chương trình giáo dục, đặc biệt là trong thời kỳ học trò. Mỗi tác phẩm mang theo mình những bài học, ý nghĩa, và nội dung riêng biệt nhưng đều hướng con người đến mục tiêu chung: biết nói lời hay, làm việc tốt, và biết sống tình cảm. Chẳng hạn, Chuyện người con gái Nam Xương gợi lên sự thấu hiểu và yêu thương về hình ảnh phụ nữ trong xã hội cũ. Ngược lại, Lặng lẽ Sa Pa mang đến câu chuyện về một anh thanh niên lạc quan, vui vẻ, luôn cống hiến cho tổ quốc.

Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một viên ngọc quý, giúp nuôi dưỡng tâm hồn và cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Chúng tôi không chỉ cảm nhận một cảm xúc, một tình cảm, mà còn khám phá và trải nghiệm sự đa dạng của cảm xúc con người thông qua từng câu chuyện, từng đoạn văn. Điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân và xã hội xung quanh, mở ra một cánh cửa cho nhiều nét cảm xúc, suy nghĩ khác nhau.

Trong những năm học, từng trang sách là một bữa tiệc tri thức và tâm hồn. Chuyện người con gái Nam Xương, Lặng lẽ Sa Pa, Chiếc lược ngà, Đồng chí – mỗi tác phẩm là một mảnh ghép quan trọng trong bức tranh văn hóa giáo dục của chúng ta. Chúng mở ra những cánh cửa mới, khơi dậy sự tò mò, kích thích tư duy, và hình thành những giá trị nhân văn sâu sắc.

Với sự hiểu biết và tư duy mà những tác phẩm văn học mang lại, chúng ta trở nên nhạy bén, sâu sắc hơn trong cách nhìn nhận và đối diện với thế giới xung quanh. Từ những tâm hồn được “rọi sáng” bởi những ánh đèn riêng của mỗi tác phẩm, chúng ta có thể xây dựng những giá trị tích cực, đóng góp cho xã hội, và trở thành những con người trưởng thành và có ý thức về tình cảm, đạo đức, và nhân quả.

Mẫu số 4

Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm nghệ thuật là kết tinh tình cảm của nhà văn đối với sự sống. Trong Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi có viết: “Mỗi tác phẩm như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi…” . Nguyễn Duy trong bài thơ Ánh trăng đã tích cóp thứ ánh sáng riêng ấy và chiếu vào tâm hồn người đọc, làm khởi phát những cảm xúc mới mẻ. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, ta nhìn thấy rõ những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

Ánh sáng riêng là những điều tốt đẹp, khác biệt, độc đáo được gửi gắm qua mỗi tác phẩm. Không bao giờ nhòa đi là không phai nhạt, không thể mất đi, nó được khắc sâu và trở thành ánh sáng của tâm hồn. Soi rọi vào tâm hồn là làm bừng sáng, thức tỉnh những điều lương thiện, những điều tốt đẹp trong tâm hồn người đọc.

Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã khẳng định những tác động mạnh mẽ của tác phẩm văn học đối với tâm hồn người đọc. Văn học làm thức tỉnh tâm hồn con người, hướng con người những điều tốt đẹp nhất. Đây là chức năng giáo dục, chức năng cảm hóa của văn học.

Bài thơ khai thác đề tài về đời sống nội tâm của người lính trong thời bình, giữa cuộc sống đời thường. Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm. Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại. Con người ngập ngụa trong đời sống tiện nghi đã đánh mất bản chất cao quý của chín mình. Một quá trình tha hóa đột ngột, đáng báo động. Nếu không thức tỉnh, không có giải pháp chấn chỉnh, có lẽ, nó sẽ gây ra những hậu quả ghê gớm ở tương lai. Lời cảnh tỉnh của Nguyễn Duy có lẽ chúng ta hôm nay đã rất thấm thía.

Vầng trăng là nguồn sáng bất tận của vũ trụ. Trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành,cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng còn là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình Hai hình tượng nghệ thuật trung tâm là ánh trăng và người lính đã góp phần thể hiện được tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Sống phải biết trân trọng và đề cao lối sống thủy chung tình nghĩa, không thờ ơ bạc bẽo với quá khứ, biết trân trọng giá trị của quá khứ.

Hình ảnh vầng trăng gắn với những kỉ niệm tuổi thơ, gắn với kỉ niệm một thời lính chiến của nhà thơ đã đánh thức những kỉ niệm, những kí ức trong lòng mỗi người, đánh thức những cảm xúc trong trẻo, đẹp đẽ nhất trong mỗi chúng ta về thời quá khứ nghĩa tình, thủy chung. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm, lương tri trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

Những tâm sự mà Nguyễn Duy gửi gắm qua bài thơ đã làm thức tỉnh trong lòng thế hệ trẻ hôm nay nhiều điều thấm thía. Giữa bộn bề lo toan của cuộc sống đời thường, giữa những vội vã gấp gáp của nhịp sống hiện đại, hãy tìm kiếm những khoảnh khắc sống chậm lại để nhìn lại quá khứ, để nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với con người và cuộc đời.

Bài thơ còn là lời nhắc nhở chân tình rằng chúng ta sống không được thờ ơ, phũ phàng với quá khứ. Sống với ngày hôm nay nhưng không thể hoàn toàn xóa sạch kí ức của ngày hôm qua, luôn thủy chung, giữ trọn vẹn nghĩa tình với quá khứ, trân trọng những điều thiêng liêng đẹp đẽ trong quá khứ.

Sống cần có bản lĩnh và dám dũng cảm đối diện với chính bản thân mình, đối diện với lương tâm mình để nhìn nhận rõ những sai lầm. Khoảnh khắc lương tâm thức tỉnh là khi sự thánh thiện, lối sống tình nghĩa, thủy chung được thức tỉnh trong tâm hồn; sự vô tình vô nghĩa, thái độ sống thờ ơ vô cảm, thậm chí sự vô ơn, bạc bẽo,… bị đẩy lùi.

Trong cuộc sống hiện đại đương thời, nhịp sống vội vàng, gấp gáp, con người có nhiều to toan, bận rộn… nên đôi khi thờ ơ với quá khứ, thậm chí sống nhanh, sống gấp, thờ ơ với cả những gì thân thuộc đang diễn ra ngay xung quanh mình. Tuổi trẻ ngày nay có vẻ đã lãng quên những chặng đường đau thương mà dân tộc ta đã đi qua, những tháng ngày gian khổ mà dân tộc ta đã nếm trải, những mất mát hi sinh mà dân tộc ta đã gánh chịu trong cuộc chiến chống kẻ thù xam lược.

Tuổi trẻ ngày nay chỉ mãi mê với công việc hoặc là làm giàu, hoặc là vui chơi, hoặc là sa ngã vào tệ nạn. Tuổi trẻ ngày nay sống vô cảm, hèn kém và yếu đuối. Họ không còn nhớ rằng hòa bình, độc lập và nền kinh tế vững mạnh, cuộc sống phát triển của ngày hôm nay là đắp bằng xương máu của lớp lớp người đã lấy thân mình chở che cho tổ quốc. Thấu hiểu được điều đó, là học sinh, chúng ta phải biết quý trọng quá khứ, biết ơn những thế hệ đi trước đã để lại những thành quả lao động quý giá cho chúng ta hôm nay, chăm chỉ học tập, không ngừng nỗ lực hết mình chiếm lĩnh tri thức, hoàn thiện bản thân trở thành người hữu ích, mai này đem sức mình xay dựng quê hương, đất nước.

Ý kiến của Nguyễn Đình Thi khẳng định chức năng giáo dục, chức năng cảm hóa tâm hồn con người của tác phẩm văn học. Đây là chức năng quan trong nhất và có giá trị nhất của văn học. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã thực hiện tốt chức năng ấy, đã “rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi…” và có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn người đọc, gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

TOP 30 bài nghị luận xã hội về sự hy sinh thầm lặng trong cuộc sống (2023) HAY NHẤT

TOP 30 bài nghị luận xã hội về câu nói thời gian là vàng (2023) HAY NHẤT

TOP 20 bài nghị luận về lòng biết ơn thầy cô giáo (2024) HAY NHẤT

TOP 20 bài nghị luận về hiện tượng biến đổi khí hậu 2024 SIÊU HAY

TOP 20 đoạn văn 200 chữ nghị luận về sự lắng nghe 2024 SIÊU HAY

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!