DÀN Ý PHÂN TÍCH VỘI VÀNG
Sơ đồ tư duy
Dàn ý phân tích
Mẫu dàn ý phân tích 1
a) Mở bài
- Rút trong tập Thơ thơ, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
- Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.
b) Thân bài
* Bố cục của bài thơ
Bài thơ có thể chia làm ba đoạn:
- Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm của tác giả.
- Đoạn 2 (câu 14 đến câu 30): Tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
- Đoạn 3 (9 câu cuối): Tâm trạng vội vàng, thái độ sống gấp gáp của tác giả, đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu.
=> Bố cục của bài thơ khá rõ ràng, thể hiện mạch lí luận sâu sắc và chặt chẽ. Đó là mạch cảm xúc hối hả, vội vàng trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
* Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.
- Thời gian và mùa xuân
+ Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Xuân Diệu viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như Xuân Diệu.
+ Đối với Xuân Diệu, mỗi khắc thời gian trôi qua chính là niềm lo sợ, canh cánh trong lòng.
+ Tác giả sử dụng cú pháp đối lập để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già.
=> Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
+ Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn, và khi xuân không còn thì đời người cũng hết.
+ Cảm nhận về sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu khái quát thành một triết lí nhân sinh.
-> Chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận về thời gian một cách cao sâu như vậy.
=> Hẳn là trong Xuân Diệu đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân của mình. Có thể gỉải thích bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của sống.
- Thời gian và tuổi trẻ
+ Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, của tác giả.
+ Thời gian làm mùa xuân trôi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình.
+ Tâm trạng lo lắng đó đã được tác giả bộc bạch trong những câu thơ đầy triết lí:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
+ Câu thơ tưởng chừng là lời than vãn nhưng hiện lên trong đó là một quan niệm sâu sắc: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, và khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn và nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất.
+ Với Xuân Diệu, tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, đó là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Chính vì vậy tuổi trẻ trôi qua là điều nhà thơ lo lắng nhất và tiếc nuối nhất: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
=> Cảm nhận về thời gian của tác giả làm hiện lên niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.
* Cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và sự sống trong bài thơ
- Nhà thơ giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
- Bức tranh thiên nhiên có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ, tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất.
+ tuần tháng mật của ong bướm
+ hoa của đồng nội xanh rì
+ lá của cành tơ phơ phất
+ khúc tình si của yến anh
+ hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời...
-> Tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.
- Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất.
- Điệp khúc này đây cùng với các liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dùng từ láy, từ ghép và những cụm từ tuần tháng mật, khúc tình si hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có nhịp thơ gấp gáp, vừa có gì như là sự hối thúc, giục giã, khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng.
- Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng. Đó là lời tác giả muốn nhấn mạnh khi khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ.
- Nhà thơ như say khi thốt lên:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
+ Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và lối diễn độc đáo mới lạ.
+ Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn...
+ Xuân Diệu đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng cặp môi gần, truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ ngon, gần.
=> Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.
* Quan niệm sống mới mẻ
- Yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng.
- Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người.
-> Đó là quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.
- Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
- Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.
c) Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ
Ví dụ: Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn thông qua cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932 - 1941.
Mẫu dàn ý phân tích 2
a) Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu là nhà thơ đa tài, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” với phong cách nghệ thuật độc đáo, được mệnh danh là ông Hoàng thơ tình Việt Nam.
+ Bài thơ Vội vàng rút ra trong tập Thơ Thơ, là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp thơ Xuân Diệu trước Cách mạng. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt.
b) Thân bài
* Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê cuộc sống trần thế
- Thiên nhiên rất đẹp, đầy hương sắc của hoa đồng nội xanh rì, của lá cành tơ phơ phất, tuần tháng mật của ong bướm, khúc tình si của yến anh, và này đây ánh sáng chớp của hàng mi.
- Chữ "này đây" được nhắc lại 5 lần để diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
- Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc Thần Vui hằng gõ cửa.
- Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như một cặp môi gần".
+ Một chữ "ngon" chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo.
+ Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ.
-> Đây là câu thơ hay nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
=> Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa - cách nói rất thơ - chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên.
+ Dấu chấm giữa dòng thơ rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về vội vàng:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân."
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoài niên mà đã “vội vàng một nửa”... -> Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
* Nỗi trăn trở trước thời gian và cuộc đời
- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói: Thời gian là vàng ngọc; Bóng ngả lưng ta; Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại.
- Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...
+ Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn để khẳng định một chân lí - triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại vì vậy cần phải quý tuổi xuân.
- Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi...
- Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
- Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ
- Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
- Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng.
- Chợt tỉnh mùa chưa ngả chiều hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già.
- Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. -> Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ/ ôi/ Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi/ mùa chưa ngả chiều hôm...
- Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm Thơ tiếc cảnh:
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
(Bài số 3)
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm.
(Bài số 7)
=> Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.
* Khát vọng sống, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả
- Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở: Tôi muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê.
- Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả, ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
- Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là khao khát của thi nhân:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
c) Kết bài
- Cảm nhận của em về bài thơ Vội Vàng
Ví dụ: Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Mẫu dàn ý phân tích 3
1. Mở bài:
- Giới thiệu về nhà thơ Xuân Diệu
- Giới thiệu về thi phẩm “Vội Vàng”.
2. Thân bài:
a) Khái quát chung: giới thiệu về hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của bài thơ.
b) Phân tích bài thơ:
b.1) Niềm say đắm trước vẻ đẹp của mùa xuân trên trần thế:
- Thể thơ ngũ ngôn, nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn”, giọng thơ sôi nổi, qua đó thể hiện khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa cháy bỏng, tha thiết, một khát vọng kì lạ bởi tác giả muốn níu giữ hương sắc, vẻ đẹp của cuộc đời, muốn níu kéo thời gian để bất tử hóa vẻ đẹp của mùa xuân.
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện ra với vẻ đẹp tươi mới, đó là một vẻ đẹp ngay trong chính trần gian này. tất cả đều ở trạng thái quyến rũ nhất và say sưa nhất: “của ong bướm này đây tuần tháng mật, “này đây hoa của đồng nội xanh rì”, “này đây lá của cành tơ phơ phất”,.. tất cả đều rất tươi mới và chân thực. “và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng như phát ra từ đôi mắt của người thiếu nữ khi nàng chớp hàng mi, gợi một vẻ đẹp ngây thơ, trong lành. Nghệ thuật so sánh cái vô hình với cái hữu hình “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” gợi sự quyến rũ, ngọt ngào và đắm say, cho thấy niềm say mê đến vồ vập của thi sĩ trước cuộc đời. qua đó, thấy được quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của xuân diệu: con người là chuẩn mực cái đẹp khi ở độ tuổi thanh xuân.
- Hai câu thơ cuối giọng thơ lắng xuống. Ngay trong sung sướng, thi nhân đã bắt đầu phải vội vàng, đang trong hạnh phúc đã thấy mầm móng của li biệt.
b.2) Nuối tiếc trước dòng thời gian chảy trôi:
- Ba câu đầu: sử dụng lối nói định nghĩa “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Nếu các nhà thơ xưa thường nhìn thời gian theo một vòng tuần hoàn thì xuân diệu lại nhìn thời gian ở một thế chảy trôi, thời gian một đi mà không quay trở lại “mau với chứ thời gian không đứng đợi/ mau với chứ vội vàng lên với chứ”. Ông ý thức được rằng mùa xuân của cuộc đời đi qua thì cuộc đời cũng qua mau bởi tuổi xuân là tuổi đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của con người. Đây thực chất là sự ảnh hưởng của tư duy pháp.
- Ý thức được về sự chảy trôi của thời gian, xuân diệu cảm thấy bâng khuâng và tiếc nuối. thi nhân hình dung cả một cuộc chia ly đầy ắp đất trời, thấm đượm tháng năm “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. “Mùi tháng năm” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, cho thấy sự tương giao trong cách cảm nhận. cuộc chia ly ấy như thấm cả vào những thứ vô hình, khi xuân qua đi thì cỏ cây, con người đều buồn: sông núi thì “than thầm”, gió thì “hờn”.
b,3) Khát khao sống mãnh liệt:
- Giọng thơ hối hả, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu cảm thán thể hiện sự giục giã. Nghệ thuật điệp cấu trúc, điệp từ, liệt kê tạo cho những câu thơ nhịp điệu nhanh, mạnh như một làn song trào dâng cảm xúc. động từ “ôm”, “say”,.. thể hiện khát khao , sự cuồng nhiệt muốn giao cảm với cuộc đời. nhà thơ xưng “tôi” thể hiện một khát vọng cá nhân mãnh liệt, táo bạo. ở đây, thi sĩ lại xưng “ta” để như mở rộng lòng mình với cuộc đời. “ta” ở đây chính là sự mở lòng, mở rộng tấm lòng với cuộc đời, với nhân sinh.
- Lời giục giã “mau đi thôi” làm cho câu thơ mang một ngữ điệu mới, khác hẳn với câu thơ cổ: ngữ điệu nói. trong thơ cổ, lỡi lẽ thường phải rất chắt lọc, còn Xuân Diệu lại sử dụng những từ ngữ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần .
- Ta cảm nhận như dòng cảm xúc của nhà thơ đang tuôn trào vượt ra ngoài từ ngữ. giọng thơ thể hiện tâm trạng vội vàng phù hợp với những hành động gấp gáp của thi nhân. hình ảnh thơ mơn mởn với mây đưa gió lượn, cánh bướm, cây, cỏ rạng, ánh sáng,… Điệp ngữ “ta muốn” thể hiện một khát vọng cháy bỏng. nhà thơ như muốn tận hưởng cuộc đời và sự quý giá của cuộc sống nơi trần gian. với xuân diệu, mùa xuân là một màu hồng nồng ấm, muốn cắn vào trái chín mùa xuân, trái chín cuộc đời.
- Nhà thơ như đang say men cảm xúc với cuộc đời. sống “vội vàng” ở đây không phải là lối sống gấp chỉ biết hưởng thụ hôm nay mà bỏ qua ngày mai mà đó là một lối sống tích cực, cho thấy môt khát vọng sống mãnh liệt, yêu cuộc sống của thi nhân.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại những thành công của Xuân Diệu
- Bài học dành cho người sáng tác và tiếp nhận văn học.
Mẫu dàn ý phân tích 4
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
a. Cái tôi trữ tình đầy mới mẻ:
- Muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ lại những vẻ đẹp bình dị đang diễn ra ở cuộc đời.
- Cái tôi táo bạo, mạnh mẽ, muốn thay đổi cả quy luật của tạo hóa để lưu giữ vẻ đẹp của trần thế.
=> Thể hiện tấm lòng yêu tha thiết của Xuân Diệu đối với cuộc sống, với thiên nhiên mùa xuân, mà sâu xa là sự tiếc nuối, sợ hãi bản thân không so kịp với bước chân của tạo hóa.
b. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:
- Khi nhìn về cảnh sắc mùa xuân, ánh mắt của người nghệ sĩ tràn ngập tình yêu, niềm hạnh phúc đã đầy, ở bức tranh thiên nhiên hầu như mọi cảnh vật đều có đôi có cặp, lãng mạn và tình tứ.
+ Ong bướm ngọt ngào đắm say tuần tháng mật
+ Hoa trong đồng nội xanh rì thực hòa hợp viên mãn.
+ Lá với cành tơ cũng lả lướt đón đưa.
+ Khúc tình si của cặp yến oanh làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần rộn rã.
- Câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” làm cho bức tranh mùa xuân thêm phần lãng mạn, trong trẻo và ấm áp tình người.
=> Bộc lộ được tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
- “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”: Đối với tác giả một ngày được sống, được tỉnh giấc chính là một niềm vui lớn.
- “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị, cách cảm nhận đầy độc đáo.
- “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Xuân Diệu nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa xuân.
c. Nhận thức về bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi của đời người:
- Xuân Diệu hiểu và nắm rõ được quy luật không thể thay đổi của tạo hóa thời gian cứ lặng lẽ trôi đi mà không vì một ai mà dừng lại.
- Tác giả đâm ra tiếc nuối và hờn giận “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/Không cho dài thời trẻ của nhân gian”.
- Buồn bã, ảm đạm trong những vần thơ chứa đựng đầy nỗi tiếc nuối “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/....
=> Xuân Diệu không kìm lòng được mà tiếc cả đất trời, tiếc nuối hết tất thảy những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống. Mở ra trong lòng độc giả những nhận thức về sự quý giá của tuổi trẻ.
c. Người nghệ sĩ hòa vào thiên nhiên, cố gắng tận hưởng, xua đi nỗi nuối tiếc:
- “Mau đi thôi/Mùa chưa ngả chiều hôm” chính là lời tự thúc giục, động viên bản thân, cũng như nhiều thế hệ trẻ phải nhanh bước chân chạy đua với thời gian mà tận hưởng của sống.
- Tấm lòng khát khao, rạo rực của người nghệ sĩ như “muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, dành trọn hết tất cả những gì xanh tươi, trẻ trung trong vũ trụ.
- “Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!” thể hiện được tình yêu mãnh liệt của Xuân Diệu đối với mùa xuân, muốn được tận hưởng một cách trọn vẹn nhất cả thanh, sắc, hương, vị.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung
Mẫu dàn ý phân tích 5
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Xuân Diệu và tác phẩm “Vội vàng”
- Khái quát về giá trị nội dung của tác phẩm
2. Thân bài
a. Khát vọng níu giữ vẻ đẹp cuộc đời (câu 1 đến câu 4)
- Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp với điệp cấu trúc câu ở câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ ba, tác giả đã nhấn mạnh chủ thể của hàng động và khát vọng mạnh mẽ, in đậm cái tôi cá nhân.
+ Những hình ảnh độc đáo như “tắt nắng”, “buộc gió”, cho thấy ước muốn táo bạo của người thi sĩ để “màu đừng nhạt, hương đừng bay”.
+ Điệp ngữ “cho, đừng” cùng điệp cấu trúc câu ở câu thơ thứ 2, 4 đã thể hiện mục đích đẹp đẽ của nhà thơ là trân trọng, níu giữ vẻ đẹp, hương sắc của cuộc đời.
→ Ước muốn lãng mạn của một thi sĩ với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sôi nổi, tha thiết.
b. Bài thơ “Vội vàng” tái hiện bức tranh cuộc sống đẹp như thiên đường nơi trần thế (câu 5 - câu 13)
- Điệp khúc “Này đây” xuất hiện trở đi trở lại trong các dòng thơ ở những vị trí khác nhau,, mang đến âm hưởng vui tươi, rộn ràng, náo nức cho đoạn thơ.
- Hệ thống ngôn từ, hình ảnh gợi hình, gợi cảm thông qua biện pháp liệt kê về rất nhiều hình ảnh đẹp về cảnh sắc thiên nhiên: “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh… khúc tình si”, “ánh sáng… chớp hàng mi”, “buổi sớm… thần Vui hằng gõ cửa”.
- Bằng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tác giả đã thể hiện sự cảm nhận tinh tế về sự ngọt ngào của dòng thời gian: “tuần tháng mật”.
- “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”: Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác đã thể hiện nhà thơ đã cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan.
→ Câu thơ còn thể hiện quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của nhà thơ Xuân Diệu: con người là chuẩn mực của cái đẹp.
- Đang đắm say với cảnh sống đẹp đẽ, nhà thơ đột ngột tiếc nuối:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
+ Nhà thơ vừa sung sướng trước cảnh sắc quyến rũ của thiên nhiên đã lại vội vàng trước sự trôi chảy của thời gian.
+ Xuân Diệu tiếc nuối cả những gì đang có, thể hiện thái độ trân quý từng phút giây đối với thực tại đang diễn ra.
c. Ý niệm về thời gian (câu 14 - câu 29)
- Thời gian có thể làm phai tàn sự sống, phai tàn cái đẹp
+ Biện pháp nghệ thuật đối lập: “xuân đương tới - xuân đương qua”, “xuân còn non - xuân sẽ già”, “lòng tôi rộng - lượng trời cứ chật”, “còn trời đất - chẳng còn tôi mãi”.
+ Liên từ “nghĩa là”, “nói làm chi”, “nhưng” để lí giải đã đem đến giọng điệu sôi nổi, nhịp thơ tranh luận.
- Nhà thơ không chỉ nhạy cảm với thời gian mà còn ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân
+ Xuân Diệu đã ngầm khẳng định: Tuổi xuân con người ngắn ngủi, chỉ có một lần và trở nên vô giá.
+ Nhà thơ cũng đau xót nhận ra vũ trụ là vĩnh hằng nhưng “cái tôi” thì hữu hạn và là duy nhất.
- Nhà thơ cảm nhận thời gian bằng nhiều giác quan: khứu giác - “mùi tháng năm”, thị giác và vị giác - “rớm vị chia phôi”.
+ Cùng với sự cảm nhận về thời gian là sự ý thức về không gian: “Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…”.
+ Biện pháp tu từ nhân hóa và câu hỏi tu từ đã giúp nhà thơ khắc họa sự phai tàn, chia phôi của mỗi sự vật.
+ “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”. Câu cảm thán kết hợp cách ngắt nhịp 3/1/4 độc đáo vừa thể hiện tâm trạng tiếc nuối, xót xa vừa thể hiện sự vội vàng, hối thúc.
→ Điều này xuất phát từ sự tự ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể đang phai tàn trong dòng chảy thời gian.
d. Triết lí sống vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu (câu 30 - câu 39)
- Sống vội vàng trước hết là sống với tốc độ phi thường: Câu trúc câu cầu khiến Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm như lời giục giã, thôi thúc mọi người sống hối hả, cuống quýt.
- Sống sâu sắc, mãnh liệt:
+ Điệp khúc “Ta muốn”: khao khát mạnh mẽ của nhà thơ cùng sự khơi gợi tình yêu cuộc sống của mọi người.
+ Hệ thống điệp từ ngày càng mạnh: "ôm", "riết", "say", "thâu", "cắn", thể hiện sự cảm nhận cuộc sống bằng cả tâm hồn, bản thể, nhấn mạnh triết lí sống sâu sắc, mãnh liệt, hết mình.
+ Liệt kê những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, tính từ chỉ xuân sắc: “sự sống… mơn mởn”, “mây đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm”, “tình yêu”, “non nước”, “cây”, “cỏ rạng”, “thanh tân”, “thời tươi”, “xuân hồng”: tái hiện một thế giới tươi đẹp, tình tứ.
+ Động từ chỉ trạng thái tăng tiến: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”: cảm xúc say mê, nồng nàn, cuồng nhiệt
+ Nhịp thơ nhanh, hối hả, gấp gáp: phản chiếu tình yêu đời sôi nổi trào dâng.
- Tất cả tình yêu đời và khát vọng sống đã được dâng tụ ở câu thơ cuối cùng: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”.
+ Hình ảnh ẩn dụ “xuân hồng” gợi một cuộc sống đầy quyến rũ, mời gọi, tình tứ như người thiếu nữ giữa tuổi thanh xuân.
+ Động từ “cắn” thể hiện khát vọng hưởng thụ, chiếm lĩnh mọi vẻ đẹp của hương sắc cuộc đời.
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
Mẫu dàn ý phân tích 6
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm.
2. Thân bài:
a. 4 dòng thơ đầu "Tôi muốn tắt nắng đi...đừng bay đi":
- Điệp "Tôi muốn" để thể hiện khát khao mạnh mẽ, mãnh liệt
- Mong muốn táo bạo "tắt nắng", "buộc gió" để nắm giữ lại tất cả những gì tươi đẹp nhất của tự nhiên.
→ Tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt đã được thể hiện qua khát khao mạnh mẽ có phần táo bạo: Níu giữ bước chân của thời gian, thay đổi cả quy luật vận động của tự nhiên để níu giữ hương sắc, vẻ đẹp nơi trần thế.
b. Tám dòng thơ tiếp "Của ong bướm...như một cặp môi gần":
- Niềm vui sướng, sự hân hoan tột độ của tác giả khi phát hiện ra một thiên đường của cuộc sống đang tồn tại ngay bên cạnh mình.
- Điệp khúc "này đây..." mang đến nhịp thơ dồn dập, thể hiện cảm xúc bất ngờ, niềm vui sướng hạnh phúc tột độ.
- Bức tranh mùa xuân:
+ Cảnh "ong bướm" đang ngập tràn hạnh phúc, say sưa với mật ngọt của tình yêu.
+ Cảnh sắc thắm của hoa xuân cùng với sắc xanh của nội cỏ, rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa cân đối.
+ Vẻ xanh non, biếc rờn của "lá của cành tơ phơ phất" đầy tình tứ và lãng mạn.
+"khúc tình si" của cặp yến anh mang đến không khí thực rộn ràng vui tươi.
+ "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi", mang đến chất thi vị tình tứ, để cho bức tranh thêm hài hòa và sống động, thể hiện rõ sự gắn bó chan hòa giữa nghệ sĩ và thiên nhiên rộng lớn.
- "Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa" thể hiện một triết lý sống mới mẻ của tác giả rằng mỗi một ngày được sống, được mở mắt nhìn nắng mai là một niềm vui, một niềm hạnh phúc đến tột cùng.
- "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần": sự chuyển đổi cảm giác đầy tinh tế, thể hiện xúc cảm muốn nuốt trọn mùa xuân vào lòng, mà còn là niềm khát khao đến tột cùng.
c. Mười hai câu thơ tiếp: "Tôi sung sướng...tiếc cả đất trời":
- "Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân": Cảm giác tiếc nuối mùa xuân ngay giữa lúc mùa xuân đang chín.
- Xuân Diệu nhận ra một quy luật tàn nhẫn của tạo hóa, rằng đời người hữu hạn, còn vũ trụ thì vẫn tuần hoàn không chờ đợi ai cả.
=> Xuân Diệu không tránh khỏi cảm giác "bâng khuâng tiếc cả đất trời". Càng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống bao nhiêu thì càng cảm thấy nuối tiếc, buồn bã khi phải chia li.
d. Mười câu thơ cuối "Mau đi thôi...cắn vào ngươi":
- Ý thức được sự hữu hạn của tuổi trẻ, của đời người tác giả đã nhanh chóng tìm ra cho mình một giải pháp mới: sống hết mình, sống tận độ.
- Các động từ mạnh "ôm", "riết", "thâu" cùng với điệp từ "ta muốn" càng nhấn mạnh được cái khao khát muốn nuốt trọn thanh sắc tuyệt vời của mùa xuân, muốn được điên cuồng trong tình yêu, đến tận "no nê thanh sắc của thời tươi" để không còn nuối tiếc gì hơn nữa.
- Đánh thức tất cả mọi giác quan, mọi sức lực trong cơ thể để hòa mình vào bữa tiệc của thiên nhiên để "chếch choáng" với mùi thơm, "đã đầy" với ánh sáng, ôm trọn vào lòng những cây, những cỏ, nhưng hương thơm nồng ấm.
- "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!" hành động mạnh mẽ thể hiện tình yêu mãnh liệt và khát khao chiếm giữ vẻ đẹp của mùa xuân, đất trời.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận cá nhân.
Mẫu dàn ý phân tích 7
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ: "Vội vàng" là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với từng dấu hiệu của sự sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian của Xuân Diệu.
2. Thân bài
- Khát vọng táo bạo đến hoang đường: "tắt nắng", "buộc gió"
=> Tình yêu cuộc sống đến tha thiết, khắc khoải.
- Bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế:
+ Ong bướm - tuần tháng mật
+ Hoa cỏ, đồng nội - xanh rì
+ Cành tơ - phơ phất
+ Yến anh - khúc tình si
- Tâm trạng lo âu, phấp phỏng trước những bước đi của thời gian: Nhìn thấy những dấu hiệu tàn phai của sự sống ngay ở thời tươi.
- Để sống có ý nghĩa, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của sự sống, của tình yêu, của cuộc đời người, Xuân Diệu đã chủ trương sống "vội vàng".
3. Kết bài
- Khái quát lại nội dung và giá trị của bài thơ
Mẫu dàn ý phân tích 8
1. Mở bài
Giới thiệu sơ lược, khái quát về tác giả Xuân Diệu cùng bài thơ "Vội vàng"
2. Thân bài
- Ý nguyện, tâm thế và mong muốn hành động của tác giả trước bước đi của thời gian
+ Tác giả muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" để nắm bắt và giữ lấy từng khoảnh khắc thời gian.
+ Điệp ngữ "Tôi muốn" được nhắc lại hai lần:
=> Khẳng định ý nguyện muốn giữ lấy vẻ đẹp chóng tàn phai của thiên nhiên;
=> Làm nổi bật tâm hồn của một thi sĩ yêu đời, say mê thiên nhiên và trân trọng, nâng niu cuộc sống.
- Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả
+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân có hình ảnh, màu sắc, thanh âm tràn trề sức sống được phác họa qua: Biện pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp nhịp điệu thơ nhanh và dồn dập; điệp từ "Này đây" vang lên đầy say mê. Biện pháp so sánh "tháng giêng" - khái niệm thời gian vô hình như "cặp môi" - sự vật cụ thể trong mối quan hệ "ngon" - "gần"
- Thi nhân tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên nhưng vẫn không quên đi ý thức về sự trôi chảy của thời gian: "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".
- Những quan niệm mới mẻ về tuổi trẻ, tình yêu và thời gian của tác giả
+ Quan niệm con người đẹp nhất ở giai đoạn tuổi trẻ và tình yêu.
+ Quan niệm về thời gian mang tính tuần hoàn nhưng cũng mang tính tuyến tính và "một đi không trở lại".
+ Quan niệm thời gian vũ trụ không đồng nhất với thời gian của đời người, nghĩa là "xuân qua" rồi xuân sẽ lại "tới" nhưng tuổi trẻ, đời người thì "chẳng hai lần thắm lại".
- Quan niệm sống "vội vàng", chạy đua cùng thời gian của tác giả
+ Cái "tôi" trữ tình luôn ở tư thế chủ động tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc sống ở độ tươi mới nhất, căng tràn nhất.
+ Quan niệm sống "vội vàng", chủ động chạy đua với thời gian trong sự gắn bó với niềm vui sống và tinh thần lạc quan.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Mẫu dàn ý phân tích 9
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và bài thơ "Vội vàng", khái quát nội dung chính của bài thơ
- Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình xuất sắc trong phong trào Thơ mới 1930 - 1945
- Bài thơ "Vội vàng" được in trong tập "Thơ thơ" - tập thơ đầu trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938
- Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết cùng với tinh thần lạc quan, niềm tin và khát vọng cuồng nhiệt của Xuân Diệu.
2. Thân bài:
* Bố cục của bài thơ: Bài thơ có bố cục rõ ràng, mạch lạc và chặt chẽ, gắn liền với mạch cảm xúc của tác giả
- Phần 1 (13 câu thơ đầu): Tác giả say mê với vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân
- Phần 2 (17 câu thơ tiếp): Cảm nhận và tâm trạng của Xuân Diệu về thời gian, cuộc đời
- Phần 3 (9 câu thơ cuối): Quan niệm và khát vọng sống của Xuân Diệu
* Tình yêu thiên nhiên của tác giả
- Xuân Diệu đã giãi bày một ước muốn có phần ngông cuồng của mình, táo bạo: Tắt nắng, buộc gió.
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên với vẻ đẹp hữu tình, lãng mạn. Vạn vật trong tiết trời xuân hiện đều đang độ sung mãn, căng tràn nhựa sống.
- Mọi vật được nhà thơ nhắc đến đều có đôi có cặp: Tuần tháng mật của ong bướm, hoa của đồng nội, lá của cành, khúc tình si của yến anh và ánh bình minh của mặt trời.
--> Điều này cho thấy sự đắm say, lãng mạn và ngây ngất trong con mắt của nhà thơ trước thiên nhiên mùa xuân.
- Tác giả say mê với mùa xuân, tận hưởng mùa xuân, bởi với tác giả, mùa xuân như là tuổi trẻ, mà cuộc đời đẹp nhất chính là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân, mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng.
* Tâm trạng và cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu vừa tinh tế vừa mang triết lí nhân sinh: Thời gian luôn gắn liền với mùa xuân và tuổi trẻ của con người, mỗi thời khắc trôi qua là mùa xuân trôi đi, tuổi trẻ cũng qua đi, xuân hết thì đời người cũng hết.
- Tác giả lo lắng và xót xa trước sự trôi chảy của thời gian đang mang mùa xuân và tuổi trẻ đi.
=> Lời than vãn của tác giả mang ý nghĩa như một quan niệm sâu sắc về cuộc đời, cuộc đời sẽ không thể có hai lần tuổi trẻ, chính vì vậy, tuổi trẻ qua đi là điều mà nhà thơ tiếc nuối và lo lắng nhất.
* Khát vọng sống của tác giả
- Tác giả đã cảm nhận thiên nhiên một cách trọn vẹn bằng tất cả các giác quan của mình, tác giả muốn lưu giữ và níu kéo thời gian ở mãi tuổi thanh xuân.
- Điệp từ "Ta muốn" lặp lại nhiều lần kết hợp với những động từ mạnh như "ôm, riết, cắn..." diễn tả rất rõ khát vọng sống mãnh liệt của tác giả. Nhịp điệu thơ dồn dập và hối hả cho thấy sự giục giã thời gian để được tận hưởng cuộc sống của nhà thơ.
3. Kết bài
Tổng kết nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- "Vội vàng" là một quan niệm sống đầy mới mẻ và mang ý nghĩa tích cực của Xuân Diệu: Phải biết yêu cuộc sống, tận hưởng những thứ mà cuộc sống ban tặng, hãy sống hết mình và quý trọng thời gian của tuổi trẻ.
- Đây là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ mới lãng mạn, những cách tân của Xuân Diệu mang những nét sáng tạo táo bạo, từ cảm hứng, ý tưởng đến hình ảnh, giọng điệu và ngôn từ.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Xuân Diệu (1916 - 1985), còn có bút danh là Thảo Tra, tên thật là Ngô Xuân Diệu.
- Ông thân sinh của Xuân Diệu là một nhà nho, quê ở làng Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự lực văn đoàn.
- Xuân Diệu tham gia mặt trận Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hăng say hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.
- Ông là Ủy viên của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức.
2. Tác phẩm
2.1. Xuất xứ
- “Vội vàng” được trích từ tập Thơ thơ (1938) - tập thơ đầu tay của nhà thơ Xuân Diệu.
- Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống cuồng nhiệt.
2.2. Bố cục
- Phần 1 (câu 1 đến câu 29): lí do phải sống vội vàng
- Phần 2 (còn lại): biểu hiện của cách sống vội vàng
2.3. Phương thức biểu đạt
- Biểu cảm
2.4. Thể thơ
- Thơ tự do
2.5. Giá trị nội dung
- Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt
2.6. Giá trị nghệ thuật
- Hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, gọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ
Xem thêm những bài văn mẫu hay nhất tại đây: