Phân tích câu thơ "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng"
Mẫu số 1
Cảnh sắc quê hương tươi đẹp là đề tài quen thuộc của những tác phẩm nghệ thuật. Nếu Đỗ Trung Quân ví quê hương với “chùm khế ngọt”, “con diều biếc” thì với Tế Hanh, quê hương lại gắn liền với vị mặn mòi của biển và cánh buồm trắng đầy kiêu hãnh:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Nhà thơ sử dụng biện pháp so sánh rất tài tình. Vẻ đẹp lãng mạn, tráng lệ của cánh buồm được ví với “mảnh hồn làng” thiêng liêng. Câu thơ miêu tả hình ảnh con thuyền khi ra khơi tràn đầy sức sống, khí thế hừng hực. Với những người dân chài, cánh buồm là vật dụng hết sức thân thuộc, nay được nâng tầm trở nên lớn lao và kĩ vì. Đó không chỉ là một đồ vật mà còn tượng trưng cho trái tim, tâm hồn những người dân miền biển. Họ gắn bó với biển khơi, yêu biển, biết ơn biển. Nhờ có cánh buồm ấy, con người đã chinh phục thiên nhiên, vượt qua muôn trùng sóng gió. Quả thực, không có hình nào đẹp đẽ, kì vĩ, ý nghĩa hơn khi viết về những làng chài.
Sự to lớn của cánh buồm căng gió sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên. Người ngư dân gửi gắm vào đây niềm hi vọng, sự tin tưởng vào tương lai. Các động từ “giương’, “Rướn”, “góp” cho thấy sức mạnh hào hùng, tâm thế chủ động của con thuyền khi đối đầu với tự nhiên.
Hai câu thơ ngắn gọn nhưng đã cho thấy tình yêu, niềm tự hào mà tác giả dành cho biển cả quê hương cùng vẻ đẹp lãng mạn, tráng lệ của cánh buồm làng.
Mẫu số 2
Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết làng quê mình. Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với mảnh hồn làng.
Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.
Mẫu số 3
“Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Quê hương - Tế Hanh.
Hai câu thơ trên đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp: cánh buồm trắng no căng gió đưa con thuyền vượt lên phía trước. Tế Hanh đã có một so sánh rất lạ: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Phép so sánh thường lấy đối tượng trừu tượng so sánh với đối tượng cụ thể để người đọc, người nghe hình dung rõ về đối tượng trừu tượng đó. Trong phép so sánh của Tế Hanh, nhà thơ lại lấy một hình ảnh cụ thể “cánh buồm” để so sánh với một hình ảnh trừu tượng” mảnh hồn làng”. Viết như vậy thật độc đáo! "Mảnh hồn làng” gợi đến truyền thống chăm chỉ, cần cù và bao đức tính quí báu của người dân vùng biển. So sánh “cánh buồm ” với “mảnh hồn làng” khiến hình ảnh cánh buồm trở nên thiêng liêng, xúc động biết bao. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Động từ “rướn “ rất mạnh mẽ và hình ảnh "rướn thân trắng” cũng vô cùng gợi cảm, nó gợi đến sự trong sáng, vẻ thuần khiết của “cánh buồm” và cũng là của “mảnh hồn làng”. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng” để “bao la thấu góp gió” của đại đương và biển cả còn thể hiện khao khát chinh phục tự nhiên và vũ trụ của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.
Lưu ý: Đây là bài cảm nhận phân tích giá trị của các biện pháp tu từ trong hai câu thơ: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Rướn thân trắng bao la thâu góp gió, từ đó làm nổi bật lên hình ảnh cánh buồm cùng những ý nghĩa gửi gắm sâu xa của tác giả qua hai câu thơ.
Mẫu số 4
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Một biện pháp so sánh giúp cho cánh buồm lại mang sức sống mãnh liệt hơn nhiều. Tác giả đã lấy cánh buồm làm một vật linh thiêng nhất - mảnh hồn làng. Bởi khi con thuyền ra khơi, người ở bến luôn ngóng trông đợi chờ bóng dáng cánh buồm xuất hiện, đó là dấu hiệu của niềm vui chào đón thuyền về bến. Niềm hạnh phúc này không một ai trong chúng ta có thể thấu hiểu hết được. Và khi cánh buồm vẫn chưa hiện dạng, họ chỉ có thể nhờ gió gửi ngàn tình thương, nỗi nhớ chờ mong lo sợ đến giữa khơi mong được hồi âm đáp lại. Và, cánh buồm đã " rướn thân trắng" đón nhận ngọn gió kì diệu ấy, quyện thành sức mạnh tiếp sức cho thuyền phóng nhanh, thể hiện cả khát khao chinh phục biển cả thiên nhiên của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.
Mẫu số 5
Quê hương – một chủ đề rất xưa mà không cũ trong thơ ca. Tế Hanh ghì dấu trong thơ bằng chủ đề rất xưa ấy. Nhưng nếu một lần được đọc thơ viết về quê hương của Tế Hanh ta sẽ cảm nhận rõ “những kỉ niệm tươi thắm” được thể hiện trong những “lời thơ giản dị, tự nhiên mà giàu hình ảnh”. Hai câu thơ sau trích trong bài Quê hương là một ví dụ tiêu biểu:
Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tâm tình mến yêu tha thiết làng quê mình. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với mảnh hồn làng.
Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.
Đến với Huế thơ, ta sẽ đến với chùa Thiên Mụ, đến với dòng sông Hương dịu dàng pha lẫn trầm tư, còn đến miền quê quan họ vùng đồng bằng Bắc Bộ là ta lại đến với hương nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Đây chính là hồn quê hương. Còn với Tế Hanh quê hương ông là:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới;
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Thì điệu hồn ấy phải hoành tráng, lãng mạn giống như cánh buồm giương. Đó là hồn của miền quê biển, giản dị mà sức vóc tung tỏa biết bao. Phải chăng Tế Hanh đã hóa hồn mình vào cánh buồm đó để nghe thấy hồn làng trên một cánh buồm giương.
Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám đã có những hình ảnh đẹp, lãng mạn miêu tả về cánh buồm:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ở đây Tế Hanh cũng miêu tả cánh buồm no gió, nhưng nhà thơ đã nhân hóa nó với dáng vóc của chàng trai mười tám khỏe mạnh, vạm vỡ đẹp lãng mạn đến say người.
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Cánh buồm căng là do có gió thổi vào nhưng ở đây có sự đảo ngược. Cánh buồm ấy mang dáng vóc của một chàng lực sĩ rướn thân trắng, ưỡn căng lông ngực mênh mông, hít một hơi dài chủ động thu hết sóng gió bao la của biên khơi đê bay lên, ngang tầm với không gian mênh mông của đại dương. Hình ảnh thơ thật hào hùng, kì vĩ, mơ mộng đầy chất lãng tử, thi nhân. Đẹp biết bao cánh buồm ấy, như một sinh thê che chở bảo vệ con thuyền, cho làng chài băng tất cả sức mạnh tích tụ từ biển khơi. Nó phập phồng hơi thở, sự sống, nhịp điệu của trái tim biển cả.
Biển không chỉ cho ta cá như lòng mẹ, biển quê hương còn cho ta nguồn thơ đầy sức sống. Rõ ràng đây là hai câu thơ được viết ra từ tấm lòng tha thiết gắn bó miền quê giáp sông, ven biển, mặn mòi hương vị biển. Câu thơ đẹp nhưng quả thật nó linh diệu, lung linh giữa khả giải và bất khả giải.
Mẫu số 6
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương, khái niệm trừu tượng, thiêng liêng nhưng lại hết sức bình dị, thân thiết với mỗi chúng ta. Đó là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi ấy có ông bà, cha mẹ, nơi ta tha thiết gắn bó khi gần và quay quắt nhớ lúc chia xa. Mỗi một miền quê đều có một nét riêng, ta gọi đó là hồn quê, có khi đó là lũy tre xanh, là hàng dừa trước ngõ, là con đường đất đỏ đến trường…
Với Tế Hanh, chàng trai mười tám tuổi xa quê, nhớ về quê hương, một làng chài giáp sông, ven biển của mình, ông lại nhớ:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng, bao la thâu góp gió.
Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết làng quê mình. Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con thuyền ra khơi với mảnh hồn làng.
Cánh buồm là vật thể hữu hình, được so sánh với hồn làng, hồn vía của làng chài: cái vô hình, vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình dị với cái thiêng liêng. Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc.
Đến với Huế thơ, ta sẽ đến với chùa Thiên Mụ, đến với dòng sông Hương dịu dàng pha lẫn trầm tư y còn đến miền quê quan họ vùng đồng bằng Bắc Bộ là ta lại đến với hương nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong: Đây chính là hồn quê hương. Còn với Tế Hanh quê hương ông là:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Thì điệu hồn ấy phải hoành tráng, lãng mạn giống như cánh buồm giương. Đó là hồn của miền quê biển, giản dị mà sức vóc tung tỏa biết bao. Phải chăng Tế Hanh đã hóa hồn mình vào cánh buồm đó để nghe thấy hồn làng trên một cánh buồm giương.
Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám đã có những hình ảnh đẹp, lãng mạn miêu tả về cánh buồm:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lưới giữa mây cao với biển bằng
Ở đây Tế Hanh cũng miêu tả cánh buồm no gió, nhưng nhà thơ đã nhân hóa nó với dáng vóc của chàng trai mười tám khỏe mạnh, vạm vỡ đẹp lãng mạn đến say người.
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Cánh buồm cảng là do có gió thổi vào nhưng ở đây có sự đảo ngược, cánh buồm ấy mang dáng vóc của một chàng lực sĩ rướn thân trắng, ưỡn căng lồng ngực mênh mông, hít một hơi dài chủ động thu hết sóng gió bao,la của biển khơi để bay lên, ngang tầm với không gian mênh mông của đại dương. Hình ảnh thơ thật hào hùng, kỳ vĩ, mơ mộng đầy chất lãng tử, thi nhân. Đẹp biết bao cánh buồm ấy, như một sinh thể che chở bảo vệ cho con thuyền, cho làng chài bằng tất cả sức mạnh tích tụ từ biển khơi. Nó phập phồng hơi thở, sự sống, nhịp đập của trái tim biển cả.
Kết bài: Biển không chỉ cho ta cá như lòng mẹ, biển quê hương còn cho ta nguồn thơ đầy sức sống. Rõ ràng đây là hai câu thơ được viết ra từ tấm lòng tha thiết gắn bó miền quê giáp sông, ven biển, mặn mòi hương vị biển. Câu thơ đẹp nhưng quả thật nó linh diệu, lung linh giữa khả giải và bất khả giải.
Mẫu số 7
Nhà thơ Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Bài thơ tháng bảy (1961). Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ được sáng tác năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945)
Hai câu thơ "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng/ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..." đã thể hiện được hình ảnh cánh buồm thiêng liêng và đẹp đẽ. Hình ảnh cánh buồm trắng chính là linh hồn của bài thơ. "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng" đã sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ. So sánh, ẩn dụ cánh buồm với mảnh hồn làng là để hình tượng hóa mảnh hồn làng cũng như linh thiêng hóa cánh buồm. Cánh buồm ra khơi mang theo những ước mơ khát vọng của những người dân làng chài ra khơi. Phải chăng mảnh hồn làng chính là những tâm tư, ước mơ, khát vọng của người dân làng chài? Biện pháp này làm cho hình ảnh cánh buồm trở nên sinh động và thiêng liêng. Cùng với đó, "Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" là cánh buồm được nhân hóa qua từ “rướn", "thâu góp" làm cho con thuyền trở nên sinh động chân thực như 1 con người. Đến khổ thơ cuối, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với cánh buồm vôi. Là một người con xa quê, nỗi nhớ và tình yêu dành cho quê hương luôn thường trực trong tâm trí của tác giả về màu nước xanh, về cánh buồm trắng và cá bạc.
Tóm lại, hai câu thơ đã thể hiện được hình ảnh thiêng liêng và đẹp đẽ của cánh buồm ra khơi. Từ đó, ta thấy được tình cảm của tác giả dành cho quê hương và làng chài của mình.
Xem thêm những bài văn mẫu 8 hay khác:
TOP 20 Bài văn cảm nhận 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú (2024) SIÊU HAY
TOP 15 Đoạn văn cảm nhận về bài thơ qua đèo ngang (2024) SIÊU HAY
TOP 20 Bài văn cảm nhận bài Tức cảnh Pác Bó (2024) SIÊU HAY
TOP 20 Đoạn văn về cảm nghĩ của em về bài thơ À ơi tay mẹ (2024) SIÊU HAY