Dàn ý phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn tiêu biểu in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự - triết lí nhân sinh.
- Giới thiệu hai phát hiện của Phùng: Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
b) Thân bài
* Phát hiện đầu tiên: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương
- Khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa mực tàu.
- Khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ngồi im phăng phắc.
=> Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề" của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp "trời cho" trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy ảnh chỉ gặp một lần.
- Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
- Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự toàn bích, hài hòa, lãng mạn của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn.
* Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài
- Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển, Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình - sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ.
- Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa mọi đau khổ.
-> Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã "kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy ào tới".
-> Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống.
=> Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con người.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Tình huống truyện nghịch lí độc đáo
- Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập
- Giọng điệu thay đổi linh hoạt
- Sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư - triết lí nổi bật
- Lời văn giản dị, mộc mạc mà nhiều dư vị
c) Kết bài
Khái quát giá trị hai phát hiện của Phùng: Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân.
Một số bài văn mẫu hay phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Bài mẫu số 1
Người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Minh Châu đã từng tâm niệm thế này: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn”. Quả thực, sứ mệnh của người cầm bút không phải chỉ là viết mà hơn cả qua mỗi trang viết người nghệ sĩ còn cần ôm vào lòng mình cuộc sống, con người của hiện thực. Và có lẽ, với “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã tô đậm lên cái “chân giá trị” ấy, những sự thực, chân xác của cuộc sống hiện lên thật rõ nét. Qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình, mối quan hệ giữa cuộc đời với nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
Nguyễn Minh Châu - một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, người nghệ sĩ ấy luôn trăn trở về sứ mệnh của một nhà văn, mang trong mình một khát khao tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, để nâng đỡ và yêu thương con người nhiều hơn. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác năm 1983, khi đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì độc lập. Thế nhưng, cuộc sống thời bình với biết bao nhiêu vấn đề cần đặt ra. Đằng sau cái vẻ đẹp lộng lẫy của một đất nước bước vào hòa bình ấy là cuộc sống con người còn nhiều khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy, tác phẩm vừa là hồi chuông cảnh báo đồng thời mở đường cho cảm hứng đời tư thế sự, một xu hướng chung cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khi gấp lại những trang văn của “Chiếc thuyền ngoài xa” người đọc không thể nào quên được hai hình ảnh đối lập của cảnh đẹp nơi bờ biển sương sớm và bức tranh hiện thực của người dân làng chài nghèo khổ. Đến với vùng đất biển ấy, nhiếp ảnh gia Phùng đã từng rất say mê với cảnh đẹp sớm mai. Thế nhưng, có lẽ bài học nghệ thuật đẹp nhất mà người nghệ sĩ ấy nhận được chính là cách nhìn nhận cuộc sống, nhìn nhận những góc khuất mà con người vẫn thường hay bỏ lỡ. Nguyễn Minh Châu đã rất khéo léo khi lồng ghép hai phát hiện của nhân vật Phùng ấy để từ đó thể hiện được những quan điểm nghệ thuật của mình.
Bước chân vào câu chuyện của Nguyễn Minh Châu, hiện lên ngay trước mắt người đọc chính là bức tranh tuyệt đẹp bên bờ biển sớm mai. Không bằng quá nhiều câu từ, ngôn ngữ cũng đủ để nhà văn đưa người đọc hòa vào cảm xúc của nhân vật Phùng. Theo yêu cầu của trưởng phòng, để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển, Phùng đã quay trở lại vùng biển nơi từng là chiến trường cũ của anh. Tại đây, người nghệ sĩ như gặp được chân lý của nghệ thuật, một vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên. Trước cái đẹp, có người nghệ sĩ nào mà không rung động, mà không say mê. Trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của buổi sương sớm mai, hiện lên trước mắt người nghệ sĩ ngay lúc này chính là một bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ với cảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng, ẩn hiện trong biển sớm mờ sương “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ.” Người nghệ sĩ Phùng đã trực chờ ở bờ biển suốt mấy hôm chỉ để chờ đợi cảnh đẹp này, ngay lúc này, còn gì hạnh phúc hơn khi chính anh đã tìm ra được cảnh đẹp ấy. Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, tạo nên “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Đứng trước khung cảnh đấy, anh xúc động “bối rối” và trái tim của anh “như có cái gì bóp thắt vào”. Quả thực, đứng trước cái đẹp người nghệ sĩ nào cũng nhạy cảm và bồi hồi như vậy đấy. Ngay lúc đó, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đứng trước cảnh đẹp mà tưởng chừng như chẳng bao giờ anh có thể chạm tới ấy, Phùng hạnh phúc vô cùng, anh bấm “liên thanh một hồi hết một phần tư cuộn phim”. Trong khoảnh khắc ấy anh mới thấm thía “bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức”.
Nguyễn Minh Châu tài thật, không bằng quá nhiều câu từ, ngôn ngữ nhưng cũng đủ để người đọc hòa vào từng cảm xúc của nhân vật, hòa vào cảnh đẹp của biển trong buổi sớm sương mai. Phải chăng ngay lúc này, người đọc cũng đang mang trong mình những suy nghĩ của Phùng, cho rằng vẻ đẹp ngay trước mắt là vẻ đẹp toàn bích nhất. Quả thực, cảnh đẹp đó chính là nghệ thuật đấy, từng ánh sáng, từng con thuyền, từng hạt cát bên bờ biển ấy chính là nghệ thuật đấy, nhưng nó không phải là nghệ thuật trọn vẹn. Cảnh đẹp ấy chính là minh chứng cho một cuộc sống hòa bình, cho một đất nước hòa bình, nhưng nơi mà nghệ thuật hướng đến chính là con người, vậy mà con người hiện lên trong bức tranh đó không hề rõ nét. Không những vậy, vẻ đẹp toàn bích trong mắt Phùng ấy cũng chỉ đang thu gọn vào trong một bức hình thôi sao. Phùng quên mất rằng, nơi anh đang đứng chẳng phải là Lầu Hoàng Lạc hay chốn Bồng Lai, nơi anh đứng chính là chiến trường cũ, nơi đây còn đầy những tàn tích với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn. Ngay cả việc anh ngồi bấm máy cũng là phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Ngay lúc này, trong quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ chính là quan niệm về nghệ thuật vị nghệ thuật mà thôi.
Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”, đúng là như vậy, chỉ khi hướng đến con người, Nguyễn Minh Châu mới thực sự hoàn thành được sứ mệnh của bút của chính mình. Khép lại bức tranh thiên nhiên cảnh biển trong buổi sương sớm, cũng là lúc con người hiện ra. Và chính trong phát hiện thứ hai này mới thực sự là phát hiện của nghệ thuật trọn vẹn. Ngay lúc này, trong vẻ đẹp toàn mỹ ấy, hiện thực cuộc sống con người hiện lên thật tàn khốc, trước mắt người nghệ sĩ là cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài - một sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ. Cái bóng lưng ngồi im phăng phắc mà Phùng nhìn thấy trước đó bước ra, mang theo biết bao nhiêu gánh nặng, khổ cực. Một người đàn bà cao lớn, xấu xí, thô kệch với tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới xuất hiện. Ôi, cớ sao giữa bức tranh thiên nhiên tuyệt bích ấy, con người lại hiện lên đầy đáng thương như vậy. Và rồi ngay sau đó, một người đàn ông cao lớn, với tấm lưng rộng, đi chân chữ bát, hai con mắt đầy vẻ giận dữ. Có lẽ, ngay khi đọc đến đây, ai trong chúng ta cũng sẽ tự đặt câu hỏi: “Rốt cuộc họ đã phải trải qua một cuộc sống như thế nào chứ? Chẳng phải đất nước đã hòa bình rồi sao?”. Ngay sau đó, người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng quất tới tấp vào lưng người đàn bà”, thế nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên hơn cả chính là hành động của người vợ, bà ta không hề có chút phản ứng nào, không kêu lên một tiếng cũng chẳng chống trả hay tìm cách chạy trốn. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:“Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão.
Chẳng phải ngay vừa phút giây trước thôi, khung cảnh yên bình tuyệt mĩ mà Phùng cho là toàn bích ấy sao, nhưng không, chỉ khi con người xuất hiện, đó mới thực sự là cuộc sống. Chứng kiến cảnh đó Phùng vô cùng kinh ngạc, “đứng há mồm ra mà nhìn”. Khi anh định vứt chiếc máy ảnh xuống mà chạy đến cũng là lúc thằng Phác xuất hiện, nó “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào người đàn ông. Nó giằng chiếc thắt lưng quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của người đàn ông. Ngay sau đó, hắn dang thẳng cánh tay tát thằng bé hai phát khiến nó ngã dúi xuống cát. “Phác, con ơi!”, ngay sao đó là tiếng gọi xé lòng của người mẹ, bà ta ôm chầm lấy thằng bé, rồi buông ra chắp tay vái lấy vái để thật sự để lại quá nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Và rồi thằng bé “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” để lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Có lẽ, chính ngay lúc này đây, người nghệ sĩ Phùng mới thực sự nhận ra, đây mới chính là cuộc sống đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ ấy.
Tất cả những sự việc ấy cứ nối tiếp diễn ra trước mắt mà Phùng không thể làm gì khác được. Nhưng cũng chính hiện thức ấy mới giúp Phùng vỡ lẽ ra được hiện thực cuộc sống không phải chỉ luôn toàn màu hồng, cảnh sắc thiên nhiên đẹp thật đấy nhưng nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống hạnh phúc để tận hưởng trọn vẹn khung cảnh ấy. Cuộc sống của gia đình hàng chài hiện lên đầy bất hạnh, khó khăn trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp toàn bích, bình yên trong bức ảnh của người nghệ sĩ Phùng. Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Đất nước đã bước vào hòa bình, nhưng sự thật là con người chưa được ấm no. Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, cất tiếng “bênh vực cho những người không có ai để bênh vực”. Nghệ thuật vốn bắt đầu từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật. Cuộc sống có rất nhiều những ngang trái, nghịch lí, người nghệ sĩ muốn thực sự khám phá cái vẻ đẹp toàn bích ấy thì cần có cái nhìn đa chiều, đừng chỉ nhìn cuộc sống dưới góc nhìn của một khung hình chữ nhật, hãy biết sống thực với nó, hãy hiểu chứ đừng chỉ biết. Câu chuyện của người nghệ sĩ Phùng cũng là câu chuyện của biết bao người nghệ sĩ khác. Đọc xong câu chuyện, tự nhìn lại bản thân tự hỏi, liệu mình có thật sự hiểu được thế nào là cái đẹp tuyệt bích của cuộc đời hay chưa?
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng lên sự đối lập giữa vẻ đẹp của thiên nhiên cảnh biển sương sớm với tấn bi kịch cuộc sống của người dân làng chài nghèo khổ. Chính ở đó, Nguyễn Minh Châu đã tô đậm quan điểm nghệ thuật của mình. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu) Quả thực, bức tranh cảnh biển sương sớm đẹp thật đấy, nhưng nó không thật sự trọn vẹn, con người hiện lên trong đó quá mờ nhạt. Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật khi nó hướng đến con người, phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu trong cuộc sống. Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử.” Nó đã trở thành thiên chức, thành sứ mệnh của người nghệ sĩ. Nghệ thuật chỉ thực sự là nghệ thuật khi nó khai thác ở cuộc sống với cái nhìn đa chiều, nhìn nhận cuộc đời ở bình diện đạo đức, thế sự để thực sự hiểu bản chất bên trong của hiện thực. Nghệ thuật ở đây không chỉ là nghệ thuật vị nghệ thuật mà đó phải là nghệ thuật vị nhân sinh. Không chỉ vậy, nhà văn cần viết về “những vùng tối của hiện thực đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”. Hiện thực cuộc sống thực sự rất nhiều trái ngang, nhưng không phải người nghệ sĩ nào cũng dám cầm bút về vẽ nó lên trong những trang văn của mình. Chính vì vậy, người nghệ sĩ cần có lòng dũng cảm, chân thực, một trái tim nhân hậu để “nâng niu những cái đẹp ở đời”, để “bênh vực cho những người không có ai để bênh vực”. Nhà văn phải tự ý thức cho chính mình hoàn thiện hơn, cho văn chương sâu sắc hơn để phục vụ con người, hướng đến con người. Có lẽ, trong thời kì ấy, chúng ta chưa từng bắt gặp bất cứ người nghệ sĩ nào mang màu sắc quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Chính những điều mới mẻ ấy, những đóng góp ấy trong công cuộc đổi mới văn học mà trước hết là về quan niệm nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “người mở đường tinh anh và tài năng” của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Có thể thấy ngay từ trong cách đặt tên nhan đề Nguyễn Minh Châu để phần nào bộc lộ ra quan điểm nghệ thuật của mình. Tại sao lại là “ngoài xa”? Khi ở xa, người nghệ sĩ không thể nào thấy được hết những mảng tối, những góc khuất trong cuộc sống của con người. Đó chỉ là những bóng lưng ngồi im phăng phắc. Nghệ thuật chỉ thật sự là nghệ thuật khi nó ôm trọn vào lòng con người, hiện thức cuộc sống, nâng niu những giá trị tốt đẹp của con người. Chỉ khi người nghệ sĩ thực sự sống cuộc sống, thực sự hiểu con người thì nghệ thuật mà họ tạo ra mới có giá trị đích thực, góp phần cải tạo cuộc sống, nâng cao giá trị của con người.
Sứ mệnh của nhà văn được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn vẹn. Một hiện thực cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ hơn bao giờ hết, một góc nhìn mới mẻ, một bài học mới về nghệ thuật cho những người nghệ sĩ, tất cả bắt đầu từ cuộc đời, từ con người, phục vụ con người, hướng đến con người và vì con người. Chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kì diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng như lời nhận định: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết.
Bài mẫu số 2
Nói về Nguyễn Minh Châu và những sáng tác của ông Tô Hoài đã có những lời thật đúng đắn rằng “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. Quả thực đúng vậy, đọc nhiều những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là các tác phẩm thời kỳ hậu chiến, từ những năm 80 trở đi, khi nhà văn từ giã đề tài chiến tranh để đi sâu vào vấn đề đạo đức thế sự, và số phận con người trong xã hội thời kỳ đổi mới, ta thấy trong những câu chuyện bình thường, luôn ẩn hiện nhiều tầng triết lý. Đặc biệt là lối kể, lối viết đi sâu vào nội tâm, cũng như những câu chuyện riêng của từng nhân vật, đã mang đến cho người đọc nhiều trải nghiệm ấn tượng. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất trong đời sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Thông qua bước chân và hai phát hiện đặc sắc của nhiếp ảnh gia Phùng, tác giả đã mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc về cách nhìn nhận vấn đề trong cuộc sống, mối tương quan giữa cuộc đời và nghệ thuật, đồng thời cũng bộc lộ nhưng niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh.
Nhân vật Phùng trong câu chuyện của Nguyễn Minh Châu vốn từng là một người lính tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, sau khi hòa bình lập lại Phùng đảm nhận vị trí một nhiếp ảnh trong một tòa soạn báo. Để có được một bức ảnh về miền biển in trong cuốn lịch cuối năm mà trưởng phòng giao phó, Phùng đã tìm về một vùng biển miền Trung, nơi đã từng là chiến trường cũ, đồng thời cũng là dịp để anh ghé thăm Đẩu- người đồng đội cũ của mình. Sau suốt nhiều ngày chờ đợi, săn tìm, nhưng Phùng vẫn chưa có cho mình một bức ảnh thật ưng ý, bởi lẽ anh là một người yêu nghệ thuật và luôn có những yêu cầu rất cao về thẩm mỹ, chính vì vậy Phùng không cho phép mình sơ sài, hời hợt. Phùng phải chờ đợi suốt hơn tuần liền mà cuộn phim trong máy vẫn chẳng xê dịch mấy. Nhưng may mắn thay, dường như ông thời biết được tấm lòng của người nghệ sĩ nên đã để anh chứng kiến được một khung cảnh hoàn mỹ, cái mà Phùng ví như cảnh “đắt” trời cho, cả đời người nghệ sĩ khéo cũng chưa thấy được một lần. Đây cũng chính là phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến đi công tác.
Buổi sớm định mệnh hôm ấy, khi Phùng đang loay hoay núp sau chiếc xe tăng cũ để trú cơn mưa phùn lất phất, thì từ đằng xa bỗng có một con thuyền lưới cá dần dần cập bến trong ánh sương lẫn ban mai mờ mờ tựa như một “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Minh Châu phác lại bằng những nét vẽ thật giản đơn và cổ điển “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ…”. Người nghệ sĩ với tấm lòng tôn thờ sự hoàn mỹ trong nghệ thuật đã không thể kiềm lòng mà nhận định rằng khung cảnh trước mắt anh quả thực là một vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Phùng đứng trước phát hiện bất ngờ này hoàn toàn trở nên bối rối, tựa như một chàng trai khi đối diện với tình đầu, “trái tim như có gì đó bóp thắt vào”, một cảm giác mà trước đây Phùng chưa thấy bao giờ. Tất cả đều bộc lộ niềm sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng của người nghệ sĩ khi may mắn bắt gặp được cảnh tượng quý giá nhất trong đời cầm máy.
Ngay trước phát hiện tuyệt vời về cảnh “đắt” trời cho lúc buổi sương sớm, Phùng đã tưởng như mình vừa khám phá được một định nghĩa mới của cái đẹp rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, thậm chí đầu óc Phùng lúc này chỉ toàn những xúc cảm tuyệt vời khi tưởng như mình vừa phát hiện ra chân lý của sự toàn thiện, tuyệt mỹ, khám phá ra cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phải nói rằng trước cảnh đẹp trời ban, trái tim Phùng dường như vừa được khai mở và có một vầng sáng vĩ đại soi chiếu, khiến tâm hồn của người nghệ sĩ trở nên rộng mở và thăng hoa đến tột cùng của xúc cảm. Không chần chừ lâu, Phùng lập tức đưa máy lên bấm “liên thanh” hết ba phần tư cuốn phim mà chẳng cần “xê dịch” gì nữa, dường như anh đã thu vào chiếc máy ảnh của mình tất cả cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn mình, do cái đẹp ngoại cảnh mang lại”.
Có thể nói rằng đối với nghệ sĩ Phùng, cũng như đối với tất cả những người yêu nghệ thuật, hết lòng vì cái đẹp, thì việc bắt được một cảnh “đắt” trời cho như vậy là niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng. Cảnh một chiếc thuyền lưới cá, cũ, nhỏ và đơn sơ, cùng với những ngư dân từ từ cập bến có thể nói là một cảnh tượng khá quen thuộc và bình thường ở miền biển. Tuy nhiên chính những thứ tưởng chừng nhỏ nhặt, giản đơn ấy, khi kết hợp với nhau, lại trở thành bức tranh mỹ cảnh hiếm có trong đôi mắt đa cảm của người nghệ sĩ. Phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến công tác dài ngày có nhiều ẩn ý, đầu tiên là quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu hầu như đều xuất phát từ những sự vật, sự việc thực bình thường, mà người nghệ sĩ chân chính phải dùng tấm lòng chân thành, tinh tế và nhạy cảm để phát hiện và ghi nhận.
Thứ hai nữa, phát hiện của Phùng còn là tượng trưng cho những vẻ đẹp duy mỹ, không tỳ vết, là những thứ mà con người hằng theo đuổi ao ước đạt được, tuy nhiên để đạt được nó con người ta đều phải trải qua quá trình lao động miệt mài, lòng kiên nhẫn thì mới nhận được quả ngọt. Không chỉ vậy, bằng ngòi bút tinh anh Nguyễn Minh Châu còn thông qua nhân vật Phùng để thể hiện tấm lòng yêu nghệ thuật sâu sắc của một người nghệ sĩ chân chính, nhất quyết không chịu chấp nhận những thứ nghệ thuật sơ sài, gượng ép, đồng thời cũng bộc lộ quan điểm “bản chất của cái đẹp là đạo đức”, dù rằng trong phát hiện đầu tiên, triết lý này vẫn chưa được khai mở rõ ràng, mà chỉ được nêu ra thông qua nhân vật Phùng, trong lúc anh mải mê bối rối, say mê với cảnh đẹp tuyệt đỉnh trước mắt. Cuối cùng tổng kết lại sau tất cả những ẩn ý về phát hiện đầu tiên của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau những cái đẹp vốn có của tự nhiên đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Bởi lẽ nếu không có một tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp, lòng kiên nhẫn, say mê với công việc, bất chấp thời gian, thời tiết có lẽ Phùng đã chẳng thể bắt lấy cái cảnh toàn bích như một bức tranh của danh họa thời cổ, để rồi phải ngây người vì quá đỗi sung sướng trước thành quả mà mình đạt được.
Tuy nhiên tình huống truyện trở nên đặc sắc hơn khi Phùng tiếp tục có phát hiện thứ hai, một phát hiện dường như đã đánh vỡ nát cái mộng tưởng, cũng như niềm sung sướng tự hào khi bản thân phát hiện ra cái đẹp toàn bích và chân lý của cuộc đời người nghệ sĩ. Ngay lúc Phùng thu máy, chuẩn bị đi về để hoàn thành báo cáo, thì chiếc thuyền cũng cập bến, bức tranh dần tan đi cái vẻ tĩnh lặng, yên bình, thay vào đó là sự vận động đến từ những con người trên chiếc thuyền. Cái “đạo đức” mà Phùng hằng tâm niệm bỗng chốc bị câu nói “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ” phá nát, một câu hăm dọa ghê gớm, đã xé toang bức tranh hiền hòa người nghệ sĩ vừa kịp thu vào trong máy, trước sự ngỡ ngàng của anh.
Ngay sau đó, Phùng thấy bước xuống từ chiếc thuyền đó một người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch xấu xí, khuôn mặt rỗ và xám xịt vì thức đêm, người đàn ông đi sau, lưng còng, tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, khuôn mặt dữ tợn nhìn chòng chọc như muốn đâm thủng tấm lưng rách rưới của người đàn bà. Tất cả cảnh tượng ấy, đều chỉ có thể tóm gọn lại bằng hai chữ “thảm hại”, và chắc chắn khác xa so với những gì Phùng tưởng tượng về hình tượng người dân chài kéo lưới, nhưng thực tế thì luôn sẵn sàng tát vào mặt kẻ mộng mơ là thế. Tuy nhiên điều khủng khiếp hơn còn ở phía sau, khi Phùng tận mắt chứng kiến một cuộc ẩu đả đơn phương, một cuộc bạo lực gia đình ghê gớm, khi gã đàn ông rút chiếc thắt lưng liên tiếp quất vào người đàn bà, vừa đánh vừa rít lên những tiếng oán hận, mà có lẽ chỉ có kẻ thù mới dành cho nhau “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ. Còn người đàn bà lại cam chịu, không chống trả, cứ mặc cho người đàn ông chửi rủa đánh đập.
Phùng khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ấy đã không thể tin vào mắt mình, bởi lẽ trước đó cái cảnh gia đình yên ấm, sum họp trên chiếc thuyền nhỏ vào buổi bình minh còn khiến anh ngây ngất, say mê chưa dứt, thì những gì diễn ra dường như khiến anh không kịp trở tay. Phùng kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu chỉ biết đứng há hốc mồm ra nhìn, điều đó khiến ta liên tưởng đến cảm giác của Phùng trong phát hiện đầu tiên, Phùng cũng ngỡ ngàng như thế. Có thể nói rằng trong một buổi sáng Phùng đã hai lần gây ra, não bộ không kịp tiếp thu những gì mà anh nhìn thấy, một lần là vì choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, còn một lần khác là cảm giác không thể tin nổi trước khi buộc phải chứng kiến những cảnh tượng xấu xí nhất của cuộc sống. Gia đình vốn là hạt giống là điển hình của một xã hội, nó có tốt đẹp thì đất nước mới có thể đi lên. Một con người có nhiều năm tháng buôn ba trên khắp các chiến trường, chiến đấu vì lý tưởng giải phóng đất nước và con người, thâm tâm Phùng những tưởng sau chiến tranh đất nước yên bình, sẽ chẳng còn những cảnh tượng khủng khiếp và đau lòng, mà chỉ còn những cảnh đẹp của thế gian. Thế nhưng hiện thực đã chứng minh rằng, suy nghĩ của Phùng thực còn quá nông cạn, cuộc sống và số phận của nhiều con người vẫn còn đang chìm trong đau thương, trước đây họ đau khổ vì chia ly vì chiến tranh, mất mát, thì đến hôm nay dù hòa bình đã lập lại nhưng gánh nặng của họ lại là đói nghèo, sự khuyết thiếu văn hóa. Hai vợ chồng người đàn bà làng chài là những điển hình rõ rệt nhất, đói nghèo bức ép khiến họ phải vật lộn mưu sinh, trình độ thấp dẫn tới cảnh tượng bạo lực gia đình và phải đối mặt với sự vỡ kế hoạch, làm gánh nặng trên đôi vai hai vợ chồng càng tăng thêm, điều đó đã trở thành một vòng luẩn quẩn không lối thoát.
Như vậy trong phát hiện thứ hai của nhân vật Phùng, thông qua cảnh tượng khủng khiếp ấy, Nguyễn Minh Châu đã vén ra bức màn đang che mắt những con người làm nghệ thuật, ông chỉ ra rằng đằng sau những vẻ đẹp tuyệt mỹ, toàn bích nhiều khi lại chính là những cảnh tượng đau thương nhất. Người nông cạn chỉ nhìn thấy cái đẹp, cái hoàn hảo như lòng mình mong ước, nhưng người nghệ sĩ thực sự lại phải là người đào sâu tìm kỹ, phát hiện được cả những góc khuất và đặc biệt là có tấm lòng nhân hậu, quan tâm đến số phận những con người tội nghiệp đang bị che lấp bởi vỏ bọc đẹp đẽ. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật mà nó còn phải gắn liền với cuộc đời, vẫn biết rằng cái đẹp đều xuất phát từ cuộc đời, nhưng chẳng phải cuộc đời nào cũng đẹp và hoàn toàn đẹp, người ta vẫn nhìn thấy đâu đó những sự sứt sẹo, những cái xấu xa đang hiện diện đầy rẫy và đôi khi chỉ cách cái đẹp toàn mỹ một bức màn thật mỏng, và sẵn sàng đánh vỡ những cái đẹp tưởng như trong ngần, tuyệt diệu nhất. Điều đó chỉ ra một con đường mới cho những người làm nghệ thuật, có lẽ rằng họ phải thay đổi cách nhìn nhận về cái đẹp, thay vì đi mãi một lối mòn săn tìm cái đẹp của tạo hóa, của trời ban, phải chăng họ còn nên nhìn vào cuộc đời, vào thực tế để khai thác những hạt ngọc quý trong tâm hồn con người, như cái cách mà Nguyễn Minh Châu đã khai thác vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài. Nếu ví cái đẹp như lớp màng mỏng che lấp cái xấu, thì ngược lại cái xấu xí lại như lớp vỏ xù xì, thô ráp bao bọc lấy cái đẹp, mà không phải người nghệ sĩ nào cũng đủ sự tinh tế, nhạy cảm và lòng yêu thương để khai thác và cảm nhận được nó.
Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, lồng ghép nhiều triết lý nhân sinh và quan niệm làm nghệ thuật. Đặc biệt trong tình huống truyện trên bãi biển, hai phát hiện của Phùng với sự đối lập nhau rõ nét đã làm nổi bật chủ đề câu chuyện cũng như dụng ý mà tác giả muốn hướng tới – việc tìm kiếm cái đẹp trong tâm hồn con người, cũng như đi tìm câu hỏi cho mối liên quan giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Bài mẫu số 3
Người nghệ sĩ là người luôn kiếm tìm cái đẹp, trân trọng và giữ gìn chúng. Thế nhưng, không phải cái đẹp nào cũng “đơn giản và toàn bích” mà đôi khi chứa đựng sau vẻ đẹp “toàn bích” ấy là cả một sự thật đau đớn đến ngỡ ngàng. Và câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một câu chuyện như thế. Khi mà người nghệ sĩ Phùng tưởng chừng như đã tìm ra được vẻ đẹp chân lý của cuộc đời mình thì một sự thật không ngờ về cuộc đời và số phận những người lao động nghèo ở làng chài đã khiến anh phải suy nghĩ lại. Đó có lẽ là hai phát hiện lớn nhất của cuộc đời anh.
Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng yêu cầu chụp một bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch mới. Vậy là anh được đề nghị đi thực tế để bổ sung và anh đã chọn nơi chiến trường xưa mình đã từng chiến đấu để vừa lấy tư liệu vừa thăm người bạn thân tên Đẩu đang làm chánh án tòa án huyện ở đây.
Sau bao ngày “phục kích” trên bãi biển thế nhưng Phùng chưa có bức ảnh nào làm anh ưng ý. Cho đến một hôm khi trời còn mù sương và lác đác mưa, Phùng đã phát hiện ra một con thuyền tuyệt đẹp ở ngoài xa đang dần tiến vào bờ. Đó là phát hiện đầu tiên của Phùng ở chuyến đi này, một phát hiện đã khiến anh “ngẩn” người bởi vẻ đẹp của nó.
Khung cảnh biển rộng lớn, bao trùm bởi ánh ban mai, một chiếc thuyền với những đường nét mờ ảo dần tiến lại. Vẻ đẹp ấy tuyệt mỹ đến nỗi mà Phùng phải thốt lên “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Con thuyền chầm chậm tiến vào “mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum hướng mặt vào bờ...”.Bức ảnh tuyệt đẹp đến nỗi Phùng đã so sánh nó “như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” với một sự trân trọng đầy quý giá.
Cái đẹp của bức tranh ấy được nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ lại càng đẹp đẽ, lộng lẫy hơn bội phần. Và chính Phùng đã phải xúc động trước vẻ đẹp đó. Anh cảm thấy “bối rối”, cảm thấy như “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bởi lẽ anh cho rằng, giây phút anh chứng kiến cái đẹp kia chính là giây phút anh tìm được “cái chân lý của sự toàn thiện”, “cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đúng, đó là bởi vì người nghệ sĩ cả đời chuyên tâm kiếm tìm cái đẹp, cái đẹp khiến tâm hồn họ rung động, khiến họ “bối rối” và bức tranh kia lại “đơn giản và toán bích” quá đỗi, khiến Phùng không thể cưỡng lại được. Anh cảm tưởng như tâm hồn mình đã được cái đẹp đó “thanh lọc”, trở nên trong ngân hơn bao giờ hết.
Ít có người nghệ sĩ nào lại có được những phút giây thăng hoa như thế trong cuộc đời của mình. Và Phùng là số ít người bắt gặp được cái đẹp mà đôi khi cả đời người cũng không thể tìm thấy. Anh đã thực sự hạnh phúc khi bắt gặp được cái đẹp tuyệt mỹ kia, một phần bởi sự may mắn, nhưng cũng là bởi sự tinh tế, nhạy bén của tâm hồn nghệ sĩ trong anh. Phát hiện đó có thể được coi là một quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu, ông cho rằng cái đẹp đều xuất phát từ những sự vật, sự việc bình thường trong đời sống. Ý nghĩa thứ hai của vẻ đẹp ấy đó là thứ con người ta đạt được qua quá trình lao động với lòng kiên nhẫn kiên trì mới có được thành quả nhường ấy!
Thông qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện một tấm lòng yêu nghệ thuật, say mê cái đẹp, không chấp nhận thứ nghệ thuật sơ sài, đồng thời ông cũng khẳng định “cái đẹp chính là đạo đức”. Và người nghệ sĩ chân chính, với lòng say mê của mình sẽ có được kết quả như mong muốn.
Cái đẹp không kéo dài, vậy nên Phùng đã “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Thế nhưng, anh lại không biết rằng, sau vẻ đẹp đó lại không “đơn giản”. Vẻ đẹp đó chứa đựng một sự thật đau đớn về số phận của những con người lao động nghèo nơi làng chài này. Và đó chính là phát hiện thứ hai của anh trong chuyến đi này, mang lại cho anh một cái nhìn mới về cuộc đời, bài học về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thời gian xoay vần, bức tranh không còn sự tĩnh lặng nữa, thay vào đó là sự chuyển động. Và cái đẹp mà Phùng vừa tưởng là “đạo đức” kia chợt bị câu quát “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày giờ” phá tan nát. Bức tranh “toàn bích” kia lại bị xé toang bởi hình ảnh của hai con người bước ra từ chiếc thuyền trong mơ ấy. Hai con người mang đầy dáng vẻ “thô kệch, xấu xỉ”, điển hình của những con người vùng biển bước đi chậm rãi tiến vào bờ. Người đàn bà “cao lớn, với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt”, khuôn mặt xám xịt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”,còn người đàn ông với “tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ” dường như muốn đâm thủng tấm lưng của người đàn bà đi trước. So với vẻ đẹp của con thuyền thì cảnh tượng ấy thật “thảm hại” làm sao!
Thế nhưng, đó chẳng phải là điều khủng khiếp nhất mà Phùng thấy sau vẻ đẹp như mơ kia, điều khủng khiếp nhất là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh bạo lực tưởng chừng như thời trung cổ. Người đàn ông “rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa” rồi thẳng tay “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” và rít lên những tiếng oán hận “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Một cảnh tượng khủng khiếp cứ thế diễn ra trước mắt người nghệ sĩ, ngay sau bức tranh đẹp tuyệt vời mà anh vừa định nghĩa bằng “đạo đức”. Thế nhưng, mặc người đàn ông đánh đập, gào thét trong oán hận, người đàn bà vẫn cam chịu đến nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
Lúc đó, Phùng đã kinh ngạc tới mức “đứng há mồm ra nhìn” bởi lẽ khung cảnh tĩnh lặng trên con thuyền của buổi bình minh vẫn còn khiến anh ngây ngất. Và có lẽ, khi chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng đã ngỡ ngàng đến mức không kịp trở tay như thế. Và càng ngạc nhiên tột độ hơn, khi cái bóng của thằng bé Phác – con của vợ chồng người đàn bà hàng chài chạy đến bên mẹ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”. Nó đã dùng hết sức lực của mình “giành lấy chiếc thắt lưng, (…) vung chiếc khoá sắt quật vào khuôn ngực trần” của cha nó.
Chỉ vừa mới choáng ngợp trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thì giờ đây là cảm giác không thể tin nổi khi phải chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong đời sống. Một người lính như Phùng có gì chưa từng chứng kiến, kể cả cái chết, nhưng những cảnh tượng đau lòng chồng đánh vợ, con đánh cha diễn ra trước mắt khiến anh không thể tin được lại vẫn còn ngay cả khi đất nước đã hoà bình.
Thế nhưng, hiện thực vẫn là hiện thực, chiến tranh đã qua đi, ác liệt đã qua đi nhưng cái đói, cái nghèo thì vẫn còn. Hai vợ chồng người đàn bà hàng chài ấy đã bị cuộc sống mưu sinh bức ép mà dẫn tới cảnh tượng bạo lực khủng khiếp như Phùng đã chứng kiến. Thêm vào đó, việc sinh đẻ nhiều làm cho cái vòng đói nghèo mãi luẩn quẩn, không có lối thoát.
Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh tượng bạo lực gia đình, một cảnh tượng mà những tưởng đã dần dần chấm dứt sau chiến tranh. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau vẻ đẹp tuyệt bích, đôi khi lại là những cảnh tượng đau lòng vô cùng. Người nghệ sĩ phải là người đi sâu, tìm tòi được cái góc khuất phía sau vẻ đẹp đó, chứ không phải hời hợt, nông cạn trong cái đẹp bề ngoài. Cái đẹp và cái xấu xa đôi khi chỉ cách nhau một tấm màng mỏng và người làm nghệ thuật phải biết khai thác cả những vấn đề xấu xa để đi sâu tìm hiểu con người, số phận và tâm hồn của họ.
Hai phát hiện của nhân vật Phùng là hai phát hiện mang tính trái ngược. Thế nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm cũng như dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống là một bài học mà chúng ta phải lật giở từng trang, hiểu sâu về nó, chứ không phải chỉ ngắm nhìn qua cái vẻ ngoài đẹp tuyệt mỹ. Và người nghệ sĩ là người có trách nhiệm khám phá mọi góc cạnh của cuộc đời, của con người để hiểu thấu họ.
Bài mẫu số 4
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tác giả Nguyễn Minh Châu là một trong những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc). Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu luôn cảm nhận đời sống con người cả ở những sự kiện bề nổi lẫn những khuất lấp trong chiều sâu. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc biệt là qua hai phát hiện tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lí của người nghệ sĩ Phùng. Đó là phát hiện “một cảnh đắt trời cho” đầy thơ mộng của người nghệ sĩ và phát hiện về cảnh bạo lực gia đình mang tính hiện thực về cuộc đời của một con người giàu yêu thương và luôn trăn trở về cuộc đời và con người.
Trước hết, phát hiện thứ nhất về khung cảnh thiên nhiên thơ mộng đã được khắc họa đầy sinh động dưới đôi mắt tài hoa của người nghệ sĩ say mê cái đẹp. Sau những ngày phục kích, Phùng đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho”. Đó là bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ với cảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng, ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Đôi mắt tinh tường của người nghệ sĩ đã phát hiện một cảnh đẹp trời cho - vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chưa từng bắt gặp. Dường như tác giả đã vận dụng tối đa mọi giác quan cùng phác họa những nét vẽ đậm chất hội họa: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Bức tranh có sự xuất hiện của thiên nhiên: “bầu trời mờ sương trắng”, “ánh mặt trời”, vừa có hình ảnh của con người: “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng…”. Trong khung cảnh có sự hài hòa về thiên nhiên và con người đó, người nghệ sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”. Tất cả cảnh sắc trời ban đó hiện lên trước mắt anh giống như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, tạo nên “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Khoảnh khắc nắm bắt được vẻ đẹp đó, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phùng đã có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Người nghệ sĩ dường như đã tìm thấy cái chân - thiện - mĩ của cuộc đời, cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Qua đó, chúng ta có thể thấy được cảm hứng triết lí về nghệ thuật: Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh” chính là sự giản dị, tự nhiên, đồng thời, “cái đẹp là đạo đức”, có tác dụng “thanh lọc”, khiến con người trở nên cao khiết, thánh thiện, không gợn đục.
Tuy nhiên, đằng sau phát hiện về bức tranh tuyệt bích đó là một cảnh tượng đầy nghịch lí. Đó chính là phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ về cảnh bạo hành diễn ra trong chiếc thuyền bước ra trong làn sương sớm. Từ điểm nhìn trực diện, rõ nét: “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng”, tác giả đã tái hiện những hình ảnh chân thực về con người. Từ chiếc thuyền bước ra một người đàn bà cao lớn, với những đường nét thô kệch, vẻ mặt mệt mỏi, tái nhợt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới cùng người đàn ông với tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Nhưng những gì diễn ra sau đó mới thực sự khiến Phùng bàng hoàng: người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quất tới tấp vào lưng người đàn bà” với những hành động hung bạo, dã man như một con thú. Tuy nhiên, điều làm Phùng kinh ngạc là sự cam chịu của người vợ, “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Cảnh bạo hành chỉ kết thúc khi anh con trai giằng thắt lưng, phản kháng lại người bố để bảo vệ mẹ. Đứng trước cảnh tượng đầy nghịch lí đó, người nghệ sĩ nhiếp ảnh như “chết lặng”, không tin những gì đang diễn ra trước mắt: “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn”. Sau đó, dường như không thể chịu đựng thêm được nữa và không thể làm ngơ trước cảnh bạo hình, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Phùng không thể ngờ được đằng sau phát hiện về một cảnh đắt giá trời cho lại là cái xấu, cái ác không thể tin nổi. Đó là hiện thực đầy gai góc, gồ ghề, ngang trái và đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp tuyệt bích, bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.
Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra hai phát hiện về nghệ thuật và cuộc đời tưởng chừng như đầy nghịch lí nhưng lại có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Khi xây dựng hai phát hiện này, tác giả đã gián tiếp thể hiện quan niệm triết lí nhân sinh độc đáo: Cuộc sống con người vốn đa chiều, phức tạp. Hiện thực không phải là bức tranh màu hồng mà là bức tranh lẫn lộn những mảng tối sáng, cái đẹp, cái thiện tồn tại song song cùng cái xấu, cái ác. Nếu chỉ đứng từ xa, con người sẽ chỉ nhìn thấy một hiện thực mờ ảo như chiếc thuyền thấp thoáng, ẩn hiện trong làn sương sớm giữa biển khơi. Chỉ khi có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, chúng ta mới phát hiện được những nghịch lí cùng sự khuất lấp của cuộc sống phức tạp.
Như vậy, hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả với những ý nghĩa triết lí nhân sinh độc đáo, đồng thời làm nổi bật quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa nghệ thuật và con người. Đó cũng chính là một trong những nền tảng khắc họa giá trị nhân đạo sâu sắc và giá trị hiện thực của tác phẩm.
Bài mẫu số 5
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Xuyên suốt quá trình sáng tác của mình, ông đã cho thấy một ngòi bút tài năng với quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Bằng lối văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, ông đã gửi gắm vào các hình tượng nhân vật của mình những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, cuộc đời. Tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu phải kể đến Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn được sáng tác vào năm 1983, viết về số phận con người giữa cuộc sống những ngày sau cách mạng. Trong tác phẩm, hai phát hiện độc đáo của nghệ sĩ Phùng được xem là chi tiết tiêu biểu để tác giả gửi gắm tư tưởng mình một cách sâu sắc và đầy đủ nhất.
Phùng là một người lính trở về từ cuộc chiến “vào sinh ra tử” của đất nước. Sau cách mạng, anh làm nghề nhiếp ảnh. Nhiệm vụ của Phùng được trưởng phòng giao phó là tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật về thuyền và biển để hoàn thiện đủ cho bộ lịch năm sau. Theo yêu cầu đó, Phùng đã bắt tay vào công việc, trở lại chiến trường cũ miền Trung Trung Bộ, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm một tấm ảnh nghệ thuật đắt giá. Cũng từ đây, Phùng có những phát hiện mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện đầu tiên của Phùng là một bức tranh đẹp từ cuộc sống tựa "bức họa cổ thời tàu". Dưới cặp mặt tinh tế và nhạy cảm của người nghệ sĩ, Phùng đã phát hiện một vẻ đẹp tận thiện, tận mỹ, đó là cảnh biển với "Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Đó là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, một khung cảnh “đắt trời cho” mà khi Phùng thấy được như vỡ òa trong hạnh phúc.
Khung cảnh không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến lý trí và tâm hồn Phùng. Sợ lỡ mất giây phút diệu kỳ ấy, Phùng đã vội đưa chiếc máy ảnh của mình lên bấm liên hồi để thu lấy tất cả những khoảnh khắc đẹp nhất của bức tranh cuộc sống. Khung cảnh đẹp đẽ được phát hiện sau bấy lâu tìm kiếm đã làm trái tim Phùng thực sự rung động và hạnh phúc. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa không gian mờ sương của biển cả khiến lòng người nghệ sĩ trở nên trong trẻo, tinh khôi, trong giây phút đó, Phùng cảm nhận được sự trong ngần của chính tâm hồn mình, anh nhận ra rằng "cái đẹp chính là đạo đức". Có thể thấy qua phát hiện đầu tiên của Phùng, tác giả đã gửi gắm một thông điệp về nghệ thuật sâu sắc: Để làm nên một tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải cất công tìm tòi, khám phá, bỏ công sức và quá trình lâu dài, bền bỉ. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị phải là một tác phẩm có tác động đến tư tưởng, tình cảm và tâm hồn con người, khiến cho "con người gần người hơn".
Phát hiện thứ hai của Phùng là phát hiện về một cuộc đời đau thương ẩn sau sự hoàn mỹ, toàn bích của bức tranh nghệ thuật được Phùng khám phá trước đó. Một sự thật nghiệt ngã được phơi bày khi chiếc thuyền từ xa tiến lại gần bờ. Một người đàn bà ấy có ngoại hình cao lớn, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi bước ra từ chiếc thuyền, đi cùng một người đàn ông mái tóc tổ quạ, hai con mắt tràn đầy vẻ giận dữ, độc ác. Họ bước xuống thuyền, đi nhanh vào bãi bờ, người đàn ông nhanh chóng lấy chiếc thắt lưng lo bản quất tới tấp vào người vợ của mình. Hành động hùng hổ, người đàn giáng xuống tấm thân người đàn bà những nhát quất đầy hung bạo. Vừa đánh hắn vừa nghiến răng ken két, con mắt tràn ngập sự giận dữ. Vừa đánh hắn vừa quát: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”, cứ mỗi nhát danh của hắn là một tiếng rên rỉ đầy đau đớn cất lên. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà ấy không hề phản kháng, trách móc hay chạy trốn để thoát khỏi trận đòn roi tàn nhẫn mà lặng lẽ cam chịu.
Đứng trước cảnh tượng đó, Phùng không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng há hốc mồm như không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt mình. Với một người từng chiến đấu nơi chiến trận để giành lại độc lập, yên vui cho nhân dân, bắt gặp cảnh bất công khiến Phùng không chịu được, Phùng cũng không thể nào chấp nhận một hiện thực nghiệt ngã, cuộc sống và số phận con người sau chiến tranh lại trớ trêu, khổ cực đến như vậy. Cũng vừa mới đây thôi, bức tranh nghệ thuật đẹp đẽ đã khiến anh nhận ra cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà một hiện thực "phi đạo đức" lại vừa xảy đến trước mắt , điều đó khiến Phùng không khỏi chua xót, cay đắng. Với phát hiện thứ hai, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp đầy ý nghĩa về nghệ thuật và cuộc sống, giống như nhà văn Nam Cao từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và vì cuộc sống.
Hai phát hiện của Phùng đều gắn liền với hình ảnh chiếc thuyền chài vùng biển. Ở khoảng cách xa, trong màn sương sớm, chiếc thuyền hiện lên thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nghệ thuật. Khi tiến lại gần, một hiện thực trần trụi được hiện ra, đó là thực tế của cuộc sống. Nghệ thuật không thể che giấu những thô ráp, nghiệt ngã của cuộc sống, nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống. Để có được điều ấy, đòi hỏi người nghệ sĩ phải dành tâm sức tìm kiếm, sáng tạo, phải đặt cả trí tuệ và tâm hồn mình vào mỗi tác phẩm. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trở thành chi tiết đầy ý nghĩa trong hai phát hiện độc đáo của Phùng.
Có thể nói, hai phát hiện của Phùng là yếu tố quyết định và làm nên tầng giá trị tư tưởng cho truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Bằng vốn sống phong phú cùng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Minh Châu làm nên thành công của tác phẩm.
Bài mẫu số 6
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kỳ vọng của nhân dân. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông, ... ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Đây là tác phẩm in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự - triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lý trớ trêu của gia đình hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện thứ nhất của nhân vật người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu. Anh đã dự tính bố cục, phục kích mấy buổi sáng. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần. Nó đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Không cần lựa chọn xê dịch gì nữa, anh bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Đây chính là sự nhạy cảm của trái tim người người nghệ sĩ. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Câu chuyện đến đây vẫn chưa có gì đặc biệt, chưa có đột biến.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã chứng kiến từ chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ là một phương thức để giải tỏa những uất ức, đau khổ: chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Khi chứng kiến cảnh đó, anh kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Sở dĩ anh có thái độ như vậy vì lúc trước anh từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức vậy mà cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện. Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để có được vẻ đẹp thanh bình của đất nước nên anh không thể chịu đựng được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách dã man, tàn bạo như vậy nên đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác - con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương: không biết làm thế nào nó đã giành được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng của người đàn ông để rồi nó đã bị cha tát hai cái khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Thằng Phác đã thương mẹ theo cách của một đứa con còn nhỏ và chính điều này làm ta cảm động trước tình thương mẹ dạt dào của đứa nhỏ.
Biết Phùng đã chứng kiến sự tàn bạo của cha mình nên thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước đoạt con dao trên tay đứa em để không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Chắc rằng trong lòng cô bé cũng rất đau đớn khi chứng kiến cảnh bố đang hành hạ mẹ nhưng đồng thời cô cũng không thể để em làm một việc dại dột. Cô bé lúc đó là một điểm tựa vững chắc của người mẹ, đã hành động đúng đắn để cản được việc làm dại dột của đứa em. Sau khi nhìn những cảnh đó diễn ra ngay trước mắt thì Phùng đã thể hiện bản chất của người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác nên đã xông ra can ngăn và đã bị người đàn ông đánh cho bị thương phải trở về trạm y tế của tòa án huyện. Tất cả sự những sự việc diễn ra liên tiếp đó đã là Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Bi kịch của gia đình thuyền chài kia đã như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp và ghê sợ.
Chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương rất đẹp, đầy thơ mộng với một vẻ đẹp trời cho, rất phù hợp để làm tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Phùng thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển trước bình minh. Vốn là một người lính chiến trường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì lẽ công bằng. Một người nhạy cảm như anh sao tránh khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác.
Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Nó không chỉ có những vẻ đẹp như mơ và còn có cả những điều xấu xa, độc ác. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động để xứng đáng là một con người.
Bài mẫu số 7
Nguyễn Minh Châu là nhà văn gắn với những sáng tác thể hiện niềm đam mê đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam. Trong đó, tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" là tiêu biểu cho quan điểm của ông rằng văn học phải gắn bó, gần gũi với cuộc sống. Nhân vật Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh có niềm đam mê nghệ thuật, trong chuyến đi công tác của mình, anh đã có được hai phát hiện độc đáo về nghệ thuật và cuộc đời.
Đầu tiên là phát hiện của Phùng về cảnh đẹp trong nghệ thuật. Đó là cảnh đất trời cho "mui thuyền in một nét mơ hồ, loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Đối với người nghệ sĩ như anh, cảnh tượng ấy như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, đạt đến độ mẫu mực của nghệ thuật. Từ đường nét đến màu sắc đều hài hòa và lại đẹp hơn nữa khi nhìn qua mắt lưới, tấm lưới. Cái đẹp được cảm nhận qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ với niềm đam mê nên vẻ đẹp ấy càng thêm phần lung linh, huyền ảo. Đứng trước cảnh đẹp ấy, Phùng đã có sự xúc động đến tận cùng, mấy phút đầu anh cảm thấy bối rối, rồi mấy phút sau anh thấy trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Đó là giây phút anh đã phát hiện ra chân lý của sự toàn diện - cái đẹp chính là đạo đức, khi ấy anh đã được sống trong khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, anh thực sự hạnh phúc khi tìm kiếm được cái đẹp để sáng tạo cho nghệ thuật.
Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ Phùng chính là phát hiện về sự thật cuộc đời. Sự thật cuộc sống của người dân hàng chài được hiện ra khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ với hình ảnh người đàn ông bà người đàn bà lam lũ. Người đàn bà cao lớn, thô kệch, lưng áo bạc phếch và khuôn mặt đầy mệt mỏi. Người đàn ông với mái tóc tổ quạ, tấm lưng rộng, hai con mắt của lão đầy vẻ độc dữ. Họ lầm lũi bước từ trên thuyền xuống, và chẳng nói chẳng rằng lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, rút chiếc thắt lưng rồi quất tới tấp vào lưng người đàn bà. Vừa quạt vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát bóp là tiếng rên rỉ đau đớn. Kì quái thật, nhưng kì quái hơn là người đàn bà không hề kêu hay chống trả, chạy trốn mà nhẫn nhục chịu trận đòn. Thấy cảnh tượng đó, Phùng vô cùng kinh ngạc, chỉ biết há hốc mồm đứng nhìn, anh sững sờ đến ngỡ ngàng và bất bình vì cuộc đời vẫn tồn tại những ngang trái, đối với anh đây như câu chuyện cổ đầy quái đản.
Để có được phát hiện thứ nhất, người nghệ sĩ phải trăn trở tìm kiếm và lựa chọn, cảnh đẹp ở rất xa nhưng vì niềm đam mê và khát vọng cống hiến cho nghệ thuật nên phải đi tìm kiếm. Phát hiện thứ hai lại ở rất gần, ngay bên cạnh cuộc sống mỗi người, nhưng đó lại là sự thật trần trụi và thô ráp, chỉ mang những nỗi khổ đau, bất bình. Đôi khi ta cứ mải miết theo đuổi những thứ xa vời mà bỏ qua những sự thật ngay trước mắt. Ở cả hai phát hiện đều có hình ảnh chiếc thuyền, khi ở ngoài xa, chiếc thuyền là vẻ đẹp của nghệ thuật lung linh, huyền ảo, khi về gần cũng là lúc sự thật cuộc đời hiện ra.
Như vậy, qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, ta đã thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc sống mà chiếc thuyền chính là hiện thân. Nghệ thuật phải về gần với cuộc sống, ngược lại cuộc sống là chất liệu, nguồn cung cấp cái đẹp cho nghệ thuật, để rồi nghệ thuật quay trở lại làm đẹp cho cuộc đời.
Bài mẫu số 8
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn quân đội, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê” 1985, sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987. Dưới đây là hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng được Nguyễn Minh Châu bộc lộ rõ nét.
Đến với phát hiện thứ nhất, câu chuyện được kể qua lời của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh được phân công chụp lại một bức ảnh về thuyền và biển cho bộ lịch tết. Anh về một làng chài ven biển – nơi anh từng chiến đấu trước đây. Sau nhiều ngày chờ đợi, Phùng đã chụp được “một cảnh đắt trời cho”, cảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong biển sớm mờ sương: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đừng nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp…”.
Đoạn văn vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, thể hiện sự nhạy cảm trước cái đẹp của một con người tài hoa, am hiểu sâu sắc về hội họa. Câu đầu là ước lệ, là cảm nhận chung về “bức tranh mực Tàu” có cận cảnh là “những mắt lưới”, viễn cảnh là “chiếc thuyền ngoài xa”. Tiếp theo là hình ảnh vụ thể với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, có bóng người lẫn trẻ con, có những tấm lưới… Cảnh huyền ảo bởi “bầu sương mù trắng như sữa”, tinh khiết với “màu hồng hồng” của ánh mặt trời, vừa tĩnh tại với bóng người “im phăng phắc”, vừa sống động với “mũi thuyền” đang hướng vào bờ. Các từ láy “lòe nhòe”, “hồng hồng”, “phăng phắc”, “khum khum” khiến cho khung cảnh thêm huyền ảo như hư như thực. Các so sánh “trắng như sữa”, “im phăng phắc như tượng” tô đậm chất tạo hình của bức tranh. Tất cả tạo nên cái đẹp tuyệt đỉnh mà tạo hóa ban tặng.
Đứng trước cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên, người nghệ sĩ thấy lòng mình rung động mãnh liệt “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phùng như nghiệm ra rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, nó giúp ta “khám phá thấy cái toàn thiện, toàn mỹ”, có tác dụng thanh lọc tâm hồn để con người trở nên cao khiết, thánh thiện. Phùng “bấm liên thanh hết một phần tư cuốn phim” để vĩnh cửu hóa cảnh tuyệt vời đó.
Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Để có được niềm hạnh phúc ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì, phải vượt khó, phải đam mê hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kỳ lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mỹ.
Đến với phát hiện thứ hai đó là cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài. Đang ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền đẹp như mơ tiến đến gần, từ chỗ chiếc thuyền vọng lại tiếng quát quá dữ tợn của người đàn ông “Cứ ngồi nguyện đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Từ trên thuyền bước xuống là đôi vợ chồng hàng chài. Người vợ đi trước, chị ta “trạc ngoài bốn mươi”, “thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch”, “mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Người chồng đi sau “tấm lưng rộng và cong”, “mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát…người đàn bà”. Gã đàn ông thô bạo, cộc cằn, tàn nhẫn với sức khỏe như gấu, hình dáng cổ quái, “trút cơn giận như lửa cháy” vào việc đánh vợ bằng chiếc thắt lưng to bản như đánh kẻ thù, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”
Điều kì lạ là người đàn bà đứng yên cho chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Phùng chưa hết bàng hoàng thì thằng Phắc, đứa con của cặp vợ chồng này lao tới “như một viên đạn”. Nó giật chiếc thắt lưng quật vào ngực cha để rồi nhận lại hai cái tát, ngã dúi xuống bờ cát. Lão đàn ông, cả hai trở lại chiếc thuyền… Tất cả như một vở kịch câm, chứa đầy những nghịch lý, không chú giải, không một lời thoại, kịch tính đến nghẹt thở với những hình ảnh khô khốc, bạo liệt, phi nhân tính, nó phũ phàng xâm lấn cái giây phút hạnh phúc của người nghệ sĩ, khiến phùng hụt hẫng, bàng hoàng, cứ đứng “há mồm ra mà nhìn!”.
Tất cả những cảnh trên là mặt trái của bức ảnh đẹp tuyệt vời mà Phùng đã chứng kiến. Tuy nhiên, đó mới là một phần bên ngoài của sự thật. Lần thứ hai, Phùng lại phải chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài này. Vốn là người lính, Phùng không thể làm ngơ trước cái ác, anh xông vào ngăn và bị thương nhẹ. Anh cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình hàng chài kia là thứ thuốc rửa quái đản làm cho những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ…
Từ hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn muốn chuyển đến người đọc thông điệp: Cuộc sống luôn chứa đựng nhiều nghịch lý, mâu thuẫn không dễ lí giải. Khi đánh giá con người trong cuộc sống không thể chỉ nhìn ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.
Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.
Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chụp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “Trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngắn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.
Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tĩu, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Xem thêm những bài văn mẫu 12 hay khác:
TOP 40 Mở bài Chiếc thuyền ngoài xa (2024) SIÊU HAY
TOP 20 bài văn mẫu phân tích đoạn cuối tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (2024) HAY nhất
Văn bản Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) - Nội dung, Tác giả tác phẩm
TOP 21 Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) - Ngữ văn 12