TOP 10 Bài phân tích bức tranh phố huyện (2024) SIÊU HAY

Dưới đây là TOP 10 Bài phân tích bức tranh phố huyện hay nhất sẽ giúp các em học sinh ôn tập và học tốt môn Ngữ Văn hơn. Mời bạn đọc tham khảo:

Phân tích bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu đi qua

Bài mẫu số 1

Mỗi nhà văn có một cá tính riêng, họ có thể phần nào tương đồng trong suy nghĩ, nhưng lối viết, phong cách nghệ thuật chắc chắn không thể giống nhau. Ngày trước, người ta nổi lên hai phong trào, văn học hiện thực và văn học lãng mạn, trong đó có tự lực văn đoàn nổi lên có những tác phẩm hay viết chuyên về văn học lãng mạn.

Tuy nhiên, một cây bút như lạc đàn, trong chất văn của ông vừa có lãng mạn vừa có lẫn hiện thực, bởi cái suy nghĩ của ông văn chương không thể tách rời cuộc sống và con người – đó là Thạch Lam, Thạch Lam có lỗi viết đặc biệt hơn so với các anh của mình. Trong đó nổi bật lên tác phẩm hai đứa trẻ, một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam, chính nhờ chi tiết “đoàn tàu đêm qua phố huyện” đã khiến cho tác phẩm này của ông trở nên nổi bật, và phong cách nghệ thuật của ông được biểu hiện rõ.

Hai đứa trẻ lấy bối cảnh trong một phố huyện nghèo, nơi bóng tối luôn ngập tràn lối phố. Nơi đây nghèo túng và với những kiếp người trôi nổi, kiếm sống qua ngày bằng nhiều nghề khác nhau. Nhân vật chính trong câu truyện là Liên và An, hai chị em trông hàng quán cho mẹ. Nhà Liên cũng không mấy khả giả, phải bươn trải kiếp sống từ nhỏ, nên tâm hồn Liên sớm trở nên già dặn trước tuổi. Nếu những đứa trẻ bằng tuổi Liên lúc bấy giờ còn vô tư hồn nhiên, thì Liên đã là một cô gái phải suy nghĩ nhiều về cuộc sống.Cuộc sống ở đây nghèo khó và tù túng đến nỗi, con người như mòn ra, rỉ đi.

Bóng tối luôn vây hãm lấy họ, những “hột sáng” hắt ra từ những căn nhà, những âm thanh như “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ” “tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt” “cái bếp lửa của bác Siêu” “tiếng đàn bầu bật trong yên lặng”, giọng cười khanh khách của bà cụ Thi điên, rồi ánh sáng cũng nghèo nàn. Những “hột sáng lọt qua phên nứa” “tất cả phố xá trong huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Đọc từng trang viết của Thạch Lam, không hiểu sao ta lấy lòng buồn man mác, buồn như chính tâm hồn già cỗi của Liên, tâm hồn đã chết đi vì sự buồn tẻ. Đúng, là buồn tẻ, cả câu chuyện mở đầu chỉ toàn những sự buồn tẻ, vắng lặng và u buồn.

Những kiếp người trong câu truyện như chờ đợi, mong ngóng một điều kì diệu nào đó sẽ xảy đến với họ, đó là bác sẩm, chị tí, bác Siêu và bà cụ Thi điên. Một vài gương mặt u buồn, ẩn chìm trong cuộc sống u buồn, Thạch Lam đã dựng lên bối cảnh rất chân thực về kiếp người lúc bấy giờ. Hẳn phải yêu thương họ lắm, Thạch Lam mới cảm nhận tinh tế được như thế những nỗi buồn thầm kín của họ, những cảm xúc mơ hồ.Cuộc sống cứ thế trôi qua ư? Không, Thạch Lam phải làm điều gì đó, mà như ông nói phải làm người ta thanh cao hơn. Sự sống không thể bị nhấn chìm như vậy được. Liên và An vẫn còn thức, trời đã về đêm khuya lắm rồi, giấc ngủ đã muốn kéo đến mà muốn ríu cả mắt.

Nhưng Liên và An vẫn thức, người ở đây vẫn thức, dù biết có sớm hay muộn cũng chẳng bán được là bao. Họ thức vì lí do khác, vì niềm hi vọng của họ sắp đi qua, đó là chuyến tàu đêm, Liên và em cố thức, “vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”Chuyến tàu đến, là muôn vàn điều kì diệu được mở ra. “Đèn ghi đã ra kia rồi” thật vậy, ánh sáng huyền diệu đó của chuyến tàu đã đến rồi đây. Ánh sáng của chuyến tàu khác hẳn với ánh sáng ở phố huyện, bằng biện pháp tương phản đối lập, Thạch Lam đã đối ánh sáng của chuyến tàu với những “hột sáng lọt qua phên nứa” nhỏ bé, hay ánh sáng của chiếc đèn con chị Tí.

Ánh sáng đấy là “ngọn lửa xanh biếc” “sát mặt đất như ma trơi” hiện lên đầu tiên. Rồi những âm thanh vang rộn, âm thanh rõ nét, chứ không giống mấy tiếng trống cầm canh đêm khuya chìm ngay vào bóng tối. “tiến còi xe lửa ở đâu vang lại” “trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Mọi cảm xúc bắt đầu ùa đến, Liên vội vàng đánh thức em để An không bị lỡ chuyến tàu qua đêm nay, trong lòng hai chị em luôn ngập tràn hi vọng.“Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến là tiếng hành khách ồn ào khe khẽ” những âm thanh thực xa xỉ, tiếng những người ở Hà Nội về.

Chuyến tàu được tả với những “toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường” “những toa hạng sang trọng lố nhố” “đồng và kền sáng lấp lánh” “cửa kính sáng”. Những thứ chỉ có ở thành phố, những thứ xa xăm và xa xỉ biết nhường nào. Tuy chuyến tàu đêm nay thưa vắng người và kém sáng hơn. Nhưng họ đã mang theo cả một bầu trời hi vọng của hai chị em bé nhỏ, thời Liên còn ở Hà Nội, được thưởng thức nhiều thứ, và “Hà Nội nhiều đèn quá!”

Chuyến tàu hi vọng đã thực đi qua, là một sứ giả trung gian dẫn hai chị em đến một thế giới khác, không giống với bóng tối nơi đây, không còn những kiếp người tù túng nghèo khổ, và họ như được tiếp thêm sức mạnh để sống tiếp, thanh lọc tâm hồn nghèo nàn của họ. Thạch Lam đã gieo vào họ một niềm tin sức mạnh của sự sống. Chi tiết đoàn tàu đêm thực sự rất đẹp, là một ánh sáng lớn của cả câu truyện.

Mặc dù ngay sau đó tất cả sẽ lại chìm đi vào bóng tối, nhưng chỉ cần nhiêu đó, đã đủ thắp lên một chân trời hi vọng, ước mơ nhỏ bé của họ.Chi tiết chuyến tàu đêm đi qua phố huyện khép lại, nhưng lại mở ra một ý nghĩa nhân văn to lớn. Một thái độ trân trọng ước mơ của con người của Thạch Lam, thể hiện một ngòi bút đa cảm và ông xứng đáng là một phong cách nghệ thuật lớn.

Bài mẫu số 2

Hai đứa trẻ là truyện ngắn hiện thực giàu chất thơ của Thạch Lam, qua câu chuyện về cuộc sống tẻ nhạt người dân phố huyện, nhà văn tái hiện chân thực về cuộc sống đời thường với những hoạt động đời thường và những số phận đau khổ, tối tăm trong xã hội cũ đồng thời thể hiện sự trân trọng, yêu thương của nhà văn với số phận con người. Trong truyện ngắn, hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện xuất hiện nhiều lần không chỉ gây ấn tượng cho cảm nhận của độc giả mà còn góp phần thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Con người và không gian phố huyện hiện lên trong tác phẩm với sự nhạt nhòa, tẻ nhạt đơn điệu và cuối cùng bị bóng tối nhấn chìm. Bóng chiều buông xuống càng làm cho nhịp sống của người dân phố huyện trở nên buồn tẻ, thê thảm đến đáng thương. Từ khung cảnh buồn, ảm đạm của phố huyện nhà văn Thạch Lam đã tập trung miêu tả cảnh đoàn tàu xuất hiện.

Cảnh đoàn tàu xuất hiện không chỉ là một chi tiết làm “đầy đặn” hơn cho nội dung tác phẩm mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, biểu tượng cho cái tươi sáng dẫu nhỏ bé cho không khí tù đọng, ngột ngạt của phố huyện. Cũng giống như những người dân phố huyện khác, chị em Liên và An đã sống những ngày tháng vô vị, tẻ nhạt. Ngày nào hai chị em cũng chờ đến giây phút đoàn tàu đi qua phố huyện không chỉ chỉ vì lí do chờ tàu đến để bán hàng cho khách xuống tàu mà còn nhằm thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được ngắm nhìn đoàn tàu.

Chuyến tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ An và Liên cố thức để chờ chuyến tàu vì đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya, cũng là giây phút duy nhất trong ngày phố huyện trở nên nhộn nhịp hơn bởi ánh sáng và âm thanh sôi động, nó đối lập hoàn toàn với không khí tẻ nhạt của ban ngày. Và với hai đứa trẻ như Liên và An thì chuyến tàu là cả một thế giới khác, tươi sáng và rực rỡ hơn khác hẳn với cái lập lòe của ánh đèn của chị Tí và ngọn lửa của bác Siêu.

Trước khi đoàn tàu dừng lại nơi phố huyện là ánh đèn và tiếng thông báo vang vọng của người gác ghi, xa x a là tiếng còi tàu theo hướng gió vẳng lại. Nhà văn Thạch Lam đã rất tỉ mỉ miêu tả hình ảnh chuyến tàu thông theo trình tự thời gian và qua tâm trạng háo hức chờ mong của chị em Liên, An. Nhìn về phía đoàn tàu đang đến, Liên nhìn thấy ngọn lửa xanh biết sát mặt đất lập lòe, ảo diệu như ma trơi, tiếp đó là âm thanh tiếng còi xe lửa xé gió trong đêm khuya.

Đoàn tàu càng đến gần, mọi cảm nhận càng trở nên chân thực, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, cùng với đó là làn khói trắng được tỏa ra trong không gian. Tiếng hành khách ồn ào dần đi tới, các toa tàu sáng trưng, tiếng cười nói vang vọng trong không gian phố huyện. Sau khi hành khách đã xuống hết, đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh đi xa dần và cuối cùng là mất hút trong đêm tối mênh mông.

Có thể thấy Thạch Lam đã rất tinh tế trong việc miêu tả hình ảnh đoàn tàu. Sự chân thực trong hình ảnh và âm thanh khiến cho người đọc như từng bước đi vào tác phẩm và trở thành những người chứng kiến trực tiếp hình ảnh đoàn tàu và câu chuyện chờ tàu của chị em Liên.

Chuyến tàu chỉ dừng lại chốc lát nhưng lại mang đến cho những đứa trẻ bao cảm xúc từ háo hức, mong chờ đến chút nuối tiếc. Hình ảnh đoàn tàu như hình ảnh của tương lai, nó mang đến cho độc giả cảm nhận về một cuộc sống tươi đẹp hơi, nơi đông đúc, sôi nổi đầy âm thanh và ánh sáng.

Đối với độc giả, chuyến tàu đêm cùng tâm trạng mong chờ, háo hức của những đứa trẻ không chỉ mang đến những nụ cười vui vẻ, nhẹ nhàng mà còn mang đến bao bâng khuâng, thương cảm cho những số phận, những con người nghèo khổ.

Đoàn tàu là hiện thân của một tương lai tươi sáng, là thế giới của ánh sáng và những niềm vui hiếm hoi trong cuộc sống tẻ nhạt đời thường. Hình ảnh ấy như mang đến âm hưởng lạc quan, gieo vào lòng người đọc niềm tin về tương lai tươi sáng cho những phận đời hẩm hiu, bất hạnh.

Bài mẫu số 3

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là 1 trong những những truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết vụn vặt, vô nghĩa nhưng kì thực lại là tác phẩm đạt trình độ cao về diễn tả tâm trạng nhân vật. Nội dung truyện ngắn chủ yếu đi sâu vào miêu tả những cảnh đời thường, số phận nghèo khổ, tối tăm trong xã hội cũ. Qua đó tác giả muốn gửi gắm 1 cách kín đáo nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý.

Toàn thiên truyện tác giả tập trung vào những chi tiết nhỏ nhặt, vụn vỡ tưởng như rời rạc nhưng lại có một sức gợi cực tả. Khi tái hiện lên một bức tranh làng quê nơi phố huyện nghèo nàn với sự leo lét của những ánh đèn, sự tối tắm của không gian, sự quẩn quanh của cuộc sống. Nhưng có lẽ hình ảnh đoàn tàu ở cuối thiên truyện là hình ảnh nổi bật rõ nét nhất toàn bài. Hình ảnh đoàn tàu mang rất nhiều lớp nghĩa khác nhau, tưởng chừng nhỏ giản đối kháng nhưng chất chứa trong đó bao bài học, tư tưởng cao cả của một nhà văn trữ tình lãng mạn tinh tế bậc nhất. Qua đó thể hiện được ước mơ, niềm tin và khát vọng của những kiếp người nghèo khổ.

Buổi chiều nơi phố huyện mở ra bằng những đường nét đầy ảm đạm, cô quạnh báo hiệu 1 ngày sắp tàn theo đúng như nghĩa của nó. Với những âm thanh, hình ảnh: tiếng trống thu không trên cái chòi huyện nhỏ, những đám mây hồng như hòn than, dãy tre làng đen lại… nhưng không kém phần nên thơ trữ tình. Hai nhân vật chính ở đây là hai chị em Liên và An.

Sau 1 ngày làm việc vất vả cực nhọc. Con người nơi đây mới bắt đầu cuộc sống với những gánh phở, những chén nước nguội lạnh, mảnh chiếu trải đất kéo đàn….tất cả thoáng hiện lơn đối kháng lẻ, lặng lẽ, nhần chìm trong bóng tối. Cảnh chiều đêm buông xuống được tác giả miêu tả làm cho nền hình ảnh đoàn tàu xuất hiện. Trên nền trời tối tăm của khung cảnh đó tác giả miêu tả đoàn tàu và thói quen đón đoàn tàu của hai đứa trẻ thật cho tiết, tỉ mỉ. Lí do đợi tàu của hai đứa trẻ bao gồm cả việc chờ tàu đến để bán hàng cho các hành khách trên tàu xuống mua bán. Cái đó chính là cái thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được ngắm nhìn tàu của hai chị em Liên.

Hai chị em Liên đã sống 1 ngày vô cùng mệt mỏi và tẻ nhạt. Chúng chỉ bán được vài món hàng bao diêm, gói thuốc lá, xà phòng… Đến tối thì kiếm hàng và đếm lại số tiền ít ỏi đó. Hai đứa trẻ trơ trọi trong bóng tối, trên chiếc chõng cũ sắp gãy giữa không khí oi bức và tiếng muỗi kêu ran. Chỉ có một người đến với các em, là bà cụ Thi, một bà già hơi điên tối tối thường ghé mua rượu hàng các em.

Các em chờ tàu đêm chạy ngang qua trong tâm trạng vô cùng háo hức. Sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu… là cái mốc để các em đi đếm thời gian đang xích lại gần với chuyến tàu. Cả hai chị em đều buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố gắng ngồi chờ chuyến tàu. Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Với hai đứa trẻ của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Có lẽ chính vì thế mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả 1 cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước từ xa với ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu theo gió vẳng lại. Tiếp theo là Liên tưởng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi tàu xe lửa trong đêm khuya. Kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Thế rồi, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi xa dần mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…

Cánh quan sát, miêu tả của Thanh Lam rất tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự lúc tàu từ xa, lúc tàu đến rồi xa dần bằng nhiều giác quan cùng với rất nhiều sắc thái cảm giác; bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại. Chuyến tàu đi qua phố huyện chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã để lại cho hai đứa trẻ bao nhiêu cảm xúc và nuối tiếc. Phố huyện rầm rộ, ồn ào lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Gần như đã thành nếp, những người dân phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi xa.

Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp. Liên lặng lẽ mơ tưởng đến Hà Nội xa xăm…, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng khi thầy chưa mất việc. Đó là cuộc sống ở 1 thời xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. Đoàn tàu còn lại hình ảnh của tương lai, nó khiến người ta hình dung ra một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Việc Liên và An đón đợi đoàn tàu xuất phát từ nhu cầu bức thiết về tinh thần muốn thoát cuộc sống buồn chán hiện tại và được sống trong một thế giới mới tươi đẹp hơn. Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui và gợi thật nhiều bâng khuâng thương cảm.

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực vui vẻ, huyên náo bao nhiêu thì càng làm cho cảnh sống nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng bấy nhiêu. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Nhưng qua đó ta cũng thấy trong đó sự len lỏi niềm tin vào 1 cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ nên một khung cảnh nghèo nàn nơi phố huyện vào thời khắc sắp tàn. Ở đó hiện lên những kiếp người nhỏ bé nghèo khổ nhưng trong tâm hồn họ ta thấy niềm tin mãnh liệt về 1 cuộc sống tốt đẹp trong tương lai tươi sáng. Và trên hết ta còn thấy ở đó tấm lòng xót thương nhân đạo cao cả của nhà văn Thạch Lam.

Bài mẫu số 4

Nhà văn là người đem khí giới thanh cao của mình để đấu tranh vì một thế giới thanh bình, tự do, bác ái. Đâu chỉ hướng ngòi bút đến những điều lớn lao, nhà văn còn là người lắng nghe và nói hộ nỗi buồn của một con chim, chiếc lá. Và đặc biệt nhà văn dùng cái tâm của mình đặt giữa nỗi buồn của những kiếp người đau khổ. Cái tâm ấy một nhà văn xuất thân từ dòng văn chương lãng mạn như Thạch Lam lại trong sáng, long lanh đến lạ. Từ một truyện ngắn không cốt truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh đời sống của những phận đời le lói như ánh sáng hắt hiu nơi phố huyện nghèo. Điều đáng quý hơn cả là cách nhà văn để cho “chừng ấy người trong bóng tối” tìm được chút ánh sáng hy vọng từ chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.

Để viết lời tựa cho tập truyện Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam, nhà văn Khái Hưng có viết: “Ở mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói, nói một cách giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của tác giả và của độc giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tưởng, vì có cái ta cảm thấy mà không thể dùng tư tưởng để mô tả cảm giác của ta.” Lời nhận xét của một người anh trong cùng nhóm Tự lực văn đoàn đã bộc lộ đúng cái hồn cốt của văn phong Thạch Lam. Truyện ngắn không nặng về cốt truyện, không thiên về tình tiết và độ gay cấn mà dồn vào cảm giác. Đọc từng trang văn của Thạch Lam ta nghe như thấm thía cái cảm giác trong ngần vừa bước ra khỏi sợi dây rung cảm của nhà văn và bắt nhịp vào sợi dây đồng cảm của độc giả.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút ra từ tập Nắng trong vườn (1938) lấy cảm hứng từ khoảng đời cơ cực của chính nhà văn và chị mình thời thơ ấu.Cái hay của truyện ngắn Hai đứa trẻ được tạo ra bởi những câu văn như ru, như êm dịu dẫn dắt tâm hồn vào cuộc đời thực, có những con người thực đang chờ đợi được sự giao cảm và thấu hiểu. Những cuộc đời như hai chị em Liên, An, mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm, bác Siêu, bà cụ Thi…lần lượt hiển hiện lên trên nền bức tranh phố huyện nhập nhoạng giữa ánh sáng và bóng tối mà bóng tối giữ thế thượng phong. Toàn cảnh phố huyện chật hẹp được cảm nhận qua cái nhìn đầy tâm trạng của chị Liên, cũng là nhân vật chính trong truyện ngắn. Dòng thời gian vật lý chảy chung dòng thời gian tâm lý để bức tranh phố huyện từ chiều tàn đến nửa đêm mở ra theo câu chuyện đời của hai nhân vật Liên , An.

Hai chị em Liên, An đã từng có những ngày mơ mộng bên gia đình ở Hà Nội phồn hoa. Vì gia cảnh túng kiệt nên hai đứa trẻ phải theo mẹ về ở phố huyện nghèo. Hai chị em trông coi một cửa tiệm tạp hoá bé xíu gần ga tàu. Cũng ở đó bao nhiêu số phận hẩm hiu, mỗi người một cảnh, mỗi người một nét vẽ để bức tranh hiện thực cuộc đời hiện ra đáng thương. Những đứa trẻ con nhà nghèo bám víu vào vài ba thứ sót lại của một buổi chợ tàn “Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Mẹ con chị Tí trông chờ vào hàng nước cỏn con, đơn sơ mà vẫn ế ẩm. Ngọn đèn lay lắt của chị không đủ sáng một vùng đất cát. Hai vợ chồng bác Xẩm với đứa con tội nghiệp thu đời mình trên manh chiếu rách cùng tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng. Tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên say không khiến bầu không gian phố huyện nới rộng ta mà dường như càng ngột ngạt hơn bởi nỗi bế tắc nén chặt trong những bước đi lảo đảo của bà. Đời bác Siêu thì có hơn gì cho dù bác có bán thứ quà xa xỉ đi nữa. Gánh nặng áo cơm đâu chỉ bóp nghẹt không khí vào buồng phổi của người lớn, cả hai đứa trẻ như Liên, An cũng vì nỗi lo miếng ăn mà đánh mất tuổi thơ vô tư. Nhất là chị Liên, cô chị có đôi mắt của một thế giới nội tâm bí ẩn đầy tình thương và sự tử tế. Cũng chị Liên, nhân vật duy nhất ý thức được đầy đủ, tinh tế nỗi buồn tẻ của mình.

Sự bế tắc tù túng của phố huyện len lỏi vào trong từng hơi thở đặc sệt bóng đêm tưởng chừng không có điểm vô cùng. Vậy mà họ vẫn đều đặn như một con ong chăm chỉ hoàn thành phần việc của mình từ khi chiều xuống đến lúc nửa đêm. Chị Tí vẫn chong đèn đợi khách, vợ chồng bác Xẩm lại trải manh chiếu rách, gánh phở bác Siêu vẫn kĩu kịt bước qua.”Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.” Điều họ trông đợi nhất cũng là tấm lòng ưu ái của nhà văn dành cho phận đời bé mọn không gì khác là chuyến tàu cuối cùng của đêm. Chuyến tàu xuất phát từ Hà Nội về ngang phố huyện nghèo. Chuyến tàu đêm là hoạt động cuối cùng của một ngày cũng sự chờ đợi cuối cùng trước khi khép lại bức tranh không quá nhiều ánh sáng.

Cuộc ghé thăm chóng vánh của chuyến tàu đêm được miêu tả theo trình từ thời gian trước, trong và sau khi đoàn tàu đi qua phố huyện. Chuyến tàu này vẫn đi ngang mỗi ngày lúc 9 giờ tối theo lộ trình khách quan được định sẵn. Tuy vậy qua cái nhìn chủ quan của nhà văn và cũng như sự mong đợi của “chừng ấy người”, con tàu qua phố huyện là việc nên làm, cần làm bởi nó đối với người dân phố huyện là cả một thói quen của cảm xúc và ước vọng. Con tàu chiếm lấy sự háo hức của hai đứa trẻ vì thế mà dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng An vẫn dặn chị đánh thức mình dậy khi tàu đến.

Thời điểm mà đoàn tàu sắp đi qua phố huyện được đánh dấu bằng sự trở lại của tiếng trống thu không. Tiếng trống này đã xuất hiện ngay phần đầu truyện như một dấu hiệu của ngày tàn. Đến đêm, nó lại vang lên “một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”. So với tiếng trống ban chiều rời rạc điểm nhịp sống nặng nề thì tiếng trống cầm canh ban đêm cũng u uất không kém. Bản thân tiếng trống thu không báo hiệu bước đi của thời gian, cũng là dấu hiệu đủ uy lực giục giã nhất phố huyện nhưng dường như sự góp mặt của nó không làm từng bừng hoặc khiến thời gian trôi nhanh mà mọi thứ dường như ngưng động theo cái ao tù phẳng lặng này. Dấu hiệu tiếp theo cho sự xuất hiện của đoàn tàu là những người làm công trong hiệu khách đi đón bà chủ từ tỉnh về. Đoàn tàu xuất hiện với ánh sáng của đèn ghi theo lời hô đầy phấn khởi của bác Siêu.

Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, An và những con người nhỏ bé nơi phố huyện được nhà văn miêu tả tỉ mỉ như thể đó chính là kỳ vọng của nhân vật mình, háo hức đến không nỡ bỏ sót chi tiết nào. Mỗi hình ảnh, âm thanh trong lúc này đều là sự sống, một sự sống đang cựa mình vang động trong đêm. Hai đứa trẻ dùng mọi giác quan nhạy bén vốn có để nhìn, nghe, cảm những gì thuộc về đoàn tàu. Hai đứa trẻ “nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”. Nhìn thấy “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Con tàu mỗi lúc mỗi tiến đến gần hơn, những dấu hiệu của nó ngày thêm rõ rệt “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới”. Khoảnh khắc đoàn tàu đến trước mắt với hai đứa trẻ như một kỳ quan không phải mỗi đêm đều có mà là lâu lắm mới được chứng kiến. Hai đứa trẻ đứng dậy, hành động này xuất phát từ mong muốn được ngắm trọn vẹn mọi ngóc ngách của con tàu cũng là thái độ trân trọng dành cho những gì mình xem là rất quan trọng.

Đáp lại sự mong mỏi của người phố huyện, con tàu hiện ra với “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Một thế giới sáng rực cùng những gam màu trong mơ “sáng trưng, chiếu ánh, đồng và kền lấp lánh, cửa kính sáng” cùng lúc xuất hiện đãi ngộ cho thị hiếu non nớt nhiều mơ mộng của hai chị em. Thế nhưng cũng như lúc nó xuất hiện, con tàu vội vàng “vụt” qua nơi này trong ánh nhìn còn dài nuối tiếc của bao nhiêu đôi mắt chỉ quen với bóng tối nơi phố huyện. Cách nhà văn đặt đôi mắt cảm nhận ở nhân vật Liên phát huy được hiệu quả diễn đạt. Chỉ có những đứa trẻ chưa hoàn toàn thành người lớn nhưng vẫn có chút hiểu biết của người lớn mới có những giác quan nhạy bén để quan sát mọi thứ chi li dù chỉ là “những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng” và nhận ra tàu hôm nay không còn đông như mọi khi nữa.

Đoàn tàu đã đi xa mãi rồi khuất sau rặng tre, rặng tre thì chìm trong bóng tối. Chuyến tàu đêm đi qua, hoạt động cuối cùng cũng là hoạt động huyên náo nhất trong ngày của nơi này đã kết thúc. Những gì thuộc về sự hào quang phút chốc còn lại cũng đã bị bóng tối nuốt chửng. Chuyến tàu rực rỡ kia chẳng khác nào một tia chớp loé lên ngắn ngủi chưa kịp soi sáng từng khuôn mặt của những người nơi phố huyện đã vụt mất cùng với bao nuối tiếc. Ánh sáng phút chốc của đoàn tàu không thể làm thay đổi bóng tối cố thủ nơi phố huyện nhưng ít ra nó cũng mang đến những ý nghĩa tích cực cho cuộc sống bế tắc, tù túng của con người.

Được nhìn thấy đoàn tàu đêm đi qua đã làm người dân phố huyện thoả mãn thị giác. Đôi mắt họ vốn chỉ quen với từng ấy người, từng ấy việc và nhất là quen với bóng tối bao trùm thì việc nhìn thấy ánh sáng mới lạ của đoàn tàu giống như cảm giác ngắm một ngôi sao xa, vừa ngỡ ngàng vừa thích thú. Cảm xúc này rất cần thiết để duy trì sự sống vì cuộc sống nếu chỉ mãi trong một tâm trạng tẻ nhạt thì có khác nào sự tồn tại của những chiếc bóng. Vậy chuyến tàu đêm đã hoàn thành ý nghĩa tái tạo cảm xúc của con người dù cảm xúc ấy cũng sẽ chóng mất đi.

“Chừng ấy người” chờ đợi một chuyến tàu đêm không phải để bán buôn bởi vì cũng chẳng hành khách nào ghé đến vài ba gian hàng bé xíu trong lúc nửa đêm. Vậy mà đã thành thông lệ, “chừng ấy người” vẫn đợi tàu vì đó là hoạt động sôi nổi, huyện nào nơi phố huyện, hoạt động ấy khác hẳn với cái tĩnh mịch vốn có kéo dài đến ngộp thở của phố huyện. Đoàn tàu mang đến làn gió mới, làn gió của niềm mơ ước về một Hà Nội xa xôi rực rỡ ánh đèn trong mảng ký ức tươi đẹp nhất mà hai chị em Liên, An từng có. Chuyến tàu đêm mở ra một thế giới đầy ánh sáng và mơ ước đối lập với cuộc sống tăm tối hàng ngày. Âm thanh của còi tàu, tiếng hành khách..phần nào khuấy động được sự u ám vốn có của nơi này để trong khoảnh khắc cuộc sống ước mơ của người dân phố huyện được hình dung cụ thể bằng hình ảnh đoàn tàu. Như vậy ý nghĩa không thể phủ nhận của chuyến tàu đêm là nhen nhóm niềm hy vọng sống, dù hy vọng ấy ít ỏi, nhỏ bé.

Hình ảnh đoàn tàu còn là biểu tượng của một thế giới đáng sống. Thế giới ấy có đầy đủ tiện nghi “đồng kền lấp lánh”, có âm thanh, màu sắc và có những con người luôn an nhàn trên những toa hạng sang mà không phải cúi mặt nhìn cuộc đời như bao nhiêu thân phận hẩm hiu nơi phố huyện. Xây dựng ý nghĩa đoàn tàu trên phương diện này, nhà văn đã góp phần phản ánh hiện thực nghèo nàn, lạc hậu của một nơi hẻo lánh dường như bị ánh sáng bỏ rơi. Ấy cũng là hiện thực chung của xã hội Việt Nam trước Cách mạng cần lắm một ánh sáng lý tưởng soi đường.

Không chỉ thế, chuyến tàu đêm xuất hiện bằng cả tấm lòng yêu thương, trân trọng của Thạch Lam đối với những kiếp người vô danh, vô định. Ông cố đem ánh sáng trong tim mình tỏa sáng đoàn tàu để gửi cho họ thông điệp: cuộc sống cần lắm những hy vọng và ước mơ, dẫu cho hy vọng và ước mơ ấy có xa vời cũng nên có hơn là chấp nhận sống lầm lũi, nhạt nhẽo. Vậy nên đoàn tàu còn là lời nhắn gửi chân thành đến những con người bất hạnh: hãy cứ tiếp tục chờ đợi, tiếp tục kiên trì mà sống, sự nhẫn nại rồi sẽ được đáp đền.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng có nhận xét rất thấu đáo về truyện ngắn Hai đứa trẻ và phong cách nghệ thuật tiêu biểu ở Thạch Lam “Truyện ngắn hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quá vãng đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Đọc Hai đứa trẻ thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”. Niềm êm ái và sâu kín mà chúng ta tìm thấy ở Thạch Lam chính là việc xây dựng hình tượng chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Một chuyến tàu chạy trong hành trình hiện thực cũng xuyên suốt hành trình tâm tưởng, hoá thân thành những giấc mơ cổ tích của một lớp người sống lay lắt, ẩn mình vào nỗi sầu của xã hội.

Từ một con tàu đã thắp lên hy vọng sống, Thạch Lam muốn gửi lời của sự sống đến thế hệ mai sau. Đâu đó trong cuộc đời vẫn còn những Liên, An đánh mất tuổi thơ vì gánh nặng áo cơm. Vẫn còn cảnh mẹ con chị Tí sáng mò cua, bắt ốc, tối đến chong đèn chờ đợi bán được ít hàng. Còn những người nghệ sĩ vì đói nghèo mà đem lời ca, tiếng hát mua vui cho đời như bác Xẩm. Còn cả những con người vì bế tắc mà hoá ra điên dại như bà cụ Thi. Thế nên xã hội cần, rất cần những con tàu ánh sáng, con tàu hy vọng được thắp lên từ tấm lòng bao dung, yêu thương của mỗi chúng ta.

Bài mẫu số 5

Trong mỗi tác phẩm đều có những nhân vật chính nhân vật phụ, đều có những yếu tố ngoại cảnh làm nên bức tranh toàn diện của câu chuyện. Trong Hai đứa trẻ của nhà văn nổi tiếng Thạch Lam, ngoài những con người nơi phố huyện, thì đoàn tàu là một yếu tố có tầm ảnh hưởng sâu sắc.

Tác giả Thạch Lam không để đoàn tàu xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm. Nhà văn mang ánh sáng của đoàn tàu tới sau khi đã lột tả bức tranh phố huyện u tối, nghèo qua các nhân vật. Có lẽ nhờ thế mà hình ảnh đoàn tàu càng khắc sâu trong tâm trí người đọc: “An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa, …. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu. Chín giờ có chuyến tàu ở Hà Nội đi qua huyện. Đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Điều thú vị hơn cả, khi phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm trong Hai đứa trẻ, độc giả sẽ có cơ hội nhìn thấy bức tranh toàn cảnh từ lúc tàu sắp tới, tàu dừng lại cho đến khi tàu đi rất thú vị. Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam báo trước việc đoàn tàu sẽ đến bằng những dấu hiệu như có ánh sáng từ đèn ghi xanh biếc, có tiếng còi của xe lửa vọng từ xa, có tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng xình xình của động cơ xe lửa, có một làn khói trắng bay lên trời từ đằng xa.

Càng đến gần, hai chị em Liên cũng như người dân phố huyện sẽ nghe thấy âm thanh tiếng của những hành khách ồn ào khe khẽ. Với từng ấy thứ thôi cũng đủ lôi cuốn người đọc chứ nói gì đến hai đứa trẻ đang háo hức mong ngóng những điều mới mẻ. Đó cũng là một phần lí do mà hai chị em Liên phải thức chờ chuyến tàu đêm cho bằng được, mặc dù mắt đã ríu lại.

Nếu như cảnh đoàn tàu sắp đến đã hấp dẫn bao nhiêu thì cảnh khi tàu dừng ga lại thú vị bấy nhiêu. “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.

Trong mắt hai chị em, đoàn tàu chạy qua cũng để lại nhiều ý nghĩa. Với người bình thường, đoàn tàu ấy ngày nào chẳng như ngày nào. Thế nhưng với hai chị em Liên, đoàn tàu ấy có những toa tàu sáng trưng, cửa kính sáng lên lấp lánh, đồng và kền lấp lánh… Vì ngày nào cũng chờ đợi để được ngắm nhìn nên hai chị em quan sát tỉ mỉ kỹ lưỡng. Sự nhạy cảm của hai đứa trẻ nhận ra sự thay đổi nhỏ trên tàu đó là hôm nay không đông, thưa vắng người và người cũng kém sang hơn. Chỉ qua sự miêu tả chi tiết đó thôi cũng đủ thấy, hai chị em khát khao được một lần theo đoàn tàu ấy về lại Hà Nội như thế nào.

Liên bảo ngày trước khách còn xuống sân ga để mua đồ nhưng càng ngày điều đó càng ít. Người bán ở ga cũng chẳng mở quán. Vì thế đoàn tàu không dừng lại lâu mà vụt tua nhanh chóng. “Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”.

Cảnh đoàn tàu vụt qua như một tia chớp nhưng cũng may thay, nó cũng kpj mang đến cho phố huyện nghèo tăm tối này một nguồn sáng lấp lánh, tỏa khắp.

Qua đây chúng ta càng thấy rõ, tâm hồn con người thực sự có tác động mạnh mẽ tới cảnh vật. Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm trạng của hai chị em Liên rất háo hức chờ đón đoàn tàu nên dù nó không như ngày thường thì với hai chị em nó vẫn thật đẹp. Đoàn tàu lao vào đêm, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường tàu. Hai chị em cứ mãi nhìn theo cái chấm nhỏ trên chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng. Tuy nhiên, lúc đoàn tàu đi cũng là lúc nó để lại cho chị em Liên bao sự hụt hẫng và tiếc nuối. Bởi dù đã cách xa, nhưng hai chị em vẫn luôn mơ về Hà Nội. Nơi có cuộc sống không tù túng, túng quẫn tẻ nhạt như phố huyện tăm tối này:

“Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

Mặc dù chuyến tàu đêm chỉ xuất hiện chớp nhoáng rồi vụt biến mất nhưng người dân phố huyện, mà đại diện là hai chị em Liên vẫn luôn đợi chờ, mong ngóng. Bởi chuyến tàu đến đã mang tới một luồng sinh khí mới cho con người và mảnh đất nơi đây. Ánh sáng, con người và không gian tàu hoàn toàn trái ngược với sự tĩnh lặng, nhàm chán và đầy u tối của phố huyện. Hình ảnh đoàn tàu vừa là hồi ức về một cuộc sống ấm no, đủ đầy, nhộn nhịp hạnh phúc xưa kia của hai chị em Liên. Nhưng nó cũng chính là ước mơ, khát vọng được đổi đời, về một tương lai tươi sáng của hai chị em Liên và người dân phố huyện.

Qua đây, độc giả càng khâm phục hơn sự tài tình trong cách miêu tả và sự nhạy cảm trong tâm hồn của nhà văn Thạch Lam. Chỉ những người có trái tim nhân với tấm lòng thương cảm những kiếp người nghèo khổ sâu sắc thì tác giả mới viết ra được những áng văn bất hủ này. Đó cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc.

Phân tích hình ảnh đoàn tàu trong Hai đứa trẻ, ngoài giá trị nhân văn, nó còn mang giá trị nội dung và nghệ thuật văn học độc đáo. Đó là cảnh đoàn tàu đến và đi được lột tả một cách chân thực và sinh động. Nó cũng chính là nút thắt mở tạo nên cao trào của tác phẩm. Nếu đoàn tàu không xuất hiện, Hai đứa trẻ chỉ sẽ như một tấn bi kịch tẻ nhạt về một phố huyện nghèo. Nhưng khi đoàn tàu xuất hiện, đã khiến nội dung tác phẩm trở nên sống động hơn, đa sắc màu và cuốn hút hơn.

Với nghệ thuật hiện thực kết hợp với sự lãng mạn tinh tế, tác giả Thạch Lam đã biến hình ảnh đoàn tàu bình thường thành một biểu tượng sống, mang ý nghĩa thâm sâu.

Một lần nữa, độc giả khẳng định lại óc quan sát tinh tế và sự nhạy cảm hiếm có trong tâm hồn của nhà văn Thạch Lam. Chỉ có ông, người có trái tim luôn biết thương cảm với những phận đời éo le mới có thể xây dựng nên bức tranh phố huyện và đoàn tàu chân thực, nhiều xúc cảm như vậy. Đoàn tàu như một khối sắt khổng lồ thường ngày bỗng trở nên thật có hồn dưới ngòi bút của tác giả. Hình ảnh đoàn tàu không chỉ là quá khứ tươi đẹp mà còn là những ước mơ và khát vọng. Đó còn là niềm tin vào một ngày mai tươi sáng khi người dân phố huyện sẽ không phải cực khổ từ túng nghèo nàn. Đó cũng chính là ánh sáng của cách mạng, con đường đi tới xã hội mới của người dân Việt Nam.

Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

Bài mẫu số 1

Khác với các nhà văn đương thời cố đi tìm những điều mới mẻ hoặc lớn lao, khác thường, Thạch Lam một mình lặng lẽ tìm về với những giá trị nguyên sơ vốn bị chìm khuất trong cuộc đời tàn lụi. Ông cũng không cố công kết cấu những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi với Thạch Lam, cuộc đời chưa bao giờ là hoàn chỉnh. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Phong cách ấy thể hiện rõ nét trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Bức tranh phố huyện và hình ảnh những số phận con người lầm lũi trong hiu hắt ngày tàn được gợi lên thật cảm động.

Thạch Lam thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Ông rất chậm rãi và nhẹ nhàng đi vào thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật như sợ gây ra tiếng động làm đổ vỡ thế giới ấy. Ông chắt chiu từng chút một, đúng ngắm nhìn thật lâu một trạng thái, một chuyển biens cho đến khi nó dứt hẳn mới thôi. Bởi thế, đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt truyện.

Hai đứa trẻ có kết cấu thật đơn giản. Đơn giản ở chi tiết và kết cấu nhưng lại phức tạp ở chiều sâu suy nghĩ. Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đầy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Ai có tâm hồn hời hợt hẳn sẽ không thích cái kiểu kể chuyện lòng vòng, nhạt nhẽo ấy. Thế nhưng, tác phẩm đã gây được sự chú ý và làm rung động biết bao tâm hồn. Điểm cốt yếu đó là, Thạch Lam đã khéo léo nắm bắt tâm hồn người đọc ngay khi họ mới chạm bước chân đầu tiên vào thế giới trong truyện.

Dưới ngòi bút Thạch Lam, Hai đứa trẻ không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha.

Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị. Buổi chiều không tàn đi mà động lại trong từng chữ, từng câu, bám chặt lấy mặt đất, dẫn bước con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảnh đời lam lũ, tăm tối.

Sức dồn nén của một tác phẩm truyện ngắn là ở những chi tiết nghệ thuật đầy sức nặng. Thạch Lam lại làm một cuộc đảo ngược đầy thú vị. Ông lặng lẽ tìm tòi trong ngổn ngang chất liệu mà người ta không màn để tâm đến. Nhà văn ấy đã lặng lẽ mỉm cười khi phát hiện ra những hạt bụi vàng trong ngổn ngang đất đá. Hai đứa trẻ không có những tình tiết ly kỳ, gay cấn nhưng ít có những người dám cam đoan thấy tâm hồn nhẹ tênh, vô hồn, không cảm xúc khi một lần bước qua thế của cái phố huyện nghèo và lặng lẽ ấy.

Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của một ngày từ chiều ta tới đêm khuya. Khung cảnh của câu chuyện chỉ vận động qua ba mảng màu sáng – tối: chiều tàn- chợ tan- đêm tối. Ấy vậy nó vẫn để lại trong lòng độc giả biết bao thế hệ những ám ảnh đến lạ lùng. Như thế, sức hấp dẫn của thiêng truyện này đâu phải được tạo ra từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, lôi cuốn. Cái lực hấp vô cùng trong Hai đứa trẻ hóa ra lại thoát ra từ chính hơi ấm của tình người lan tỏa trong truyện.

Ai có thể cầm lòng không cảm xúc khi đọc những dòng văn như thế: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn Buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Hóa ra, tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiều tàn nơi phố huyện cũng chính là của chúng ta trước khoảnh khắc sự sống ban ngày bắt đầu tàn lụi, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, chia ly nhường chỗ cho sum họp, tha hương nhường chỗ cho Trở Về… văn chương giúp níu giữ trong ta những xúc cảm của tình người; giúp Đánh thức phần sâu thẳm của tâm hồn mà bấy lâu ta không thể thốt lên. Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện hấp dẫn nhưng vẫn đủ sức thu hút người đọc là bởi nó giúp níu giữ và đánh thức những phần hồn như thế.

Như một vị khách bộ hành bền bỉ kiếm tiềm, gom nhặt và kế nối thành những vần thơ từ cuộc đời bình dị, Thạch Lam đã khẽ khàng nhắn nhủ tới tất cả chúng một thông điệp: Cái đẹp của cuộc sống có thể bắt gặp từ những cảnh vật, những con người rất đỗi bình thường mà chúng ta không hề để ý. Cảnh vật của buổi chiều tàn lụi làm đọng lại trong ta dư vị của nỗi u hoài thường trực. Nhưng quan trọng hơn, nhói lòng ta mãi bâng khuâng thương nhớ một miền quê có “tiếng trống thứ không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một văng ra Để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và các hình rõ rệt trên nền trời”.

Quê hương nước Việt muôn đời nay vẫn đẹp dịu dàng êm ả và yên tĩnh như tâm hồn Liên, một cô gái mới lớn tinh tế và nhạy cảm đầy sự trân trọng và nâng niu một mảnh hồn của làng quê thân thuộc. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu vo ve Như một dàn đồng ca hòa mình vào thinh không, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng và níu giữ tình yêu với quê hương, xứ sở.

Làng quê trong hai đứa trẻ nghèo nàn, vắng người, vắng tiếng nhưng vẫn khơi dậy trong lòng ta những cảm xúc chân thành: “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm ru như nhung và thoảng qua gió mát. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm, bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý”.

Thạch Lam đã làm thức dậy trong mỗi chúng ta về một miền kí ức xa xăm trong tuổi thơ diệu vợi. Ngắm bầu trời đêm, tìm sông Ngân Hà, dõi theo con vịt bước sau ông Thần Nông,… liệu có ai đã không từng có những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta ấn tượng về cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh bình thường, nhỏ nhặt. Nó nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy trân trọng và níu giữ hồn quê. Bởi đó cũng chính là hồn người, hồn nước, hồn của những con người mãi chung tình với quê hương, xứ sở.

Đọc Hai đứa trẻ, những tâm hồn đa sầu, đa cảm, nặng lòng với đất, với người, với quê hương sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi, thổn thức. Một miền quê với bức tranh nhân thế hắt hiu, với những kiếp người mỏi mòn như tiếng mọt kêu thổn thức trong buổi chiều tàn tạ, nhưng in đậm trong lòng người đọc bởi một trái tim nồng ấm yêu thương.

Bài mẫu số 2

"Tự lực văn đoàn" là nhóm bút phát triển mạnh mẽ trong thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945. Nhóm bút này có những cây viết rất độc đáo, sáng tạo và có tầm ảnh hưởng tới phần lớn các nam thanh, nữ tú thời bấy giờ. Bên cạnh những bài thơ được ví von như "ngôn tình thời xưa" được viết bởi nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên... thì nhà văn Thạch Lam lại là một cái tên nổi bật trong làng truyện ngắn xuất thân từ nhóm bút này. Với những "Gió đầu mùa", "Nhà mẹ Lê"....đã khẳng định được vị trí của ông đối với nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là truyện ngắn "Hai đứa trẻ". Trong tác phẩm đã khắc hoạ một cách chân thực, rõ nét nhưng cũng vô cùng lãng mạn cái khung cảnh buổi chiều tàn bên con phố huyện vắng vẻ, nổi bật lên là hình ảnh cô bé Liên với những dòng xúc cảm, hồi tưởng xốn xang đến nao lòng.

Gọi là truyện, thế nhưng truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam thường không mang tính kể hay có những diễn biến phức tạp. "Hai đứa trẻ" được viết như một chuyến du hành thời gian, có hiện tại, có quá khứ nhưng lại không có tình huống mở đầu hay thắt nút. Tác giả dường như muốn đặc tả không gian phố huyện nghèo có đường tàu chạy qua, nơi mà niềm vui của những đứa trẻ được gói gọn trong ngắm nhìn đoàn tàu đêm. Nhà văn sử dụng những chất liệu đời thường rất bình dị, miêu tả bức tranh phố huyện hiện lên với sự buồn bã từ con người đến cảnh vật, thêm vào đó là diễn biến tâm trạng của cô bé Liên khi chứng kiến khoảnh khắc lụi tàn của một ngày dài, điều đó đã mang đến cho người đọc những sự đồng cảm với những con người nơi đây.

Nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh phố huyện vào thời khắc hoàng hôn, khi đã trải qua một ngày dài thì vạn vật đều mang một màu sắc ảm đạm thiếu sức sôngs. Bức tranh ấy mang cái vẻ buồn bã, não nề từ con người cho tới cảnh vật xung quanh. Ngày tàn, chợ vãn, những kiếp người cố gắng bám trụ vào mảnh đất nghèo ấy.... tất cả đã tạo nên một không khí nghèo khổ, heo hút cho nơi phố huyện. Khung cảnh ngày tàn ấy lại càng trở nên sinh động hơn với những âm thanh "tiếng trống thu không" báo hiệu kết thúc một ngày lao động từ "trên cái chòi huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", "tiếng ếch nhái kêu ran" ngoài đồng ruộng và cả những "tiếng muỗi vo ve". Chiều tàn buông xuống đã làm phai mờ cảnh vật, màu chiều buồn báo hiệu cho một ngày đã trôi qua. Mặc dù rõ ràng là tả âm thanh, những thứ âm thanh dai dẳng, réo rắt nhưng người ta lại không cảm thấy được sự vui tươi, nhộn nhịp của con người sau một ngày dài lao động mà nó lại hiện lên sự não nề. Tiếng động vật, tiếng trống vẳng lại từ xa ấy cho ta cảm nhận được sự yên ắng, cô liêu của nơi phố huyện bởi chỉ vài âm thanh nhỏ bé ấy đã khuấy động được không gian nơi đây. Trên nền âm thanh ấy là những hình ảnh, màu sắc đượm buồn, "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy", những đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn". Màu của ráng chiều, màu cam, màu đỏ ối hòa quyện vào nhau, sắc hoàng hôn chỉ có thể nhìn ngắm khi sống ở vùng nông thôn. Và chỉ một lát nữa thôi, những màu sắc ấy sẽ bị thay thế bởi một màu đen thăm thẳm của màn đêm, bóng tối sẽ bủa vây và bao trùm lên tất cả. Dường như có những sự tiếc nuối, sự mong muốn níu giữ trong câu văn của tác giả. Những con người nơi phố huyện phải chăng là đang cố gắng cảm nhận, lắng nghe và ghi nhớ những khoảnh khắc cuối cùng của ngày tàn. Một bức tranh phong cảnh thiên nhiên quen thuộc ấy vậy mà sao lại buồn thương đến thế. Hoàng hôn đẹp đẽ, tráng lệ là vậy mà sao hiện lên lại thật ảm đạm, não nề".

Và trên cái nền không gian ảm đạm, não nề ấy hình ảnh con người hiện lên cũng mang những nét đượm buồn, ủ dột. Cảnh phiên chợ tàn cùng với sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm những sự xơ xác, đìu hiu của nơi phố huyện nghèo ấy. "Chợ đã vãn từ lâu", "chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu", trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,...". Con người ở đây xuất hiện tuy không lẻ loi, cô độc nhưng cái nghèo dường như đã ăn vào máu xương, vào cuộc sống của họ, "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất kì thứ gì còn sót lại". Những đứa trẻ nhà nghèo chỉ biết tìm những thứ người ta bỏ lại sau phiên chợ để có cái ăn, có đồ chơi.Những người dân ở nơi phố huyện này lần lượt được xây dựng với những tính cách đối lập, những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ giống nhau bởi một chữ "nghèo". "Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù chăm chỉ làm lụng nhưng vẫn không đủ sống", bà cụ Thí nghiện rượu lúc nào cũng say xỉn, cùng với tiếng cười khanh khách đầy ám ảnh, hai chị em Liên và An - những đứa trẻ còn nhỏ nhưng đã tự coi giữ một cửa hàng tạp hoá giúp mẹ. Rồi gánh phở nhà bác Siêu, một thức quà xa xỉ ở cái phố huyện quanh năm nghèo đói này, rồi gia đình bác Xẩm mù sống bằng nghề hát dạo qua ngày mong mỏi chút tấm lòng hảo tâm của những vị khách qua đường... Những số phận ấy, những con người tưởng chừng như đang ngày một lụi tàn, héo mòn nhưng vẫn ngày ngày bám víu, nương tựa vào mảnh đất này, cùng nhau tồn tại. Cuộc sống của họ mòn mỏi, lay lắt, sống dường như chỉ để qua ngày. Phải chăng cái nghèo, sự buồn chán đã rút hết đi sức sống của họ, hay chính cái hoàn cảnh éo le đã đưa đẩy họ về vùng đất này, để cùng cmar thông và chia sẻ với nhau.

Bức tranh phố huyện tạm bợ, nghèo đói nay lại càng trở nên ảm đạm, ủ dột hơn dưới con mắt của bé Liên. Là nhân vật trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng bắt nguồn từ nhân vật này. Cô bé đã cảm nhận được sự tiêu điều nơi phố huyện, cô xót thương cho những số phận bất hạnh, lận đận của mẹ con nhà chị Tí, cho bà cụ Thi, tiếc nuối cái quãng thời gian mà gia đình khá giả còn được sống nơi phố thị sung túc, đủ đầy. Tâm hồn nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ già trước tuổi của mình, bé Liên đã cảm nhận được "mùi âm ẩm bốc lên trọn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc", sự ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ gì đó quen thuộc trong cuộc sống. Đáng lẽ ra, trẻ con phải có được một cái nhìn ngây thơ, non nớt, lạc quan, yêu đời, thế nhưng với Liên, cô bé như cảm nhận cùng cảnh vật, có yên tĩnh, có buồn thương, có tiếc nuối, có buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh cùng cực, cô bé vẫn nhận thấy được sự chăm chỉ, cần mẫn cố gắng, yêu thương nhau của mẹ con nhà chị Tí, vẫn "rót đầy một cút rượu ty" cho bà cụ Thi điên dở, động lòng thương cho những đứa trẻ đang nhặt rác nhưng đành ngậm ngùi quay đi bởi không có tiền cho chúng, và cũng không quên dành những tình cảm của một người chị cho đứa em - cậu bé An. Liên là nhân vật duy nhất trong tác phẩm được miêu tả có diễn biến cảm xúc, đồng thời nhà văn Thạch Lam cũng lấy điểm nhìn của bé Liên để miêu tả cảnh sắc buổi chiều của nơi phố huyện nghèo. Qua góc nhìn đó, những miêu tả vừa đảm bảo được tính cụ thể, chân thực lại có sự trữ tình, lãng mạn theo cảm nhận của một cô bé đang lớn.

Bức tranh phố huyện hiu hắt, buồn thương được Thạch Lam khắc họa bằng cả tài và tình, người đọc vừa có dịp được sống trong không khí của một phố huyện nghèo, vừa xót thương cho những số phận bất hạnh, tẻ nhạt nơi đây. Thế nhưng ẩn sâu trong những con người ấy vẫn là niềm tin, là sự cố gắng, tin vào bản chất tốt đẹp của con người và cùng mong chờ vào ánh sáng của cuộc đời sẽ soi chiếu cho họ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp nhưng buồn, sự quẩn quanh bế tắc của con người cũng đã đặt ra những nỗi niềm băn khoăn cho người đọc về một kiếp đời sống mòn, đồng thời thể hiện sự tôn trọng, cảm mến với những con người có ước mơ, có nghị lực. Giọng văn miêu tả độc đáo mà gần gũi đã làm nên cái chất của Thạch Lam, làm nên tên tuổi để đời của một thời kì văn học đỉnh cao của nước nhà.

Bài mẫu số 3

Thạch Lam là một trong những nhà văn có lối viết độc đáo nhất trong nền thơ ca Việt. Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện nhưng qua thế giới cảm xúc, tâm trạng của nhân vật, tác phẩm của ông vẫn toát lên cái tình, cái chất thơ tự nhiên mà tha thiết, xúc động. Qua những tác phẩm của mình ông bộc lộ nỗi thương cảm, xót xa với cuộc sống và những số kiếp con người nghèo khổ. "Hai đứa trẻ" là một trong những tác phẩm như thế! Bằng sự nhạy cảm của mình, Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh phố huyện trong "Hai đứa trẻ" – bức tranh với những kiếp người lam lũ, với những cuộc sống tối tăm, đơn điệu giữa cuộc đời.

"Hai đứa trẻ" kể về cuộc sống của hai chị em Liên trong một con phố huyện nghèo, với những kiếp người sống cơ cực trước Cách mạng Tháng Tám. Mà qua đó, Thạch Lam muốn bộc lộ sự trân trọng của ông trước những ước mong nhỏ nhoi của người lao động nghèo trong một phố huyện nhỏ nghèo nàn, trong một xã hội chật hẹp, tù túng.

Bức tranh phố huyện được dựng lên ngay từ đầu câu chuyện, bằng những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng không kém phần huyền ảo. Thạch Lam đã huy động hết cả thảy các giác quan: thị giác, thính giác và cảm xúc giác của mình để dựng lên khung cảnh một phố huyện điển hình của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc.

Bức tranh phố huyện bắt đầu bằng cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn thông qua lời kể và diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên, mà bắt đầu là hình ảnh và âm thanh của thiên nhiên và khu chợ tàn.

Bức tranh thiên nhiên chiều tàn được gợi lên bằng hình ảnh trời chiều: "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn". Một khung cảnh buổi chiều đẹp rực rỡ, đẹp lộng lẫy đến nao lòng, mang trong đó là linh hồn của quê hương xứ sở. Và trong khung cảnh ấy, không thể thiếu âm thanh của "tiếng trống thu không" vàng đều vào không gian đang dần đi vào tĩnh mịch lẫn trong đó là tiếng "ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào" và "tiếng muỗi vo ve", tất cả hòa vào nhau tạo nên một âm thanh quen thuộc, gợi lên vẻ đẹp yên ả của một buổi chiều quê hương "chiều êm như ru".

Bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ của của quê hương, vẫn giữ nguyên nét thơ mộng, mang đậm linh hồn xứ sở. Thế nhưng, từng lời, từng câu chữ trong khung cảnh ấy lại mang một sự tẻ nhạt tĩnh lặng, tàn tạ đến thê lương. Khung cảnh hoàng hôn đẹp như mơ ấy như phút rực sáng cuối cùng, lóe lên rồi chợt vụt tắt, buồn tới nao lòng người. Rồi những âm thanh quen thuộc như "tiếng trống thu không", "tiếng ếch nhái, tiếng muỗi" đều gợi lên sự đều đặn, trầm buồn, đơn điệu, nhạt nhẽo.

Tiếp theo khung cảnh thiên nhiên lúc trời chiều là hình ảnh của một khu chợ quê lúc đã tàn. Hình ảnh những phiên chợ quê luôn gợi cho người ta sự nhộn nhịp, tấp nập với không khí náo nức với vẻ đẹp của quê hương thế nhưng hình ảnh phiên chợ ở đây lại là một phiên chợ đã tàn khi mà "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất" và "trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía". Cái khung cảnh ấy đã gợi lên một phố huyện thê lương, tàn tạ trong mắt người đọc chúng ta. Và không chỉ vậy, nó còn gợi lên cả cuộc sống đói nghèo của một miền quê nữa. Khi mà hình ảnh chợ phiên quê có lẽ là hình ảnh náo động nhất của một vùng thì ở đây, nó lại gợi lên một sự tàn tạ, buồn bã tới não nề.

Nổi bật trong hình ảnh thiên nhiên nơi phố huyện là tâm trạng của Liên – một trong những cư dân của phố huyện nghèo này. Bao trùm lấy tâm trạng của chị là một nỗi buồn sâu thẳm từ trong tâm hồn nhạy cảm và trong sáng. Chị có một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương mình, chẳng vậy mà chị có thể ngửi được cái mùi quê hương, cái mùi đặc trưng nhất của mảnh đất phố huyện nghèo này "một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát quen thuộc quá, khiến cho chị em Liên tưởng lại mùi riêng của đất, của quê hương này". Cái tâm trạng của Liên cũng như cái hình ảnh của nơi phố huyện nghèo này, cứ trầm lặng mà buồn bã. Đó là cái buồn của một cô gái mới lớn, nhạy cảm với những xúc cảm xung quanh, mơ hồ, mong manh mà vô cùng thấm thía "cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị", "chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Nỗi buồn của Liên cũng chính là nỗi buồn của Thạch Lam trước xã hội đương thời, một xã hội mà thời gian dường như ngưng đọng lại thành khoảnh khắc, không biến chuyển, tàn tạ đến thê lương lòng người.

Bức tranh phố huyện ấy không chỉ hiện lên bằng khung cảnh hoàng hôn rực lửa nhưng buồn bã mà còn hiện lên ở những kiếp người nơi phố huyện – những kiếp đời tàn.

Bắt gặp đầu tiên là hình ảnh của những đứa trẻ hiện lên nơi phố huyện. Không phải hình ảnh những đứa trẻ vui đùa, tinh nghịch chạy nhảy trên thảm cỏ xanh công viên mà là hình ảnh "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven cái chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi" trên nền cái "chợ tàn" của phố huyện ấy. Cuộc sống quá lam lũ, nghèo đói đã đẩy những kiếp sống phải lụi tàn, những đứa trẻ phải sống trên những đống rác rưởi bị bỏ lại sau phiên chợ, phải gieo hi vọng "nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại" trên đống rác của phiên chợ tàn kia. Cuộc đời của chúng, tương lai của chúng thật tăm tối, thật bế tắc biết chừng nào. Và chính nhân vật Liên cũng cảm thấy động lòng thương cảm trước những số phận đó, vậy nhưng "chính chị cũng chẳng có gì để cho chúng". Liên thương cảm nhưng bất lực và đó cũng chính là cảm xúc mà Thạch Lam dành cho những người lao động nghèo.

Kế tiếp hình ảnh của những đứa trẻ là hình ảnh của mảnh đời chị Tí. Chị xuất hiện giữa không gian đang dần về tối của phố huyện với hình ảnh "đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc". Chị Tí cũng là một người lao động nghèo trong cái phố huyện tối tăm ấy. Hàng ngày, buổi ban ngày, "chị đi mò cua bắt tép", tới đêm lại mở hàng nước "từ chập tối cho đến đêm" chỉ để thêm vài đồng xu lẻ mà cũng "chả kiếm được bao nhiêu". Thân chị như là hình ảnh cái cò lặn lội bờ sông, tần tảo sớm hôm, một hình ảnh điển hình của người phụ nữ lao động:

"Lặn lội thân cò nơi quãng vắng"

Mà cái quán nước của chị cũng nhỏ nhoi, còm cõi như chính bản thân chị, bởi "tất cả cái cửa hàng của chị" là tất thảy những thứ chị có thể mang, đội, xách, vác. Cái quán ấy chỉ bán nước chè xanh, điếu thuốc nào cho "mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mất chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm". Khách hàng của chị cũng chỉ là những con người có cuộc sống như chị, kiếp sống như chị. Họ cũng chỉ cao hứng mới vào hàng của chị, vậy là biết cái quán của chị cũng không kiếm được bao nhiêu đồng lời. Bởi vậy, đáp lại tiếng hỏi thăm của Liên chỉ là một lời than thở: "Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì". Đó phải chăng chính là tiếng thở dài cho cuộc đời bế tắc của chị, tiếng thở dài ngao ngán vì cuộc sống quá đơn điệu, chỉ quẩn quanh, không có chút ánh sáng tương lai –một cuộc sống vô ý nghĩa.

Không chỉ số phận của chị Tí, của những người phu xe phu gạo mà chính cảnh đời của chị em An, Liên cũng là một kiếp sống tàn nơi phố huyện này. Chuỗi ngày sống tàn của gia đình Liên bắt đầu bằng sự kiện khi "thầy Liên mất việc", chính điều này đã đẩy gia đình vào bế tắc. Không còn đủ sức trụ lại nơi phố phường Hà Nội náo nhiệt, gia đình Liên chuyển về quê để tìm cách tháo gỡ cái bế tắc đang bủa vây. Về quê, mẹ Liên trở thành hàng xáo, còn chị em Liên được giao trông coi "một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm". Hàng tạp hóa bé xíu ấy chỉ có vài bao diêm, vài bánh xà phòng, chút rượu, … Mà khách mua cũng chỉ mưa "nửa bánh xà phòng". Chính cái gian hàng bé xíu ấy đã khắc thành ấn tượng trong mắt người đọc cái nghèo nơi phố huyện và cái bế tắc của gia đình Liên. Thế nhưng, có cố gắng bao nhiêu thì bế tắc vẫn hoàn bế tắc khi mà "ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì", cuộc sống chẳng có lấy một chút hi vọng. Cuộc sống của gia đình Liên, chị em Liên vẫn cứ quẩn quanh, đơn điệu như thế, vẫn là nhịp điệu "sáng dọn ra, tối dọn vào", "ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần". Tất cả những gì chị em Liên đang sống không phải là chút niềm vui của trẻ thơ mà là một cuộc sống ngột ngạt, tù túng, đến sự ngây thơ của con trẻ cũng chẳng còn.

Liên thương cảm, xót xa cho số phận chị Tí, cho cuộc sống nghèo đói, tăm tối của một người đồng cảnh ngộ. Thế nhưng, khi hình dung ra cuộc sống của gia đình mình, Liên cũng tự thấy xót xa cho chính bản thân mình, chị thương cảm cho sự bế tắc của gia đình, của cha, sự lam lũ của mẹ, xót xa trước sự tù túng của bản thân và đứa em trai khi phải trải qua những tháng ngày vô nghĩa của cuộc đời. Tâm trạng ấy của chị hiện lên qua từng câu chữ đầy thương cảm, ngậm ngùi của Thạch Lam.

Những kiếp sống tàn ấy không chỉ có vậy, nó còn được thể hiện điểm xuyết qua hình ảnh của bác Siêu, của bác xẩm, của cụ Thi điên nữa. Chỉ là thoáng qua thôi, những hình ảnh những kiếp người ấy cũng khiến cho chúng ta chẳng thể nào quên được.

Hình ảnh bác Siêu hiện lên với gánh phở rong trên vai, với đòn gánh kĩu kịt giữa đêm tối. Gánh phở của bác là "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền" mà ít người có thể mua được. Chính vì vậy, gánh phở của bác trong phố huyện này luôn ế khách. Ngày nào cũng là một điệp khúc đơn điệu, chiều tối nhóm lửa, tới đêm thì gánh vào làng. Cuộc sống của bác Siêu cũng đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại như cuộc đời của chị Tí, của chị em Liên vậy.

Thêm vào nữa là hình ảnh của gia đình bác xẩm mưu sinh trên manh chiếu, họ cũng lại là những kiếp người tàn nơi phố huyện này. Gia đình bác xẩm sống bằng nghề hát rong, tha phương cầu thực, chẳng có lấy một căn nhà trú nắng trú mưa, chỉ biết lấy tạm gầm cầu, vỉa hè làm nơi nghỉ chân. Tài sản của bác chỉ là manh chiếu rách, chiếc đàn bầu và chiếc thau sắt, đó là tất cả những gì mà gia đình bác có được. Thế nhưng, hình ảnh khắc sâu nhất vào trong lòng người đọc là hình ảnh "thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường". Đứa con – những thế hệ tương lai đang trườn bò khỏi manh chiếu, thế nhưng cũng chẳng thoát nổi cái kiếp nghèo, kiếp đời tăm tối đang bủa vây lấy gia đình nó.

Cuối cùng là hình ảnh của bà cụ Thi điên nghiện rượu. Cụ chính là biểu tượng cho một kiếp người tàn khi đến gần cuối cuộc đời, vẫn thê lương, tàn tạ như thế. Khép lại bức tranh con người nơi phố huyện là hình ảnh bà cụ Thi điên "đi lần vào trong bóng tối" với "tiếng cười khanh khách". Đó là tiếng cười rùng rợn cho một kiếp người tàn, một cuộc đời tàn nơi phố huyện nghèo này.

Toàn bộ bức tranh phố huyện đều hiện lên qua đôi mắt Liên, từ khung cảnh chiều tàn thê lương đến những kiếp đời tàn tạ, tăm tối cùng cảnh ngộ. Đó là những cuộc đời buồn với những bi kịch về vật chất, đói nghèo và cả những bi kịch về tinh thần của những con người cả đời quẩn quanh với cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, ngột ngạt, tù túng, vô ý nghĩa. Cuộc đời của họ tăm tối tới mức chẳng hề có le lói một chút ánh sáng nào của tương lai. Bức tranh ấy được nhìn qua cái nhìn của Liên – một cô gái mới lớn, với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, trong sáng, lại đồng cảnh ngộ với những con người kia. Ẩn sau Liên là tâm hồn của một nhà văn tiểu tư sản đang dùng tình thương, sự chiêm nghiệm của mình hòa cùng với những tâm hồn người lao động kia để mà cùng thương cảm, cùng xót xa cho số phận của họ.

Thạch Lam viết về người lao động nghèo, nhưng ông không đi sâu vào những đói nghèo của họ mà xoáy sâu vào trong bi kịch tinh thần của những con người đang sống kiếp đời mòn mỏi, vô ý nghĩa. Hiểu được những bi kịch tinh thần đầy đau khổ ấy, phải chăng Thạch Lam đã thức tỉnh được ý thức cá nhân, ý thức được quyền sống của con người, vậy nên ông mới thương cảm tới xót xa cho những mảnh đời vô ý nghĩa đó? Và có lẽ chính nhờ điều này đã làm nên chiều sâu trong ý nghĩa nhân đạo cho tác phẩm mà Thạch Lam muốn gửi gắm.

Bức tranh phố huyện nghèo khép lại bằng không gian đêm tối khi bóng tối bao trùm. Đó là "một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát", "vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lần trong vết sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây". Buổi đêm đó đẹp rực rỡ, lộng lẫy biết chừng nào! Trên trời với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, đẹp tươi tới vậy thì dưới mặt đất thì bị bao phủ bởi bóng tối "tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn". Bóng tối đặc quánh, chiếm lĩnh cái phố huyện nhỏ. Đây phải chăng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho xã hội dưới thời thực dân Pháp – một xã hội tăm tối, không có chút ánh sáng nào lọt qua, tù túng, ngột ngạt, đói nghèo.

Sống giữa cái xã hội ấy là những con người như những hạt sáng, đốm sáng, khe sáng, le lói, nhỏ nhoi, leo lét, chập chờn. Nhân vật Liên hay chính Thạch Lam đang buồn man mác trước cái cuộc sống tối tăm ấy, chẳng có chút ánh sáng vào tương lai. Bầu trời có lấp lánh hàng ngàn ngôi sao đẹp đẽ, nhưng với Liên, đó chỉ là "vũ trụ thăm thẳm, bao la", "đầy bí ẩn", cũng như những niềm vui xưa kia chẳng thể nào thành hiện thực được nữa. Vậy nên, Liên "cúi nhìn về mặt đất", "về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí". Bởi quầng sáng ấy mới gần gũi với Liên, bởi nó cũng như cuộc sống vô nghĩa, nhạt nhòa của chính cô vậy.

Bức tranh nơi phố huyện khi ngày tàn mà Thạch Lam dựng lên như một hình ảnh thu nhỏ của toàn cảnh xã hội Việt Nam những ngày Pháp thuộc. Đó là một xã hội tù túng, ngột ngạt, tăm tối tới cùng cực, nơi mà cái đói nghèo cứ bám riết lấy những kiếp người tàn tạ, thê lương.

Nghệ thuật mà Thạch Lam sử dụng là những chất liệu hiện thực được chính ông trải nghiệm. Xen lẫn trong hiện thực là cảm hứng lãng mạn cho mỗi khung cảnh thiên nhiên, cho mỗi hình tượng nhân vật để làm nên ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Bức tranh phố huyện nghèo được miêu tả theo sự vận động của thời gian từ lúc chiều tàn tới khi đêm khuya và theo từng bước diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên. Qua những rung động mơ hồ, tinh tế, mỏng manh của một tâm hồn mới lớn, nhạy cảm, Thạch Lam đã dựng lại một bức tranh quê hương với tất cả vẻ đẹp của quê hương xứ sở đồng thời gửi gắm vào trong đó tình yêu quê hương, đất nước, gửi vào những kiếp người tàn tạ nơi phố huyện nỗi xót xa, thương cảm sâu sắc. Và sâu kín là là ý thức phê phán xã hội thực dân của một tiểu tư sản, đã không đảm bảo được cuộc sống, quyền sống của con người.

Bài mẫu số 4

Thạch Lam một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn. Các tác phẩm của ông thiên về những cảm xúc trong trẻo, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu lắng. Đằng sau những trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những truyện nổi bật nhất của ông. Nắm bắt khoảnh khắc ngày tàn, Thạch Lam đã vẽ nên cuộc sống đầy ảm đạm mà cũng ngập tràn mơ ước của con người nơi đây.

Thạch Lam lựa chọn thời điểm hoàng hôn, khi mọi vật bắt đầu chuẩn bị đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm ông không chỉ nắm bắt cái thần thái của cuộc sống con người mà đó còn là bức tranh thiên nhiên. Qua hai bức tranh đó thể hiện những quan điểm, cảm xúc của tác giả trước hiện thực cuộc sống.

Bức tranh thiên nhiên mơ mộng mà đượm buồn, âm thanh còn vương lại chỉ là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, xa xa là tiếng ếch nhái kêu ran theo tiếng gió đưa vào. Âm thanh tưởng là náo động, rộn rã mà hóa ra lại da diết, khắc khoải, ảm đạm. Có lẽ không gian phải vắng lặng, tĩnh mịch lắm mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng âm thanh ngoài kia đến vậy. Lúc này, mặt trời cũng dần dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi: “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, gam màu sáng, màu nóng nhưng tất cả đều gợi lên sự lụi tàn. Những dãy tre làng trước mặt đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời khiến cho sự ảm đạo bao trùm lên cảnh vật khi bóng tối dần bủa vây xung quanh. Với nhịp điệu chậm, những câu văn giàu tính nhạc tựa như một câu thơ đã vẽ nên khung cảnh yên bình, êm dịu của bức tranh thiên nhiên. Bức tranh hoàng hôn đẹp, mơ mộng, yên ả nhưng đậm nỗi u buồn, ảm đạm.

Bên cạnh bức tranh thiên nhiên, Thạch Lam còn đưa những nét vẽ của mình hướng đến bức tranh sinh hoạt của con người. Ông nắm lấy khung cảnh của một buổi chợ đã tàn. Người ta thường nói rằng, muốn biết cuộc sống nơi đó ra sao, chỉ cần đến chợ là sẽ biết. Và Thạch Lam cũng làm như vậy. Khung cảnh khu chợ sau buổi họp hiện lên tiêu điều, xơ xác. Âm thanh náo nhiệt, ồn ã đã biến mất, giờ chỉ còn lại cái tĩnh lặng bao trùm. Chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu. Trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,… Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ những gì còn sót lại… cảnh tình của chúng thật đáng thương, tội nghiệp. Mẹ con chị Tí ngày mò cua, bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù đã chăm chỉ làm lụng nhưng vẫn không đủ sống. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, lúc nào cũng chìm trong hơi men, xuất hiện cùng tiếng cười khanh khách,… Còn chị em Liên cũng coi giữ một cửa hàng tạp hóa nhỏ, bán những vật dụng đơn giản cho những khách hàng quen thuộc. Liên, An mới chỉ là những đứa trẻ nhưng chúng đã tham gia vào công cuộc mưu sinh. Cuộc sống của những người dân nơi đây quẩn quanh, nhàm chán, họ đại diện cho những kiếp sống mòn, sống mỏi. Trong sâu thẳm họ vẫn luôn khao khát, đợi chờ một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống, nhưng còn mơ hồ, không rõ ràng.

Nổi bật nhất trong bức tranh đó chính là tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của nhân vật Liên. Cô tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc ngày tàn, cảm nhận từng chi tiết bé nhỏ mà quen thuộc với cuộc sống nơi đây: “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…”, mùi hương thân quen, đã gắn bó với cuộc sống của cô nhiều nằm. “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen…” ngắm nhìn khung cảnh, dường như cái trầm buồn, yên tĩnh của thiên nhiên thấm sâu vào tâm hồn non nơi, đầy nhạy cảm của cô. Liên còn là một cô bé có tấm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Đó là sự quan tâm với mẹ con chị Tí, những câu hỏi han ân cần, chứa đựng tình yêu thương, xót xa và ái ngại cho hoàn cảnh gia đình chị. Nghe tiếng cười biết đó là cụ Thi đi, Liên “lẳng lặng rót đầy một cút rượu ty đưa cho cụ” và “đứng sững nhìn theo”¬. Trước hình ảnh những đứa trẻ con nghèo nhặt rác chị động lòng thương nhưng bản thân lại không có tiền cho chúng.

Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn là đoạn văn giàu chất trữ tình. Chất thơ ấy tỏa ra từ thiên nhiên, từ cảnh vật quê hương bình dị, rất đỗi thân thuộc là tiếng trống thu không, là tiếng ếch kêu ran ngoài đồng,… Chất thơ còn thể hiện trong tâm hồn đầy nhạy cảm, tinh tế của Liên khi cảm nhận về cuộc sống xung quanh. Không chỉ vậy chất thơ còn thấm đượm trong từ câu chữ, những câu văn nhịp nhàng, có tiết tấu, giàu chất nhạc: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” đã tăng thêm chất trữ tình cho tác phẩm.

Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn vừa khắc họa được bức tranh thiên nhiên đẹp mà đượm buồn, vừa cho thấy cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, nghèo nàn của những con người nơi đây. Đằng sau bức tranh phố huyện ta còn thấy được tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả: trân trọng nâng niu những số phận và ước mơ đổi đời của họ. Nghệ thuật miêu tả đặc sắc, chất trữ tình thấm đượm cũng là những yếu tố tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Xem thêm những bài văn mẫu 11 hay khác:

TOP 40 Mở bài Hai đứa trẻ (2024) SIÊU HAY

TOP 20 Kết bài Hai đứa trẻ (2024) SIÊU HAY

TOP 20 Mẫu tóm tắt Hai đứa trẻ (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Bài nghị luận về bài Hai đứa trẻ (2024) SIÊU HAY

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!