TOP 10 Bài giải nghĩa nhan đề tác phẩm Vợ nhặt (2024) SIÊU HAY

Dưới đây là TOP 10 Bài văn giải nghĩa nhan đề tác phẩm Vợ nhặt hay nhất sẽ giúp các em học sinh ôn tập và học tốt môn Ngữ Văn hơn. Mời bạn đọc tham khảo:

Khái quát ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là cụm từ được ghép bởi danh từ “vợ” và động từ “nhặt”. Nhưng khi ghép thành một từ thì động từ “nhặt” trở thành tính từ, “vợ nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ.

- “Nhặt” mang tính chất vô tình ngẫu nhiên, thông thường người ta chỉ nhặt những đồ vật, vật dụng nhỏ bé như nhặt cọng rơm ngọn cỏ…

=> Trong thực tế hai từ này không bao giờ đi liền với nhau và ở trong thế tương lập đối phản. Lấy vợ cưới chồng là một chuyện hệ trọng của cả đời người. Theo quan niệm và phong tục truyền thống của dân tộc ta, việc cưới xin phải được tiến hành với những nghi lễ trang trọng và thiêng liêng. Người ta thường đi hỏi cưới vợ chứ chả ai lại đi “nhặt” vợ bao giờ. Vậy mà đặt trong truyện ngắn của Kim Lân, nhân vật anh cu Tràng lại đi “nhặt” vợ, đưa một người phụ nữ xa lạ về làm vợ mà không cưới hỏi gì giữa lúc cái đói cái chết đang rình rập đe dọa tính mạng. Điều này khiến cho sự nghiêm túc thiêng liêng lại trở thành trò đùa.

- Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, phản ánh một tình cảnh đầy bi hài, khốn khổ đó là số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch. Đồng thời vừa bộ lộ sự cưu mang đùm bọc và thể hiện khát vọng niềm tin mãnh liệt hướng tới tương lai, vừa lên án tố cáo xã hội xã hội phong kiến và bọn thực dân đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng.

- Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.

Một số bài mẫu hay giải thích ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt

Bài mẫu số 1

Hai chữ “vợ nhặt” đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Đây không phải là cảnh lấy vợ đàng hoàng mà là một hạnh phúc do vô tình mà có, do nhặt nhạnh mà thành.

Chỉ qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, tác giả đã làm nổi bật tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Phơi bày tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, khi mà vấn đề cái đói, miếng ăn trở thành vấn đề sinh tử.

Qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng, chúng ta thấy rằng thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Nhan đề vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng hướng tới cuộc sống tốt hơn và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Bài mẫu số 2

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân và của nền văn học hiện thực phê phán thế kỉ XX. Tiền thân của Vợ nhặt là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn Vợ nhặt. Thân bài: Nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vợ nhặt hiểu theo nghĩa đen là nhặt được vợ. Nhan đề ấy tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc vì cái giá của con người quá rẻ rúng. Qua nhan đề Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh được tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong một nạn đói khủng khiếp; sự đen tối bế tắc của xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. Nhan đề hiện được giá trị hiện thực (Tố cáo tội ác của thực dân, phát xít) và giá trị nhân đạo (Ca ngợi phẩm chất của người lao động). Đồng thời nhan đề cũng góp phần thể hiện tình huống truyện vừa éo le vừa bất ngờ.

Bài mẫu số 3

Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. "Nhặt" đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kỳ lúc nào. Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Bài mẫu số 4

Nhan đề vừa có tính hài hước, bông đùa, lại vừa có tính chua chát. Vì người ta thường nói “ nhặt” được đồ vật nào đó, chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Chuyện mới nghe cứ như đùa, nhưng kỳ thực lại là một cảnh ngộ đau xót rất thực của những con người dưới gầm trời này.

Nhan đề này đã thể hiện giá trị hiện thực của thiên truyện, là lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ Thực dân Pháp và tay sai. Chúng đã đẩy người nông dân vào tình cảnh ngặt nghèo đói ăn “chết như ngả rạ”, thân phận họ thật rẻ rúng trong tình cảnh ấy nên mới có chuyện nhặt được vợ của anh Tràng.

Nhan đề “ Vợ Nhặt” đồng thời cũng thể hiện lòng nhân đạo của tác giả, khi ông đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Kim Lân cũng trân trong khao khát về mái ấm hạnh phúc gia đình của người nông dân ngay trong thời buổi đói kém chạy ăn từng bữa đó.

Bài mẫu số 5

Tựa đề Vợ nhặt có rất nhiều ý nghĩa. Đó là một tựa đề độc đáo, gây sự chú ý, tò mò và lôi cuốn người đọc, góp phần mang lại ý nghĩa sâu xa cho chủ đề chuyện. ''Nhặt '', vâng người ta chỉ nhặt đồ vật, hàng hóa chứ không ai nhặt vợ. Thế mà Tràng lại nhặt được vợ. Điều đặc biệt ở đây là vì một người như Tràng mà cũng lấy được vợ: nghèo (lấy vợ phải có tiền cheo cưới), là dân ngụ cư, xấu trai… Là vì quá dễ dàng đúng là “nhặt” được về. Một người như Tràng mà lấy được vợ, mới đầu không ai tin. Cả xóm Ngụ Cư đều ngạc nhiên, coi như một điều vô lý. Đến bà cụ Tứ là mẹ Tràng cũng không tin… Ngay đến bản thân Tràng cũng không tin(nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ, như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?.

Bài mẫu số 6

Qua câu chuyện ta hiểu rõ hơn về nhan đề vợ nhặt. Thông thường lấy vợ là chuyện quan trọng của cả một đời người, đời người đàn ông có ba việc lớn cần làm đó là lấy vợ, tậu trâu và làm nhà. Lấy vợ là việc có ý nghĩa quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn. Vì thế sẽ phải được tổ chức long trọng có sự chứng kiến của bà con hai bên họ hàng đến chúc mừng. Nhưng ở đây, chỉ với vài câu bông đùa mà Tràng đã có vợ.Còn chị vợ không cần phải cưới hỏi hay của hồi môn mà chỉ vài bát bánh đúc đã theo không Tràng về nhà. Trong cuộc hôn nhân này hoàn toàn không có ăn hỏi, sính lễ, sự chủ động của hai người cô dâu và chú rể, không có của hồi môn, cỗ cưới cũng như sự chúc mừng của hai bên họ hàng. Tất cả diễn ra rất ngẫu nhiên thậm chí rất tình cờ và bất ngờ. Nó khiến ai cũng ngạc nhiên đến ngay cả Tràng - người trong cuộc cũng thấy ngỡ ngàng và không tin đây là sự thật. Lấy vợ là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng nhưng trong cái đói cái khổ, niềm hạnh phúc đó thực sự là quá nhỏ so với nỗi lo về miếng ăn, thêm một miệng ăn là thêm nỗi lo lắng. Như vậy, qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng ta thấy rõ hơn tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái đói, cái rét làm mất đi nhu cầu hạnh phúc của con người, họ phải làm mọi cách để bám víu cuộc sống, để có cái ăn, cái mặc.

Bài mẫu số 7

Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. “Nhặt” đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

Nhưng “vợ” lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Trong tác phẩm, gia đình Tràng từ khi có người vợ nhặt, mọi người trở nên gắn bó, quây quần, chăm lo, thu vén cho tổ ấm của mình.

Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Bài mẫu số 8

Nhan đề truyện Vợ Nhặt là một nhan đề đặc sắc và hấp dẫn, có sự lôi cuốn và đồng thời kích thích sự chú ý và tò mò của người đọc.

Việc lấy vợ là một việc trọng đại của người đàn ông, được thực hiện theo các nghi lễ và phong tục truyền thống như thưa chuyện, dạm hỏi, cưới xin… Nhưng nhà văn Kim Lân lại sử dụng từ “nhặt” để tạo nên nhan đề của tác phẩm

"Nhặt" đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào . Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng. Đây cũng là một nét độc đáo trong nghệ thuật của tác phẩm giúp thể hiện giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Bài mẫu số 9

Kim Lân vốn nổi lên là một trong ba nhà văn có cách viết độc đáo và dễ dàng đi sâu phản ánh rõ nét bản chất bên trong của tác phẩm. Đó không chỉ là hình ảnh của một ngòi bút nhân đạo mà còn một tấm lòng người nghệ sĩ luôn gắn bó gắn kết với cuộc sống người nông dân. Kim Lân đã viết lên một “vợ nhặt” và qua đó đã kể cho ta nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nhan đề đã thâu tóm được giá trị cốt lõi và nội dung tư tưởng của toàn bộ tác phẩm.

Ta luôn biết rằng, trong cuộc sống của ta từ trước hay từ thời đại hiện nay. Vợ – vốn được xem là một người vô cùng cao quý và thiêng liêng. Chính họ là người luôn được xem trọng và được coi như một trong những điều quan trọng của bất kì ai khi lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng. Và một người, muốn lấy được vợ thì hẳn cuộc sống phải có đầy đủ điều kiện, có hoàn cảnh tương đối tốt mới có đủ điều kiện để lấy vợ – gả chồng.

Nhưng đây lại khác. Ta ngạc nhiên khi từ “vợ” trang trọng cao quý ấy lại đi đôi với với từ “nhặt”. Từ nhặt đã làm từ vợ trở thành một danh từ chung, chỉ sự nhỏ bé và xem như một sự rẻ rúng, coi như rơm như rác có thể ‘nhặt” được ở bất kì đâu. ĐƯợc xem như một vật vô giá trị, không ra gì,. Người vợ gần như bị coi như không được xem trọng, người vợ không còn ở vị trí trung tâm của việc xây dựng tổ ấm. Người ta thường hay nói tới việc “cưới vợ” chứ ai có nói đến việc “nhặt vợ” vậy mà Tràng lại Nhặt vợ. Đó thật sự thâu tóm một giá trị hiện thực, sự khốn cùng của hoàn cảnh, của nạn đói lúc bấy giờ ở nước ta.

Hơn nữa, nhan đề còn thể hiện tình cảnh thê lương, thảm cảnh của người dân 1945 bộc lộ một sự cưu mang, đùm bọc. Một thái độ cao đẹp của con người khi biết chia sẻ, bao bọc thể hiện ngòi bút nhân đạo thái độ nhà văn luôn để họ vươn lên khát vọng hướng tới tổ ấm hạnh phúc và niềm tin của con người trong bất kì hoàn cảnh nào.

Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh và một thái độ vô cùng ấn tượng và đẹp đẽ. Nó không chỉ khiến ta có ấn tượng với câu chuyện, mà còn là một trong những nhan đề hay, xuất sắc, độc đáo, thâu tóm được giá trị nội dung hấp dẫn và tài năng của nhà văn.

Bài mẫu số 10

Trong quá trình sáng tác của mình, việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là một trong những khâu vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nhan đề không đơn thuần chỉ là một cái tên để mở đầu mà đó là nơi bao chứa hình tượng, nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thêm vào đó, nó cũng sẽ gợi ra sự thú vị đối với độc giả, họ sẽ chọn nó để đọc tiếp, hoặc không. Nó được ví giống như chiếc chìa khóa gợi mở cho người đọc tiếp cận những tầng lớp ý nghĩa khác nhau của tác phẩm. Nhan đề truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một ví dụ điển hình.

Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã nên duyên vợ chồng. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch.

Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” đi với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp,…” nhưng ở đây lại lại “vợ nhặt” chưa bao giờ giá trị của con lại rẻ rung đến như thế. Bởi việc dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

Nhan đề “Vợ nhặt” gợi lại thực nạn đói khủng khiếp năm 1945. Từ đó, thấy được sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít, thấy giá trị con người rẻ rúng – người ta có thể nhặt được như cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ đẹp của nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy vọng về cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.

“Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Bài mẫu số 11

Con đường nghệ thuật của Kim Lân là chuỗi ngày đi tìm về và thấu hiểu, đồng cảm với những gì thuộc về nông thôn. Dù sáng tác không nhiều nhưng ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị, một trong đó là Vợ nhặt, tác phẩm xây dựng trên bối cảnh nạn đói mùa xuân năm 1945. Sự tàn khốc, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần không có gì diễn tả được, nó hằn lại một vết thương sâu khi nhắc về nạn đói năm ấy, hơn hai triệu đồng bào chết la liệt, họ vất vưởng bờ bụi sống qua ngày, chưa bao giờ ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh, thoi thóp như thế. Trong cảnh tối sầm của nạn đói, tình cảnh bi thảm của con người nhưng đồng bào Việt Nam vẫn không bỏ mặc nhau, bao bọc, cưu mang nhau cùng hy vọng, hướng về ánh sáng. Kim Lân, một nhà văn hướng về nhân đạo, về tình người đã đồng cảm, đứng trên cái khổ mà thương xót cho con người nên tác phẩm vợ nhặt là sự kết tinh những điều đó. Kim Lân lựa chọn một đề tài không quá mới mẻ nhưng cách khai thác, hướng đi, lựa chọn nhân vật lại rất đặc biệt của riêng ông. Ấn tượng đầu tiên chính là cái nhan đề “Vợ Nhặt”, ngắn gọn, dễ hiểu nhưng lại hàm chứa bao điều sâu xa, toát lên tư tưởng, nội dung của tác phẩm, tác giả trăn trở, suy ngẫm, xót xa trước cái xã hội khi ấy, giá trị của con người bị hạ thấp trong bi kịch của cuộc sống.

Nhan đề của tác phẩm gói gọn trong hai chữ “vợ nhặt”. Ấy là việc Tràng – một anh thanh niên bình thường, nghèo khó, xấu xí, ế vợ bỗng nhiên lại nhặt được vợ ngay giữa nạn đói, cái thời điểm sự sống thoi thóp đến miếng ăn cho bản thân còn không đủ mà nghĩ gì đến chuyện sẽ cưới vợ, cưu mang thêm một người. Hơn nữa, Tràng không mảy may điều gì, chấp nhận đưa cô gái đó về nhà, hạnh phúc lo xây đắp tổ ấm chuyện lạ xưa nay mới thấy. Chính cái éo le, cái lạ mới tạo thành truyện.

“Nhặt” là đi lượm, lấy về những thứ có thể là không cần thiết, tiện tay thì lấy, có thể có hoặc không đều không quan trọng. “Vợ” là một danh xưng thường dùng để gọi âu yếm, trìu mến của người chồng gọi người phụ nữ của mình trong gia đình, từ ngữ này luôn được kết hợp với những từ có nghĩa đẹp đẽ, có thể là “vợ yêu”, “vợ của tôi”, “vợ xinh”, cách nói cũng đầy sự yêu thương, tự hào, hãnh diện. Nhưng ở đây Kim Lân lại đặt hai từ vốn không được nói, lạ lẫm này lại thành một nhan đề cho tác phẩm. Bởi chính nội dung câu chuyện là người đàn bà kia và Tràng họ chỉ mới gặp gỡ nhau vỏn vẹn hai lần, bộ dạng của cô ta thì ngày càng tệ hơn, cách ăn nói, cử chỉ thô lỗ, thiếu lịch sự nhưng chỉ với 4 bát bánh đúc nhỏ nhoi cũng đủ khiến cô chấp nhận về nhà cùng một người đàn ông để xây dựng gia đình. Hôn nhân vốn là chuyện thiêng liêng, đời người chỉ trải qua một lần nhưng cô gái này chấp nhận đến với một người mà không có giấy chứng nhận kết hôn, không có ăn hỏi, cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt Nam.

Chính vì thế mới nhận thấy nhan đề của tác phẩm song hành, phù hợp, truyền đạt đủ đầy nội dung, chủ đề của tác phẩm. Nhan đề mang sức mạnh tố cáo, lên án cái xã hội phong kiến và bọn thực dân cay nghiệp, tàn ác đã đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng, lay lắt, vật vưỡng. Tuy nhiên nhà văn tìm thấy lấp trong cái tối đen của xã hội bấy giờ là những tâm hồn đẹp, vươn lên giữa khó khăn tìm đến phía ánh sáng tương lai, dù mai thế nào thì họ vẫn tận tâm lao động, vui vẻ sống trọn hôm nay. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo, là sợi chỉ đỏ theo suốt tác phẩm mà nhà văn muốn gửi gắm đến độc giả. Hơn nữa cách đặt nhan đề này khá là thú vị, mới lạ, kích thích trí tò mò để tìm hiểu câu truyện cốt lõi đằng sau đó.

“Vợ nhặt” vốn lạ mà quen, vô lí mà lại có lý, Kim Lân đã thật tinh tế từ cách chọn chủ đề, xây dựng nhân vật cho đến cách đặt nhan đề, hình thành nội dung, nghệ thuật cho tác phẩm. Nhan đề là sự kết tinh những phản ánh của nhà văn về xã hội của nạn đói năm 1945, lóe lên trong bóng tối đó là niềm tin vào Đảng, vào Cách mạng của con người, tận cùng của sự sống là niềm tin ở tương lai.

Bài mẫu số 12

Kim Lân đã chọn cho đứa con tinh thần của mình là từ “ Vợ nhặt”, đây là một từ ghép phân nghĩa được ghép bởi danh từ “vợ” và động từ “nhặt”. Khi 2 từ đơn này được kết hợp với nhau, động từ nhặt lại ngay lập tức chuyển đổi từ động từ sang tính từ. “Vợ nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ, đó là vợ theo không, người vợ không mai mối, không lễ nghĩa cưới xin. Bởi chỉ cần nhắc tới từ “nhặt” thôi chúng ta đã có rất nhiều những liên tưởng khác nhau. Bởi lẽ, chúng ta chỉ thường biết tới việc nhặt nhạnh bông hoa, nhặt cái cây, nhặt cọng rơm ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi hài đó là nhặt được vợ.

Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã nên duyên vợ chồng. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch.

Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” đi với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp,…” nhưng ở đây lại lại “vợ nhặt” chưa bao giờ giá trị của con lại rẻ rung đến như thế. Nhan đề của tác phẩm mang sức mạnh tố cáo xã hội phong kiến và bọn thực dân đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ đẹp của nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy vọng về cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.

Bài mẫu số 13

Nhan đề “Vợ nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Chữ "nhặt" trong “Vợ nhặt” không phải là danh từ như chúng ta có thể lầm tưởng nếu chỉ đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết hợp từ rất đặc biệt.

Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống mọi xóm làng.

Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”.

Như vậy, "nhặt" trong "Vợ nhặt "là động từ. Một kết hợp từ đặc biệt chỉ có trong bối cảnh năm 1945 kinh hoàng ấy. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng có thể “nhặt” được như người ta nhặt cái rơm, cái rác ngoài đường, ngoài chợ.

Phải đặt vào truyền thống của dân tộc coi “người ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn - Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”, mới thấy hết chuyện vợ nhặt theo không như thế này mới thật éo le! Hoàn cảnh đói khát cần duy trì sự sống làm cho người ta quên đi lễ nghĩa đã đành, còn phải bước qua thể diện để theo không về làm vợ người.

Mới hiểu vì sao chị vợ nhặt tủi hổ như thế trước những ánh mắt nhìn ngó, soi xét trên đường theo Tràng về nhà. Nhan đề đã gói trọn tình huống truyện. Đặt trong hoàn cảnh gia đình anh cu Tràng, nhan đề “Vợ nhặt” còn cho chúng ta thấy vẻ đẹp của tình người.

Người ta nhặt nhau về và về với nhau không phải chỉ vì muốn có miếng ăn, có một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người dân lao động.

Đằng sau nhan đề ấy, Kim Lân muốn gửi gắm một thông điệp khác: “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.

Xem thêm những bài văn mẫu 12 hay khác:

TOP 10 Đoạn văn phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt (2024) SIÊU HAY

TOP 40 Mở bài Vợ nhặt (2024) SIÊU HAY

TOP 30 Kết bài Vợ nhặt (2024) SIÊU HAY

TOP 30 Tóm tắt Vợ nhặt (Kim Lân) - Ngữ văn 12

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!