Suy giãn tĩnh mạch chân là gì ?
Khi các tĩnh mạch gặp khó khăn trong việc đưa máu từ các chi trở về tim, đó được gọi là suy tĩnh mạch. Trong bệnh cảnh suy tĩnh mạch, máu không lưu thông đúng cách về tim, đọng lại trong các tĩnh mạch ở chân.
Một số nguyên nhân có thể gây ra suy tĩnh mạch, phổ biến nhất là do cục máu đông (huyết khối tĩnh mạch sâu) và giãn tĩnh mạch.
Ngay cả khi bạn có tiền sử gia đình bị suy tĩnh mạch, vẫn có những bước đơn giản có thể thực hiện để giảm nguy cơ mắc tình trạng này.
Nguyên nhân của suy tĩnh mạch
Suy tĩnh mạch thường do cục máu đông hoặc giãn tĩnh mạch gây ra.
Trong các tĩnh mạch khỏe mạnh, có một dòng máu liên tục từ các chi trở về tim. Các van trong tĩnh mạch của chân giúp ngăn chặn dòng chảy ngược của máu.
Các nguyên nhân phổ biến nhất của suy tĩnh mạch là các trường hợp trước đó có cục máu đông và giãn tĩnh mạch.
Khi dòng chảy xuôi qua các tĩnh mạch bị cản trở - chẳng hạn như trong trường hợp cục máu đông - máu sẽ tích tụ bên dưới khu vực đó, có thể dẫn đến suy tĩnh mạch.
Trong bệnh suy giãn tĩnh mạch, các van thường bị thiếu hoặc bị suy và máu bị rò rỉ trở lại qua các van hư hỏng.
Trong một số trường hợp, yếu cơ chân dẫn đến giảm lực ép máu về phía trước cũng có thể góp phần gây ra suy tĩnh mạch.
Suy tĩnh mạch thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Nó cũng xảy ra với tỉ lệ cao hơn ở người lớn trên 50 tuổi.
Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm:
- Các cục máu đông
- Giãn tĩnh mạch
- Béo phì
- Thai kỳ
- Hút thuốc
- Ung thư
- Yếu cơ, chấn thương chân
- Viêm tĩnh mạch
- Tiền sử gia đình bị suy tĩnh mạch
- Ngồi hoặc đứng trong thời gian dài mà không di chuyển
Các triệu chứng của suy tĩnh mạch
Các triệu chứng của suy tĩnh mạch bao gồm:
- Sưng cẳng chân hoặc mắt cá chân (phù nề)
- Cơn đau trở nên tồi tệ hơn khi đứng và đỡ hơn khi nâng cao chân
- Chuột rút chân
- Đau, nhói hoặc cảm giác tức nặng vùng cẳng chân
- Ngứa chân
- Chân yếu
- Dày da ở cẳng chân hoặc mắt cá. Thay đổi màu sắc da, đặc biệt là xung quanh mắt cá chân
- Loét chân
- Tĩnh mạch giãn
- Cảm giác căng tức vùng bắp chân
Chẩn đoán suy tĩnh mạch
Để chẩn đoán suy tĩnh mạch, các bác sĩ sẽ tiến hành khai thác tiền sử cũng như thăm khám lâm sàng đầy đủ.
Họ cũng có thể yêu cầu một số xét nghiệm hình ảnh để xác định nguồn gốc của vấn đề. Các xét nghiệm này có thể bao gồm chụp mạch hoặc siêu âm dopler.
Chụp mạch
Trong khi chụp ảnh tĩnh mạch, bác sĩ sẽ đưa thuốc cản quang vào tĩnh mạch của người bệnh.
Thuốc cản quang làm cho các mạch máu hiện lên trên hình ảnh X-quang, giúp bác sĩ nhìn thấy chúng. Chụp mạch cản quang cung cấp cho bác sĩ hình ảnh X-quang rõ ràng hơn về các mạch máu.
Siêu âm Dopler
Một loại xét nghiệm được gọi là siêu âm Dopler có thể được sử dụng để kiểm tra tốc độ và hướng của dòng máu trong tĩnh mạch.
Kỹ thuật viên sẽ chấm một ít gel lên da và sau đó ấn một thiết bị cầm tay nhỏ (đầu dò) lên vùng da này. Đầu dò sử dụng sóng âm thanh dội lại máy tính và tạo ra hình ảnh của dòng máu.
Điều trị suy tĩnh mạch
Điều trị sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nguyên nhân gây bệnh và tình trạng sức khỏe và tiền sử của bệnh nhân. Các yếu tố khác mà bác sĩ sẽ xem xét là:
- Các triệu chứng cụ thể của bệnh nhân
- Tuổi
- Mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh
- Mức độ đáp ứng với thuốc hoặc can thiệp
Phương pháp điều trị suy tĩnh mạch phổ biến nhất là đeo tất ép. Loại tất đàn hồi đặc biệt này tạo áp lực ở mắt cá chân và cẳng chân. Chúng giúp cải thiện lưu lượng máu và có thể giảm phù chân.
Tất đeo ép có nhiều loại cường độ và độ dài khác nhau. Bác sĩ sẽ quyết định loại tất ép nào tốt nhất cho việc điều trị của từng bệnh nhân.
Điều trị suy tĩnh mạch bao gồm một số chiến lược khác nhau:
Cải thiện lưu lượng máu
Dưới đây là một số mẹo để cải thiện lưu lượng máu về tim:
- Nâng cao chân bất cứ khi nào có thể.
- Đeo tất ép để tạo áp lực cho cẳng chân.
- Giữ chân không bắt chéo khi ngồi.
- Luyện tập thể dục đều đặn.
Thuốc điều trị
Ngoài ra còn có một số loại thuốc có thể giúp cải thiện tình trạng này. Bao gồm các:
- Thuốc lợi tiểu: tăng lượng nước tiểu bài tiết qua thận
- Thuốc chống đông máu: hạn chế tình trạng tắc mạch
- Pentoxifylline (Trental): một loại thuốc giúp cải thiện lưu lượng máu
Phẫu thuật
Một số trường hợp suy tĩnh mạch nghiêm trọng hơn cần phải được phẫu thuật. Bác sĩ có thể đề xuất một trong các loại phẫu thuật sau:
- Phẫu thuật sửa chữa các tĩnh mạch hoặc van
- Loại bỏ tĩnh mạch bị tổn thương
- Phẫu thuật nôi soi xâm lấn tối thiểu: Bác sĩ phẫu thuật chèn một ống mỏng có gắn camera để giúp nhìn và thắt các tĩnh mạch.
- Bắc cầu tĩnh mạch: Một tĩnh mạch khỏe mạnh được lấy từ nơi khác trong cơ thể đến ghép tại vị trí tổn thương. Nói chung chỉ được sử dụng khi suy tĩnh mạch ở đùi trên và chỉ là lựa chọn cuối cùng cho những trường hợp rất nặng.
Phẫu thuật bằng laser: Một phương pháp điều trị tương đối mới sử dụng tia laser để làm hẹp hoặc tắc tĩnh mạch bị tổn thương bằng các luồng ánh sáng mạnh ở một vị trí nhỏ cụ thể.
Cắt tĩnh mạch cấp cứu
Quy trình ngoại trú này (bệnh nhân sẽ không phải qua đêm trong bệnh viện) bao gồm việc bác sĩ làm tê một số điểm nhất định trên chân, sau đó tạo các vết chích nhỏ và thu hẹp các vết giãn tĩnh mạch.
Tiêm xơ
Phương pháp điều trị này thường dành riêng cho suy tĩnh mạch tiến triển.
Trong liệu pháp tiêm xơ, một chất hóa học được tiêm vào tĩnh mạch bị tổn thương để nó không còn khả năng vận chuyển máu. Máu sẽ trở về tim thông qua các tĩnh mạch khác.
Liệu pháp tiêm xơ được sử dụng để phá hủy các tĩnh mạch nhỏ và trung bình. Một chất hóa học được tiêm vào tĩnh mạch bị tổn thương để nó không còn khả năng vận chuyển máu.
Quy trình đặt ống thông
Trong trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ có thể sử dụng thủ thuật đặt ống thông cho các tĩnh mạch lớn hơn. Họ sẽ đưa một ống thông (một ống mỏng) vào tĩnh mạch, đốt nóng phần cuối của nó, sau đó lấy nó ra. Nhiệt sẽ làm cho tĩnh mạch đóng và bịt lại khi ống thông được đưa ra ngoài.
Dự phòng suy tĩnh mạch
Nếu có tiền sử gia đình bị suy tĩnh mạch, bạn có thể thực hiện các biện pháp sau để giảm nguy cơ phát triển tình trạng này:
- Không ngồi hoặc đứng ở một vị trí trong thời gian dài. Thường xuyên đứng dậy và di chuyển xung quanh.
- Bỏ thuốc lá.
- Tập thể dục thường xuyên.
- Duy trì trọng lượng cơ thể trong giới hạn bình thường