Tiếng Việt lớp 4 Tập 1 Bài 8: Người ta là hoa đất
Chia sẻ và đọc: Ông Yết Kiêu trang 100, 101, 102
Phần I
Chia sẻ:
Câu 1 trang 100 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Em hiểu câu "Người ta là hoa đất" như thế nào?
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và trả lời.
Trả lời:
Em hiểu câu "Người ta là hoa đất" là con người là vốn quý của đất trời.
Câu 2 trang 100 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Vì sao con người được ngợi ca như vậy?
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và trả lời.
Trả lời:
Vì con người biết làm đẹp trái đất nên được ca ngợi như vật.
Phần II
Bài đọc:
Ông Yết Kiêu
Thời nhà Trần có một người tên là Yết Kiêu, sức khỏe phi thường. Đặc biệt, ông bơi lội rất giỏi. Mỗi lần ông lặn xuống biển, người ta cứ tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước sáu, bảy ngày mới lên.
Hồi ấy, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh. Nhà vua sai sứ giả đi tìm người đánh giặc. Yết Kiêu bèn tìm đến, tâu vua rằng:
- Thần tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho lũ giặc vào bụng cá.
Vua hỏi:
- Nhà ngươi cần bao nhiêu người, bao nhiêu thuyền bè?
- Tâu bệ hạ, thần chỉ cần một cái dùi sắt, một chiếc búa – ông đáp.
Một mình ông lặn xuống biển, tìm đáy tàu giặc, đục thủng tàu. Tàu giặc đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Quân giặc vô cùng sợ hãi.
Mãi về sau, giặc đem một cái ống nhòm thủy tinh có phép nhìn thấu qua nước, thấy ông đi lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó bằng sắt, nhân lúc ông đang mải đục một chiếc tàu, buông xuống chụp lấy ông. Bắt được Yết Kiêu, giặc tra khảo ông:
- Nước Nam có bao nhiêu kẻ lặn được như ngươi?
Ông bảo chúng:
- Không kể những người đi lại dưới nước suốt mười ngày không lên, còn như hạng ta thì một trăm chiếc tàu của chúng bay cũng không chở hết.
Giặc dụ dỗ ông đưa chúng đi bắt những người khác. Ông giả vờ nghe theo, rồi thừa lúc chúng vô ý, nhảy xuống nước trốn đi. Bấy giờ quân giặc đã bị thiệt hại khá nặng, lại nghe nói nước Nam nhiều người có tài lặn nên đành phải quay tàu trở về, không dám quấy nhiễu nữa.
Phần III
Đọc hiểu:
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
Mỗi lần ông lặn xuống biển người ta tưởng ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước sáu, bảy ngày liền.
Phương pháp giải:
Em đọc kĩ bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Tác giả tưởng tượng Yết Kiêu có tài năng phi thường như vậy để nhấn mạnh sức tài lặn hơn người của Yết Kiêu.
Câu 3 trang 102 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Yết Kiêu dùng cách nào để đánh giặc?
Phương pháp giải:
Em đọc bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Yết Kiêu dùng một cái dùi sắt và một chiếc búa đục thủng tàu quân giặc.
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
Khi bị giặc tra khảo, Yết Kiêu đã thể hiện dũng khí và sự khôn ngoan bằng cách nói quá lên cho quân giặc sợ
Câu 5 trang 102 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Hãy nêu cảm nghĩ của em về ông Yết Kiêu.
Phương pháp giải:
Em tự liên hệ bản thân và nói lên suy nghĩ của mình.
Trả lời:
Ông Yết Kiêu là một người có trí dũng song toàn, không sợ giặc cũng như nhanh trí chỉ bằng một mình ông mà nước ta có thể chiến thắng quân địch.
Viết: Viết đoạn văn về một câu chuyện em thích trang 102, 103
Nhận xét
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
"Ông Yết Kiêu" là một câu chuyện mà em thích vì cách kể chuyện rất hấp dẫn. Yết Kiêu có tài bơi lặn rất phi thường, "nhiều khi ông sống dưới nước sáu, bảy ngày mới lên". Đó là một chi tiết mà người kể tưởng tượng để thể hiện sự khâm phục, yêu quý ông. Những chi tiết phi thường ấy cũng phản ánh một sự thật là Yết Kiêu đã đánh chìm rất nhiều tàu giặc trong những trận thủy chiến. Có lần giặc bắt được ông, tra khảo ông, nhưng ông không chịu khuất phục. Ông còn làm cho giặc khiếp sợ và dùng mưu thoát khỏi tay chúng. Câu chuyện "Ông Yết Kiêu" ca ngợi tài năng và dũng khí của một người Việt Nam yêu nước đã để lại cho em những ấn tượng sâu sắc.
a, Câu mở đoạn có tác dụng gì?
b, Các câu tiếp theo làm rõ lí do người viết thích câu chuyện như thế nào?
Phương pháp giải:
HS đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi
Trả lời:
a, Câu mở đoạn có tác dụng nêu nội dung đoạn văn.
b, Các câu tiếp theo làm rõ lí do người viết thích câu chuyện bằng cách triển khai các ý liên quan đến câu mở đoạn.
Luyện tập
Phương pháp giải:
HS nêu câu chuyện yêu thích
Trả lời:
Ví dụ: Câu chuyện “Ông Yết Kiêu”
Câu 2 trang 103 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Giải thích với bạn vì sao em thích câu chuyện đó.
Trả lời:
Em tự liên hệ bản thân và nói lên suy nghĩ của mình.
Nói và nghe: Trao đổi: Tài năng con người trang 103, 104
Phương pháp giải:
Em tự liên hệ bản thân và nói lên suy nghĩ của mình.
Trả lời:
Sau đây, mình xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về một người rất tài năng mà mình vừa tìm hiểu qua báo chí. Đó là anh Đỗ Nhật Nam, người được gọi với cái tên đầy vinh dự là "thần đồng tiếng Anh".
Anh Nam sinh ra ở tại Hà Nội, bố mẹ là viên chức nhà nước. Từ nhỏ, anh Nam đã bộc lộ mình là người có khả năng nhanh nhạy, biết cách học và nỗ lực, kiên trì rèn luyện. Cùng với sự quan tâm, giúp đỡ của gia đình nên ngày càng phát huy được ưu điểm của bản thân, đặc biệt là khả năng học tiếng anh. Anh Nam có nhiều thành tích nổi bật, đáng khâm phục với khả năng giao tiếp bằng tiếng anh thành thạo, từng làm diễn giả tại Mỹ khi tham gia hội nghị "Khoa học về nụ cười"... Anh Nam cũng là một dịch giả nhỏ tuổi và có khả năng sáng tác tự truyện, ngoài ra anh cũng tham gia nhiều hoạt động xã hội, ngoại khoá đầy bổ ích. Năm lớp hai đã đạt thành tích cao về TOEIC, đến lớp 5 đạt điểm IELTS với mức tuyệt đối. Hiện nay, anh đang du học tại Mỹ với nhiều dự định chinh phục những đỉnh cao mới, nhận vô số bằng khen của trường quốc tế và thư chúc mừng của tổng thống Mỹ Obama. Anh Nhật Nam được rất nhiều người biết đến và ngưỡng mộ. Nhiều video về cách học tiếng anh được anh hướng dẫn và đăng lên mạng thứ hút hàng triệu lượt xem. Các báo chí, truyền thông viết về anh rất nhiều.
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và hoàn thành bài tập.
Trả lời:
Theo em, tài năng của con người nhờ sự rèn luyện hoặc tự nhiên mà có. Chúng ra nên học tập và rèn luyện thật tốt, khám phá ra tài năng của mình để trở thành những người tài năng.
Đọc: Nhà bác học của đồng ruộng trang 104, 105
Phần I
Bài đọc:
Nhà bác học của đồng ruộng
Lương Định Của là nhà nông học xuất sắc và là cha đẻ của nhiều giống cây trồng mới. Rất nhiều sản phẩm nông nghiệp được nông dân gắn liền với tên của ông một cách thân thiết: dưa ông Của, cà chua ông Của, lúa ông Của,… Còn bạn bè trìu mến gọi ông là “nhà bác học của đồng ruộng”.
Là viện trưởng một viện nghiên cứu nhưng Lương Định Của vẫn làm việc trong một căn phòng rất đơn sơ. Ngoài giờ lên lớp, ông thường xắn quần, lội trên những cánh đồng thí nghiệm. Ông là người đầu tiên ứng dụng một cách sáng tạo các kĩ thuật canh tác của nước ngoài vào việc trồng lúa ở Việt Nam như: cấy chăng dây thẳng hàng, cấy ngửa tay để cây lúa không bị ngập quá sâu xuống bùn,….
Có lần, một người bạn nước ngoài gửi cho viện nghiên cứu của ông mười hạt thóc giống quý. Giữa lúc ấy, trời rét đậm. Ông Của bảo: “Không thể để những hạt giống quý này nảy mầm rồi chết vì rét.”
Ông chia mười hạt thóc giống làm hai phần. Năm hạt, ông gieo trong phòng thí nghiệm. Năm hạt còn lại, ông ngâm nước ấm, gói vào khăn, tối tối ủ trong người, trùm chăn ngủ để hơi ấm của cơ thể làm thóc nảy mầm. Sau đợt rét kéo dài, chỉ có năm hạt thóc ông Của ủ trong người là giữ được mầm xanh.
Ông Lương Định Của không còn nữa nhưng những giống cây ông để lại và tên tuổi của ông vẫn còn khắc sâu trong tâm trí của người dân Việt Nam. Ông đã được nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương Lao động hạng Nhất và Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Phần II
Đọc hiểu:
Phương pháp giải:
Em đọc kĩ bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Những tên gọi thể hiện sự đánh giá đối với tài năng và đóng góp của ông Lương Định Của: nhà nông học xuất sắc, cha đẻ của nhiều giống cây trồng mới, nhà bác học của đồng ruộng.
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
Những chi tiết ở đoạn 2 cho thấy ông Lương Định Của sống và làm việc rất giản dị: làm việc trong căn phòng đơn sơ, ngoài giờ lên lớp thì xắn quần lội trên những cánh đồng thí nghiệm.
Phương pháp giải:
HS đọc văn bản và trả lời câu hỏi
Trả lời:
Ông Của đã chia làm 2 phần, một phần gieo trong phòng thí nghiệm, 1 phần ông ngâm nước ấm, gói vào khăn tối tối ủ trong người. Hành động đó nói lên ông là một người giản dị, chất phác, làm mọi việc để cống hiến cho đất nước.
Phương pháp giải:
Em đọc bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Những cống hiến của ông Lương Định Của đã được ghi nhận khi được nhà nước trao tặng danh hiệu anh hùng lao đồng, huân chương lao động và giải thưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và trả lời.
Trả lời:
Theo em, nhờ sự yêu nước, yêu nghề, hết lòng cống hiến cho đất nước mà ông Lương Định Của có được những cống hiến lớn cho đất nước.
Luyện từ và câu: Câu chủ đề của đoạn văn trang 105, 106
Nhận xét
Câu 1 trang 105 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Đọc đoạn văn sau và tìm các câu mở đoạn, kết đoạn:
"Chiếc ví" là câu chuyện mà em rất thích, vì nội dung thú vị và có ý nghĩa sâu sắc. Câu chuyện kể về một cậu bé nghèo đã trả lại chiếc ví nhặt được của nhà từ thiện và chỉ xin ông một đô la. Lúc đầu nhà từ thiện ngạc nhiên, sau đó rất xúc động. Hoá ra cậu bé không có cả một đô la để gọi điện thoại báo cho ông đến nhận ví mà phải vay tiền người khác. Cậu bé xin một đô la, vừa bằng đúng số tiền cậu đã vay và cần phải trả. Mặc dù nghèo khó, cậu bé không tham lam. Cậu rất trung thực và biết giữ lời hứa. Một điều thú vị nữa là sự thay đổi của người trợ lí trong chuyện. Lúc đầu, anh ta có những ý nghĩ xấu về cậu bé nghẻo. Nhưng khi chứng kiến hành động của cậu bé, anh cảm thấy xấu hổ vì đã có những ý nghĩ sai. Qua câu chuyện, em hiểu rằng trung thực là phẩm chất rất đáng quý và không nên đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài của họ.
Phương pháp giải:
HS đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi
Trả lời:
- Câu mở đoạn: "Chiếc ví" là câu chuyện mà em rất thích, vì nội dung thú vị và có ý nghĩa sâu sắc.
- Câu kết đoạn: Qua câu chuyện, em hiểu rằng trung thực là phẩm chất rất đáng quý và không nên đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài của họ.
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và trả lời.
Trả lời:
Nội dung câu mở đoạn và câu kết đoạn có điểm giống là đều nêu cảm nghĩ về câu chuyện. Khác nhau về nội dung, câu mở đoạn giới thiệu nội dung đoạn còn câu kết là bài học rút ra.
Luyện tập
Câu 1 trang 106 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Tìm câu chủ đề trong các đoạn văn sau:
a) Trong những câu chuyện đã đọc gần đây, em thích nhất là truyện "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Truyện kể về người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản. Quốc Toản còn nhỏ tuổi mỏ rất sốt sắng lo việc nước. Chàng đã tập hợp sáu trăm tráng sĩ thành một đội quân dưới lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Đội quân của người thiếu niên anh hùng đã lập được nhiều chiến công vang dội, góp phần đánh thắng giặc Nguyên hung hãn. Truyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” để lại cho em ấn tượng rất sâu sắc về lòng yêu nước của thiếu nhi Việt Nam.
b) Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa.
Phương pháp giải:
HS đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi
Trả lời:
Câu chủ đề trong các đoạn văn sau:
a) Trong những câu chuyện đã đọc gần đây, em thích nhất là truyện "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
b) Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm.
Câu 2 trang 106 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Viết thêm câu chủ đề vào các đoạn văn sau:
a) Nghe tin quân Nguyên hung hãn xâm lược đất Việt, ông xin nhà vua cho ra trận chỉ với vũ khí là búa và dùi sắt để giết giặc. Một lần, khi đục thuyền giặc, ông bị chúng bắt. Ông nhanh trí vờ dẫn địch đi bắt người đục thuyền, rồi nhân lúc chúng sơ ý, ông nhảy xuống biển sâu trốn thoát.
b) Sơn Tinh có thể dùng phép bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng lũ. Thuỷ Tinh có thể hô mưa gọi gió, làm thành dông bão rung chuyển cả bầu trời.
Phương pháp giải:
HS đọc đoạn văn và viết thêm câu chủ đề
Trả lời:
Viết thêm câu chủ đề vào các đoạn văn sau:
a) Yết Kiêu là người có tài bơi lặn và có trí thông minh cao.
b) Sơn Tinh và Thủy Tinh là những người có phép có thể làm thay đổi đất trời.
Viết: Luyện tập viết đoạn văn về một câu chuyện em thích trang 107
Đề bài
Tìm ý và sắp xếp ý để viết đoạn văn theo đề bài sau:
Viết đoạn văn về một câu chuyện người có tài mà em đã được đọc hoặc nghe kể. Cho biết vì sao em thích câu chuyện đó.
Phương pháp giải:
HS xếp ý cho đoạn văn theo đề bài đã chọn
Trả lời:
Dàn ý về thần đồng tiếng Anh: Đỗ Nhật Nam
1. Viết về gì?
a) Viết về câu chuyện người có tài mà em đã được học hoặc được nghe kể: Đỗ Nhật Nam.....
b, Nêu lí do em thích câu chuyện đó: Khâm phục tài năng....
2. Tìm ý
a, Câu chuyện nói về ai hoặc sự việc gì?
- Anh Đỗ Nhật Nam, người được gọi với cái tên đầy vinh dự là "thần đồng tiếng Anh".
b, Vì sao em thích câu chuyện đó:
- Vì nhân vật trong câu chuyện tài giỏi, ham học
3. Sắp xếp ý
a, Giới thiệu chủ đề của đoạn văn : Anh Đỗ Nhật Nam, người được gọi với cái tên đầy vinh dự là "thần đồng tiếng Anh".
b, Nêu sự việc hoặc hành động thể hiện tài năng của nhân vật: Anh Nam có nhiều thành tích nổi bật, đáng khâm phục với khả năng giao tiếp bằng tiếng anh thành thạo, từng làm diễn giả tại Mỹ khi tham gia hội nghị "Khoa học về nụ cười"... Anh Nam cũng là một dịch giả nhỏ tuổi và có khả năng sáng tác tự truyện, ngoài ra anh cũng tham gia nhiều hoạt động xã hội, ngoại khoá đầy bổ ích. Năm lớp hai đã đạt thành tích cao về TOEIC, đến lớp 5 đạt điểm IELTS với mức tuyệt đối.
c, Nêu nhận xét về sự vật hoặc hành động của nhân vật qua đó làm rõ lí do em thích nhân vật: Em luôn lấy anh ấy làm tấm gương để nỗ lực học tập và phấn đấu. Em mong rằng sau này mình cũng giỏi như anh, để mang niềm vui về cho gia đình, vinh quang về cho đất nước.
Đọc: Ba nàng công chúa trang 108, 109
Phần I
Bài đọc:
Ba nàng công chúa
Vua San-ta có ba nàng công chúa rất xinh đẹp và giỏi giang. Năm ấy, đất nước có giặc ngoại xâm mà vua tuổi đã cao, sức đã yếu. Ba nàng công chúa cùng nhau đến xin vua cha cho ra trận nhưng đức vua khoát tay, bảo:
- Các con mảnh mai như thế thì làm được gì nào?
Ba nàng công chúa lẳng lặng từ biệt cha. Đến nơi bị giặc bao vây, công chúa cả ôm đàn lên mặt thành, bắt đầu hát. Nàng hát những làn điệu dân ca với giọng ấm áp, mê hồn. Lính giặc sửng sốt rồi chẳng ai bảo ai cùng hạ vũ khí, ngây người lắng nghe. Công chúa chuyển sang một điệu dân vũ, tất cả đều nhảy múa và hát theo.
Đêm xuống, công chúa út thay chị kể chuyện cho lính giặc nghe. Đó là chuyện mẹ già tựa cửa mong con, người vợ, người con vắng chồng, vắng cha, đang lam lũ vất vả nơi quê nhà,… Câu chuyện của nàng khiến toàn bộ lính giặc muốn lập tức trở về quê hương.
Hôm sau, tướng giặc đành đầu hàng và xin đức vua cấp thêm ngựa xe, lương thực để chúng rút quân. Nhưng kho lương đã cạn, ngựa cũng đã chết gần hết. Biết làm sao đây!
Lúc đó, công chúa hai vung bút vẽ hàng đoàn xe ngựa nối đuôi nhau. Nàng chấm bút vào mắt từng con ngựa. Lập tức, cả đoàn ngựa hí vang, những cỗ xe lương thực lăn bánh trước con mắt kinh ngạc của mọi người.
Tiếng đồn về ba nàng công chúa bay đi rất xa. Đức vua rất tự hào về ba cô con gái, còn các vương quốc láng giềng thì từ đó sống với nhau rất thân ái, chan hòa.
Phần II
Đọc hiểu:
Phương pháp giải:
Em đọc kĩ bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Ba nàng công chúa xin vua cha cho ra trận, lẳng lặng từ biệt cha.
Câu 2 trang 109 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Vì sao vua cha không muốn cho các con gái ra trận?
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
Vì các cô con gái mảnh mai sẽ không làm được gì.
Phương pháp giải:
Em đọc bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Công chúa cả hát khiến giặc sửng sốt và hạ vũ khí, công chúa út kể chuyện cho lính giặc nghe khiến binh lính giặc muốn trở về quê hương, công chúa hai vẽ đoàn ngựa và lương thực cho quân giặc.
Câu 4 trang 109 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Kết thúc câu chuyện gợi cho em suy nghĩ gì?
Phương pháp giải:
Em tự liên hệ bản thân và nói lên suy nghĩ của mình.
Trả lời:
Kết thúc câu chuyện gợi cho em suy nghĩ ba cô công chúa dù mảnh mai không có sức để chiến đấu nhưng lại có những cách khác nhau khiến giặc rút lui. Qua đó cho thấy công cuộc bảo vệ đất nước không phải là của riêng ai, mỗi người đều có cách khác nhau để cống hiến cho đất nước.
Nói và nghe: Trao đổi: Em đọc sách báo trang 110
Phương pháp giải:
Em tự liên hệ bản thân để hoàn thành bài tập.
Trả lời:
Câu chuyện "Người bán quạt may mắn"
Chuyện kể rằng: Thuở xưa ở Trung Quốc có ông Vương Hi Chi viết chữ đẹp nổi tiếng. Một hôm, ông ngồi nghỉ dưới một gốc cây bên vệ đường. Tình cờ, có một bà lão đi bán quạt cũng gánh hàng đến nghỉ ở gốc cây ấy. Bà lão tâm sự với ông rằng từ sáng đến giờ chưa bán được cái nào, ế quá. Chiều nay, chắc cả nhà phải nhịn đói. Nói xong bà mệt quá ngủ thiếp đi. Trong thời gian bà ngủ, Vương Hi Chi liền lấy bút mực ra, viết chữ để thơ vào tất cả gánh quạt của bà. Khi tỉnh dậy, bà thấy gánh quạt trắng của mình bị ông Vương bôi đen lên cả. Bà tức giận bắt ông phải bồi thường. Ông Vương không nói gì, chỉ mỉm cười, rồi lẳng lặng bỏ đi. Nào ngờ gánh quạt của bà, chỉ trong một thời gian ngắn đã được bán rất chạy. Có người còn hỏi mua giá đến ngàn vàng. Bà lão tiếc đứt ruột không có mà bán. Trên đường trở về, bà thầm nghĩ chắc là trời thương mình nên mới sai tiên ông đến giúp mình quạt mới bán nhanh như thế.
a, Câu chuyện (hoặc bài thơ, bài văn, bài báo) đó nói lên điều gì?
b, Theo em, cần làm gì để trở thành người có đức, có tài, có ích cho xã hội.
Phương pháp giải:
Em chủ động hoàn thành bài tập.
Trả lời:
b, Trước hết hãy tu dưỡng đạo đức, biến nó thành nền tảng để phát triển những khả năng khác của bản thân. Luôn hướng đến những điều tốt đẹp và không có ý nghĩ tham lam, cực đoan muốn đạt được những thứ không phải của mình. Sau đó ta mới nghĩ đến việc cải thiện khả năng tư duy của bản thân. Căn nguyên của tài năng có lẽ không chỉ là sự thông minh sẵn có mà nó còn nằm ở sự nỗ lực, phấn đấu và rèn luyện trong một quá trình dài đầy khó khăn và chắc chở. Chỉ cần con người có đạo đức tốt, ý chí mạnh mẽ thì mọi điều ta mong muốn đều có thể đạt được, chỉ phụ thuộc vào yếu tố thời gian.
Đọc: Tôn vinh sáng tạo trang 110, 111
Phần I
Bài đọc:
Tôn vinh sáng tạo
1, Giải thưởng sáng tạo
Giải thưởng Cô-va-lép-xcai-a được lập ra để tôn vinh những tập thể, cá nhân các nhà khoa học nữ có thành thích xuất sắc. Năm 2021, giải thưởng này đã được trao cho Giáo sư Nguyễn Thị Thanh Mai (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) về kết quả nghiên cứu một số sản phẩm thuốc từ dược liệu trong nước và Giáo sư Nguyễn Minh Thúy (trường Đại học Cần Thơ) về giải pháp lâu dài hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản.
2, Phù thủy máy nông nghiệp
Trong thời gian đi lao động ở I-xra-ren, ông Phạm Văn Hát đã chế tạo thành công máy bón phân. Về nước, ông chế tạo và cải tiến hơn 30 loại máy móc phục vụ nông nghiệp như rô bốt gieo hạt, máy phun thuốc sâu, máy đánh luống, máy cày hai lưỡi,… Rô bốt gieo hạt của ông được xuất khẩu sang 14 nước. Ông đã được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
Phần II
Đọc hiểu:
Phương pháp giải:
Em đọc kĩ bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Giải thưởng Kô-va-lép-xcai-a được lập ra nhằm mục đích tôn vinh những tập thể, cá nhân các nhà khoa học nữ có thành tích xuất sắc.
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
Giải thưởng Kô-va-lép-xcai-a được trao cho tập thể các nhà khoa học nữ phòng thí nghiệm Cúm, và bà Trần Thị Thu Hà.
Phương pháp giải:
Em đọc bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Ông Phạm Văn Hát được gọi là "phù thủy máy nông nghiệp" vì chế tạo thành công máy bón phân, chế tạo và cải tiến hơn 30 loại máy móc phục vụ nông nghiệp.
Phương pháp giải:
Em suy nghĩ và trả lời.
Trả lời:
Những sáng tạo nêu trong bài đọc thể hiện người Việt Nam có sự sáng tạo vô bờ, cần cù chịu khó để đóng góp cho đất nước.
Luyện từ và câu: Luyện tập về câu chủ đề của đoạn văn trang 111, 112
Câu 1 trang 111 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Tìm câu chủ đề trong mỗi đoạn văn sau:
a) “Thánh Gióng” là một truyện dân gian nổi tiếng, kể về một cậu bé lên ba, không biết nói, biết cười bỗng lớn vụt lên khi nước nhỏ có giặc ngoại xâm. Cậu bé trở thành chàng dũng sĩ, đầu đội nón sốt, mình mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, vung cây roi sắt, xông ra trận, làm giặc khiếp vía kinh hồn. Lúc roi sắt gãy, chàng liền nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí đánh giặc. Giặc tan, chàng cởi giáp sắt, nón sắt, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Em rất thích câu chuyện này vì hình ảnh Thánh Gióng nói lên sức mạnh kì diệu của dân tộc ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
b) "Dế Mèn phiêu lưu kí" kể lại những cuộc phiêu lưu lí thú, đầy sóng gió của chàng Dế Mèn. Không cam chịu cảnh sống tù túng, quanh quẩn, nhạt nhẽo, tầm thường, Dế Mèn cất bước đi tìm ý nghĩa thật của cuộc đời. Gặp biết bao khó khăn, trải qua những vấp váp sai lầm, thậm chí có lúc thất bại đau đớn, nhưng Dế Mèn không nản lòng, không chịu lùi bước và cuối cùng đã đạt được ước mơ của mình. "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, qua mỗi chặng đường, tầm mắt của Dế Mèn được mở rộng, đồng thời, Dế Mèn cũng thu được những bài học bổ ích.
Phương pháp giải:
HS đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi
Trả lời:
Câu chủ đề của mỗi đoạn là
a) “Thánh Gióng” là một truyện dân gian nổi tiếng, kể về một cậu bé lên ba, không biết nói, biết cười bỗng lớn vụt lên khi nước nhỏ có giặc ngoại xâm.
b) "Dế Mèn phiêu lưu kí" kể lại những cuộc phiêu lưu lí thú, đầy sóng gió của chàng Dế Mèn.
Phương pháp giải:
HS chọn đề và viết đoạn văn
Trả lời:
Qua câu chuyện về Những hạt thóc giống, em cảm thấy rất ngưỡng mộ sự trung thực của cậu bé. Cậu sẵn sàng dũng cảm nói ra sự thật, không ngại nguy hiểm, không ngại khó khăn. Cậu dám thừa nhận những lỗi lầm về mình. Cuối cùng, cậu bé đã được nhường lại ngôi vua nhờ lòng trung thực và sự gan dạ đáng quý của mình.
Tự đánh giá: Nữ tiến sĩ đầu tiên trang 113, 114
Đọc và làm bài tập “Nữ tiến sĩ đầu tiên”
Câu 1 trang 114 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Nội dung của bài đọc là gì? Tìm ý đúng:
A. Giới thiệu cách thức thi cử thời nhà Mạc và nhà Lê.
B. Ca ngợi vẻ đẹp và sự thông minh của bà Nguyễn Thị Duệ.
C. Ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của bà Nguyễn Thị Duệ.
D. Ca ngợi tám danh nhân của đất nước Việt Nam.
Phương pháp giải:
Em đọc kĩ bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
C. Ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của bà Nguyễn Thị Duệ.
A. Năm lên mười, bà cải trang thành nam giới để được đi học.
B. Bà được vua mời vào cung dạy bảo các phi tần.
C. Bà học rất giỏi, được các bạn học kính nể.
D. Bà đỗ tiến sĩ và được vua khen hết lời.
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
A. Năm lên mười, bà cải trang thành nam giới để được đi học.
A. Bà đổi lên thành Nguyễn Văn Du, đến trường học cùng các bạn nam.
B. Vua nhà Mạc và vua nhà Lê đều mời bà vào dạy học trong cung.
C. Bà được coi là nữ tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam.
D. Bà được đúc tượng đồng để thờ cúng.
Phương pháp giải:
Em đọc bài đọc để trả lời câu hỏi.
Trả lời:
B. Vua nhà Mạc và vua nhà Lê đều mời bà vào dạy học trong cung.
Câu 4 trang 114 SGK Tiếng Việt lớp 4 Tập 1: Câu nào dưới đây là câu chủ đề của đoạn 3? Tìm ý đúng:
A. Khoảng hai mươi tuổi, bà lấy tên là Nguyễn Văn Du đi thi và đỗ tiến sĩ.
B. Vua thấy vị tiến sĩ dáng hình yểu điệu, mặt mũi thanh tú, liền xét hỏi.
C. Vua không trách tội mà còn khen hết lời.
D. Vua mời bà vào cung dạy bảo các phi tần.
Phương pháp giải:
Em dựa vào bài đọc để trả lời.
Trả lời:
A. Khoảng hai mươi tuổi, bà lấy tên là Nguyễn Văn Du đi thi và đỗ tiến sĩ.
Phương pháp giải:
HS viết đoạn văn theo đề bài yêu cầu
Trả lời:
Một trong những nữ tướng mà em ngưỡng mộ nhất chính là Bà Triệu - Triệu Thị Trinh. Bà Triệu Thị Trinh còn được gọi là Triệu Trinh Nương, sinh ngày 2/10/226 tại miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhỏ, bà đã tỏ ra là người mạnh mẽ, thông minh, tài sắc khác thường. Đến tuổi trưởng thành bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ trai tráng, tập hợp quân sĩ dấy binh khởi nghĩa ở đất Quan Yên, được dân chúng khắp vùng nô nức tham gia. Từ miền đất Quan Yên, Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Chu tiến về ngàn Nưa, sau đó vượt sông Mã ra Bồ Điền. Sau đó, nghĩa quân nhanh chóng thu phục được các thành, ấp ở quận Cửu Chân và một số vùng của quận Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng như vũ bão và làm “ Chấn động Giao Châu” lúc bấy giờ.
Năm 248, Ngô Triều phải phái Lục Dận đem theo tám nghìn quân tinh nhuệ để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Do lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ sức chống lại một đạo quân lớn hơn mình gấp bội. Nên trong một trận huyết chiến với quân thù, trước thế mạnh và mưu kế hiểm độc, đê hèn của giặc, bà Triệu đã tuẫn tiết ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248 khi bà chỉ mới 22 tuổi. Bà Triệu là một nữ anh hùng thực sự của đất nước ta với sự dũng cảm, can trường của mình.
Xem thêm các bài giải SGK Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều hay, chi tiết khác: