TOP 5 Bài văn phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến (2024) HAY NHẤT

Dưới đây là TOP 5 bài văn phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến hay nhất cho học sinh tham khảo, giúp cải thiện khả năng viết văn. Mời bạn đọc đón xem:

Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến

Đề bài:Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến

Dàn ý: Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến

- Dẫn dắt vào đoạn 1 của bài thơ: Đoạn đầu của bài Tây Tiến thể hiện một thời kháng chiến gian khổ, hào hùng của đoàn quân.

2. Thân bài

2.1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến

- “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.

- “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.

=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải, lạc lõng trong lòng tác giả.

2.2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính

- “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.

- Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.

- Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.

- Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.

- “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.

- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.

2.3 Hình ảnh người lính và kỷ niệm tình quân dân

- Hai câu thơ “Anh bạn… quên đời”:

  • Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
  • Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.

- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi”

  • Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
  • Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.

3. Kết bài

3.1 Giá trị nội dung

- Đoạn thơ 14 câu tái hiện rõ nét thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng.

3.2 Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật tương phản và cường điệu, cách sử dụng từ láy gợi hình, gợi cảm để khắc họa một bức tranh giàu màu sắc, đường nét.

- Bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn; chất họa kết hợp với chất nhạc => dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng.

  • Nghệ thuật hài thanh: Tác giả sử dụng câu thơ nhiều thanh trắc tạo nên sự trắc trở.
  • Thơ mộng, trữ tình: với các từ ngữ độc đáo, ấn tượng: “hoa về” chứ không phải “hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”.

Một số bài văn mẫu: Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến

Bài văn mẫu số 1

Tài liệu VietJack

Chẳng biết tự bao giờ Tây Bắc đã trở thành một miền thương nhớ trong lòng biết bao nhiêu nhà thơ. Và viết về đề tài người lính cũng là một trong những chủ đề được nhiều tác giả lựa chọn trong đó có cả tác giả Quang Dũng. Bên cạnh các tác phẩm tiêu biểu như Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ của tác giả Hồng Nguyên thi Tây Tiến của Quang Dũng lại là những cung bậc cảm xúc mênh mang về những núi rừng xưa cũ cùng với những người lính Tây Tiến kiêu hùng.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Tây Tiến là tên một đoàn quân được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp, đơn vị bộ đội ấy có xuất thân chủ yếu là thanh niên Hà Nội, phần lớn là học sinh, sinh viên, trí thức, tiểu tư sản Hà thành.

Quang Dũng viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh- Hà Đông vào một buổi chiều mưa cuối năm 1948. Bài thơ là tiếng lòng của Quang Dũng với nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển công tác ở đơn vị khác. Để đi tới sáng tác thi phẩm “Tây Tiến”, một trong những thi phẩm đặc sắc, đem đến thành công độc đáo trong hồn thơ của mình, những kỷ niệm về Tây Tiến phải như lớp phù sa màu mỡ, lắng đọng và bồi tụ trong tâm hồn của Quang Dũng, chính từ lớp phù sa ấy, những kỉ niệm, kí ức một thời của tác giả về đoàn binh Tây Tiến mới cất cánh bay cao, xây hồn thơ đặc sắc trong tác phẩm của ông.

Viên Mai đã từng viết: “Làm người thì không có cái tôi…nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Nhận định ấy thật đúng đắn khi ta soi chiếu vào “cái tôi” làm thơ đầy hồn hậu, phóng khoáng và lãng mạn của Quang Dũng. Có lẽ bởi thế mà ông có thể sáng tác ra những vần thơ lãng mạn và tại hoa, đặc biệt là khi viết về người lính trong bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ là nỗi nhớ về đơn vị cũ của nhà thơ, tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Mười bốn câu đầu tiên của bài thơ đã tái hiện lại những khó khăn, gian khổ trên chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên chặng đường ấy, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên với nét hùng vĩ dữ dội xen lẫn vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Bài thơ mở ra với những khó khăn, gian khổ trên chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên chặng đường ấy, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên với nét hùng vĩ dữ dội xen lẫn với vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Hai câu thơ đầu giới thiệu cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn, toàn bài, đó là nỗi nhớ nhung tha thiết:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Câu thơ mở đầu với ngữ điệu của một câu cảm thán, khơi gợi nhiều cảm xúc của nhà thơ đã cất lên tiếng gọi đoàn binh của mình. Nhà thơ đã cất tiệng gọi “Sông Mã”, là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc, địa danh mà đã đồng hành, gắn bó với đoàn binh suốt chặng đường hành quân nhưng gọi về những gì thân thuộc nhất. Nếu như Huế có sông Hương êm ả, Hà Nội có cầu Long Biên cùng đồng hành trong những chặng đường lịch sử thì con sông Mã tựa như một sinh thể sống, một chứng nhân lịch sử ghi lại chiến công và những chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Hai tiếng “xa rồi” như một tiếng nấc nghẹn, bật ra trong nỗi niềm ngậm ngùi, xót xa, khi mà giờ đây, những kỉ niệm với dòng sông Mã năm xưa đã trở thành lịch sử, tác giả chỉ có thể trở về trong tâm tưởng. Tiếng nghẹn ấy đã làm cho âm điệu của câu thơ êm ái, gợi niềm lưu luyến tiếc nuối, bâng khuâng. Bởi lẽ “ Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” (Puskin), xuất phát từ nỗi nhớ thẳm sâu, da diết trong trái tim mình, Quang Dũng đã viết nên những vần thơ chân thật, khởi nguồn từ những kỷ niệm về chiến khu cũ của mình. Hai từ “Tây Tiến” bật ra nghe mới thật thân thương làm sao! Tây Tiến là sản phẩm của nỗi nhớ nhưng không chỉ có nỗi nhớ, nỗi nhớ là mạch nguồn để khơi gợi tình cảm, cảm xúc chân thật, khát vọng, cho dù đã xa nhưng tâm hồn mãi thủy chung với Tây Tiến. Điệp từ “nhớ” xuất hiện với tần suất lớn có tác dụng làm nổi bật lên nỗi nhớ nhung tha thiết của nhân vật trữ tình tạo nên tính nhạc cho câu thơ tựa như một điệp khúc vang vọng mãi trong sâu thẳm tâm
hồn của độc giả làm cho ta không thể không đồng ý với lời nhận xét của Voltaire:

“ Thơ là âm nhạc của tâm hồn,
nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.

Cách sử dụng từ ngữ của Quang Dũng đặc biệt “nhớ chơi vơi”. Có nhiều hình thức nhớ được thể hiện trong kho tàng văn học Việt Nam thế nhưng “nhớ chơi vơi” thật đặc biệt và chính cụm từ này làm cho nguồn cảm xúc trong bài thơ tỏa sáng theo cách riêng của nó. “Chơi vơi” là từ láy tượng hình, diễn tả trạng thái lơ lửng của con người trong không gian, không điểm đầu không điểm kết thúc. Như vậy nhớ chơi vơi là nỗi nhớ thường trực, triền miên, khắc khoải, khiến con người ta đứng ngồi không yên. Trạng thái lơ lửng, bồng bềnh của “chơi vơi” cộng hưởng với niềm xúc cảm nồng nàn, say đắm là miền nhớ đã tạo nên một nỗi “nhớ chơi vơi” có một không hai trên thi đàn. Có lẽ vì nó gắn với “rừng núi” bao la, trời đất rộng lớn và quá khứ bi hùng nên nó phải “chơi vơi” như thế, giống như đám mây lơ lửng trong không trung kia, như là những làn sương-mây-khói giữa Pha Luông khi những người chiến sĩ dừng chân bên lưng núi: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”… Hai câu thơ đã thể hiện trọn vẹn cảm xúc chủ đạo của bài thơ, tạo nền tảng để cho những nỗi nhớ được nâng lên thành tình cảm luyến lưu sâu sắc.Từ nỗi nhớ của Quang Dũng gợi ta nhớ về nhân vật trữ tình trong ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Tác giả như đang trôi theo dòng nhớ để những sợi tơ lòng giăng mắc khắp không gian núi rừng Tây Bắc. Hai âm “ơi” kéo dài tạo nên nhạc tính cho cả câu thơ, tưởng rằng Quang Dũng đã đánh lên một hồi chuông thương nhớ vượt tới tận miền Tây Bắc xa xôi rồi dội lại, đi thẳng vào đáy sâu hồn người, ngân nga, ngân nga mãi! Người ta có thể quên một dáng hình, một cảnh vật, một kỉ niệm trong Tây Tiến, nhưng có lẽ sẽ chẳng ai quên nổi một nỗi nhớ chơi vơi mới lạ và say đắm tới như vậy.

Có những mùi hương trăm năm không quên, có những nỗi nhớ thăm sâu đến vô cùng. Nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về đoàn binh, về một thời tuổi trẻ mà gian khổ có, khó khăn có, nhưng cũng thật hào hùng, hào hoa trong tâm hồn Quang Dũng như một thứ trầm hương, mang trong mình hương thơm “thọ thiên địa chí khí”, hương thơm ấy thanh thoát, dịu nhẹ trở lại trong tâm tưởng nhà thơ với đầy đủ sắc bị tuyệt diệu của nó. Có lẽ cũng bắt nguồn từ nỗi nhớ như Quang Dũng mà nhà thơ Giang Nam cũng từng vẽ nên những âm điệu đầy thi vị cùng niềm tự hào khôn xiết:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”

Đến với hai câu thơ tiếp theo, tác giả mở ra khung cảnh con đường hành quân của những người chiến sĩ Tây Tiến:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng đã sử dụng thủ pháp liệt kê những địa danh mà mình đã từng đi qua như Sài Khao, Mường Lát. Văn học là môn nghệ thuật đặc thù bởi lẽ nó sử dụng ngôn từ ngắn gọn, hàm súc nhưng lại chứa đựng tầng sâu ngôn từ đa nghĩa, buộc chúng ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều để khám phá dụng ý của tác giả. Hình ảnh tả thực “sương lấp” cho ta thấy sương ở đây bao phủ dày đặc tưởng chừng như có thể nuốt chửng cả một đoàn quân, khiến cho bước chân của đoàn binh Tây Tiến mệt mỏi rã rời. Thời tiết nơi đây khắc nghiệt, khiến cho chặng đường hành quân của người lính khó khăn, vất vả, gian khổ. Mặt khác, “sương” ở đây còn là ẩn dụ cho những khó khăn, gian khổ, thử thách cũng như những cạm bẫy mà những người lính chiến đấu phải đối mặt, vượt qua, chấp nhận nó như một phần của cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh ấy cũng đã được Tố Hữu đưa vào bài thơ Việt Bắc:

“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Những gian nan, vất vả ấy được thi nhân gói ghém trong một từ rất đỗi lãng mạn “sương” càng tô đậm nét hào hoa vô tư và lạc quan của các chiến sĩ cho dù có những lúc “đoàn quân mỏi”. Câu thơ này vừa hào hùng lại cũng rất trữ tình làm cho Đinh Minh Hằng phải thốt lên rằng: “Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”.

Đối lập với câu thơ trên, câu thơ thứ hai là một nét vẽ lãng mạn, mềm mại, thơ mộng. Nét vẽ đó cho chúng ta thấy vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc: “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Biện pháp nhân hóa “hoa về” khiến cho thiên nhiên tạo vật trở nên sống động, có hồn. Liệu rằng, “hoa” ấy, có phải là ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc xuất hiện trong bản nhạc “Tình ca Tây Bắc” đầy yêu thương? Hay “hoa” ấy không phải là hoa như cách nói thông thường, mà lại là những ánh đuốc bập bùng được người lính thắp để soi đường trong đêm hơi? Dù hiểu theo cách nào thì “hoa” kia vẫn cứ nhẹ nhàng êm ái như một hơi thở vậy. Câu thơ đã hé trước tâm hồn lãng mạn bay bổng vốn có của một người lính Tây Tiến. “Hoa về trong đêm hơi” khiến cho đêm nơi núi rừng bạt ngàn bồng bềnh, chơi vơi tựa như trong cõi mộng chứ không phải là thực tại nhân sinh nữa. “Đêm hơi” chính là đêm trong nước, đêm trong mưa bụi. Ở miền núi sẩm tối, sương xuống bàng bạc, trong thời khắc ấy, ngòi bút tài hoa của Quang
Dũng thay vì viết "màn đêm buông" là 'hơi đêm", một cách thể hiện táo bạo. Nhưng dùng "hơi đêm", nghĩa là "mới vào đêm", không thể lột tả hết vẻ yên tĩnh, bí ẩn bằng "đêm hơi". Mặt khác, từ “hoa” còn có thể hiểu là ẩn dụ của những mỹ nữ miền sơn cước nơi đây, kết hợp với độ nhòe mờ của từ “hơi” làm cho câu thơ trở nên lãng mạn nhưng cũng không kém phần bi tráng. Quang Dũng đã làm cho hình ảnh thơ trở thành ẩn số nhưng ẩn số ấy lại đọng lại sâu lắng trong tâm tư người đọc. Việc sử dụng từ độc đáo “đêm hơi” cũng cho thấy sự tinh tế trong cách
cảm nhận và sự táo bạo trong cách sử dụng ngôn từ. Từ “đêm hơi” đã lột tả vẻ đẹp yên tĩnh và bí ẩn nơi rừng núi hoang vu.

Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, một câu thơ có bảy tiếng, ngoài địa danh Mường Lát được đề cập tới thì các tiếng còn lại đều có thanh bằng, đọc câu thơ lên, con người như hòa vào không gian yên bình, dịu êm, lãng mạn, tan vào hương hoa để cảm nhận được những vẻ đẹp diệu kỳ nhất của nó. Hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến vừa khắc nghiệt, khó khăn, gian khổ lại vừa thơ mộng, bay bổng, yêu đời.

Quang Dũng đã gắn bó với thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc trong suốt chặng đường hành quân hối hả, từng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khéo léo tiếp nối nhau đi vào những vần thơ êm dịu, mỗi nơi mà bước chân nhà thơ từng đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều thấy yêu thương, gắn bó, ta cũng bắt gặp những tình cảm thắm thiết, sâu nặng như thế quá ý thơ của Chế Lan Viên:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Mảnh đất Tây Bắc trở nên xa xôi, hoang vu với những địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu...từng in dấu chân người chiến sĩ.

Ba câu thơ tiếp theo khắc họa được rõ nét địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Quang Dũng đã sử dụng đặc trưng văn học, đó là lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng để lột tả chân thực địa hình núi rừng hiểm trở qua nhiều từ láy giàu giá trị tạo hình khác nhau. Từ “khúc khuỷu” diễn tả con đường ghồ ghề, ghập ghềnh, uốn lượn, quanh co, khó đi. Từ “thăm thẳm” vừa diễn tả được độ cao chót vót, lại vừa gợi cảm nhận về độ sâu hun hút. Điệp từ “dốc” đứng đầu mỗi vế có tác dụng tô đậm những con đường dốc cao nối nhau đến vô tận. Người lính vừa leo xong con dốc này lại tiếp tục đối mặt với những con dốc khác, mà con dốc sau còn hiểm trở hơn con dốc trước, nhiều khó khăn gian khổ chất chồng thách thức người lính. Từ láy “heo hút” gợi lên không gian hoang vu, hoang sơ, lạnh lẽo, hiu quạnh, xa cách với cuộc sống của con người. Thiên nhiên đa sắc là phông nền để hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với những vẻ đẹp ấn tượng. Người lính phải hành quân trên chặng đường khó khăn với bao gian nan thử thách hiểm nguy và thậm chí hi sinh. Họ phải hành quân qua những địa điểm xa lạ, chưa bao giờ đặt chân đến khác với Hà Thành mà họ lớn lên. Thời tiết nơi đây khắc nghiệt, khiến cho chặng đường hành quân của người lính thêm khó khăn, vất vả, gian khổ mà ta từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu:

“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Biện pháp nhân hóa “súng ngửi trời” vừa diễn tả độ cao của địa hình vừa hé mở sự đùa vui, nghịch ngợm, tếu táo mang khẩu khí người lính Tây Tiến. Bởi văn học sử dụng ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng nhân vật, do vậy trong tác phẩm “Tây Tiến”, tác giả Quang Dũng đã sử dụng lớp ngôn từ tinh túy để khiến cho câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” trở nên hóm hình, tinh nghịch, nhưng không kém phần hào hoa của những chàng trai Hà thành hoa lệ, các anh đã chiếm lĩnh tầng cao của núi đèo, khiến hình tượng người lính Tây Tiến sánh ngang tầm vũ trụ. Ngỡ như các anh đang đi trong mây, đang cưỡi trên mây để lên đến đỉnh trời. Và khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất thì “súng” các anh đã “ngửi trời”! Có một tiếng cười, thú vị mà tinh nghịch của người lính hào hoa Hà Nội khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất. Không phải súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Khẩu súng được nhân hóa như người đã khiến câu thơ trở nên hóm hỉnh, tinh nghịch, mang chất hào hoa của những chàng trai đất kinh thành hoa lệ lên đánh giặc ở miền Tây. Câu trên nặng nhọc, gấp gáp; câu dưới nhẹ nhàng, thơ mộng trong sự tự hào của người chiến thắng. Ta hiểu đây không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mặt đất mà chính là đỉnh cao trọng sự chiến thắng của tinh thần, nghị lực người chiến sĩ. Hình ảnh ấy mĩ lệ không kém gì “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu cả! Cách lựa chọn từ ngữ thông minh, sắc sảo đã khiến cho ba câu thơ không một câu nào non nớt, bằng phẳng, trái lại câu nào cũng có nội lực riêng, tạo nên khí vị chung cho bài thơ, một khí vị bi hùng, hoang dã và quả cảm.

Câu thơ thứ ba với nghệ thuật đối lập, tương phản, điệp từ “ngàn thước” đi nhịp 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi gợi liên tưởng tới những vách núi dựng đứng đem lại cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Thiên nhiên lúc này không phải là đối tượng thưởng thức nữa mà trở thành đối thủ thách thức ý chí của con người.Ta nhớ đến những câu thơ cũng thể hiện sự hiểm trở trên đường đi trong vần thơ Lý Bạch:

“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên”

(Đường Thục khó đi).

Tô đậm địa hình hiểm trở là cách nhà thơ làm nổi bật khó khăn gian khổ trên chặng đường hành quân của người lính từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của con người, dũng cảm kiên cường của người lính Tây Tiến. Nói khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua/Kẻ thù nào cũng đánh thắng!” nó làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố Hữu:

“ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.”
(Lên Tây Bắc)

Câu thơ thứ tư “Nhà ai pha Luông mưa xa khơi” mang đậm tính chất lãng mạn trong tâm hồn thơ Quang Dũng. Nếu ba câu thơ trên sử dụng hình nhiều thanh trắc khiến cho âm điệu trong câu thơ nặng nề gợi sự mệt mỏi của người lính khi phải leo dốc vượt đèo thì đến câu thơ này, nhà thơ hoàn toàn sử dụng thanh bằng khiến âm điệu trở nên nhẹ nhàng, dịu êm, tha thiết hơn. Âm điệu đó hé mở tâm hồn nhẹ nhõm, thanh thản, tươi mát của người lính trẻ trong chặng đường hành quân vất vả. Không chỉ miêu tả sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc mà nhà thơ còn cho thấy nét đẹp thơ mộng, tình tứ, mềm mại, đáng yêu của thiên nhiên tạo hóa nơi đây. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi ra sự bí ẩn khiến độc giả vô cùng tò mò. Liệu rằng ẩn sau màn mưa ấy, trong một căn nhà nhỏ bé vùng quê là bóng hình của một thiếu nữ đảm đang hay có thể là dáng hình còm cõi của người mẹ nuôi quân?

Bốn câu thơ cuối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng thật đặc biệt. Nếu ba câu thơ đầu được vẽ bằng những nét gân guốc khi tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đối, ngắt nhịp, nhiều thanh trắc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng nét mềm mại, toàn thanh bằng. Bút pháp tạo hình giống như một bức tranh thủy mặc - một vài nét chấm phá gợi lên không gian ba chiều cao, sâu, rộng. Chiều nào cũng để lại dấu ấn trên bức tranh tuyệt đẹp kia.

Hai câu thơ tiếp theo tập trung khắc họa sư hy sinh anh dũng của người lính, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Từ láy dãi dầu gợi sự vất vả nhọc nhằn, “dầu sương dãi nắng”. Cụm từ “không bước nữa” thể hiện sự kiệt sức, không bước được nữa. Có thể vì quá mệt nên các anh tì súng nằm nghỉ một chút hay có thể là cách nói giảm nói tránh “bỏ quên đời” nhằm xoa dịu sự mất mát, hy sinh khiến cho câu thơ bi mà không lụy. Cõi chết đến với người lính nhẹ nhõm, thanh thản, nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ. Thấy được sự hy sinh của người lính Tây Tiến, thấy khó khăn gian khổ khiến cho họ phải đối mặt với cái chết, cùng với đó là vẻ đẹp của người lính, sẵn sàng hy sinh ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, dáng hình của các anh tượng trưng cho thế hệ trẻ thời kháng chiến, như cây súng chắc trong tay lưỡi lê sáng ngời, khiến cho quân thù bàng hoàng khiếp sợ, dáng hình của các anh đã đi thẳng vào lịch sử để trở thành tư thế Việt Nam tự hào thế hệ. Đó là sự hiên ngang của người lính, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tư thế ấy đã được Tố Hữu ca ngợi trong Trăng Trối:

“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành

Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”

Đọc câu thơ ấy lên, ta mới thấu hiểu được hết hiện thực của chiến sĩ chiến tranh, hiện thực ấy là hy sinh, mất mát, hiện thực ấy là cả một bài ca mà ta sẽ không bao giờ quên với giai điệu hào hùng về những con người đã ngã cả, gửi trọn đời cho tất cả, để đất nước ta được độc lập, để ta có cuộc sống ngày hôm nay. Câu thơ đã thể hiện được cuộc chiến đấu gian khổ khắc nghiệt, hiện thực chiến tranh khốc liệt bi thương được khắc họa rõ nét, những cũng chính vì vậy đã nêu cao được tinh thần kiên cường ý chí chiến đấu và tư thế hiên ngang của người lính Tây Tiến. Đó là người lính trong thơ Chính Hữu:

“Bạn ta đó chết trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong”
(“Giá từng thước đất”-Chính Hữu)

Hai câu thơ tiếp theo tập trung làm nổi bật lên sự bí ẩn linh thiêng của rừng núi Tây Bắc:

“Chiều chiều oai linh thác ghầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” khơi gợi những âm thanh ghê rợn, đặc trưng của rừng già, đem lại cảm giác hãi hùng cho con người, khắc nghiệt mà người lính phải đối mặt. Biện pháp nghệ thuật tương phản, đối lập kết hợp với điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” có tác dụng làm nổi bật lên sự nguy hiểm, chết chóc luôn rình rập người lính ở mọi thời điểm. Dòng chảy thời gian vô tận cứ lặp đi lặp lại đã biến rừng già trở thành chốn “rừng thiêng nước độc” đối với những người lính Tây Tiến. Khó khăn và gian khổ luôn hiện hữu trước
mắt người lính, nhưng họ vẫn dồn toàn tâm toàn lực để tiếp tục tiến bước trên con đường thiêng liêng ấy:

“Đoàn vệ quốc một lần ra đi
Nào có xá chi đâu ngày trở về”

Như vậy thiên nhiên Tây Bắc không chỉ hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nó còn bí ẩn oai linh. Sống chiến đấu trên một địa bàn như vậy đòi hỏi người lính phải gan dạ, can trường, dũng cảm cực kì. Oai linh, bí hiểm là thế nhưng Quang Dũng đã vô cùng tinh tế “thả” một chữ “trêu” vào câu thơ. Chính cách dùng từ độc đáo của nhà thơ đã làm lộ ra sự vui tươi, lạc quan, khẩu khí chiến đấu cũa chiến sĩ Tây Tiến. Họ nào có ngại gì khó khăn mà vẫn bước tiếp trên con đường hành quân, đối với họ bây giờ cọp không còn là mối nguy hiểm nữa mà đó tựa như là trò chơi giao đấu giữa đôi bên. Cách nói như thế khiến câu thơ không còn quá nặng nề nhưng vẫn tôn vinh được vẻ đẹp của người chiến sĩ.

Sau chặng đường hành quân gian khổ, vất vả giờ đây người lính có dịp dừng chân tại một bản làng có tên gọi rất đỗi ngây thơ Mai Châu, được đồng bào dân tộc đón tiếp nồng nhiệt:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ thể hiện tình quân dân thắm thiết. Từ cảm thán “nhớ ôi” thể hiện sự nhớ nhung tha thiết, dạt dào tình cảm, tác giả như thốt lên, muốn nói lên nỗi nhớ ấy.

Trải qua hơn một nửa thế kỉ, những vần thơ “Tây Tiến”, đã vượt qua biết bao lớp bụi thời gian để in sâu, bám rễ vào tâm tưởng của biết bao thế hệ độc giả người Việt. Xin được mượn lời của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thay cho lời kết: “Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng… một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người”…

Bài văn mẫu số 2

Quang Dũng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ Tây Tiến được ông sáng tác khi nhà thơ Quang Dũng đã rời xa đơn vị Tây Tiến của mình một thời gian. Bài thơ là nỗi nhớ da diết chơi vơi của tác giả khi nhớ về những kỉ niệm hành quân cùng đồng đội qua những vùng núi Tây Bắc hiểm trở. Đặc biệt, qua khổ thơ đầu, tác giả đã cho người đọc cảm nhận đưuọc vẻ đẹp núi rừng thiên nhiên Tây Bắc cũng như con đường hành quan gian khổ của những người lính Tây Tiến.

Ngay tại đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bởi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn kỷ niệm đọng lại qua câu chuyện đời bao tâm hồn yêu nước thầm lặng:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế mà hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc về “sông Mã” trước nhất. Phải chăng dòng sông Mã uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc là hình ảnh đã đi sâu vào lòng người chiến sĩ?

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Đây chắc hẳn là nơi đã gắn bó với các anh bằng những kỉ niệm đẹp nhất của thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp cháy lên ngọn lửa của khát vọng tự do dân tộc hào hùng. Tiếng gọi nơi mái trường xin tạm dừng khép lại, dấu chân ai in dày trên những đỉnh núi cao, băng qua cánh rừng xanh những lá. Đoạn hành trình dài còn đó những gian truân, khó khăn và muôn vàn thử thách. Ở chốn xa, chỉ có tình đồng chí sống mãi, dìu dắt nhau vượt qua ngàn phong ba, bão táp.

Chính những hình ảnh tưởng chừng như bình thường ấy đã khiến các anh phải trở nên “chơi vơi” khi quay đầu nhìn lại. Thông qua cách sử dụng hai từ “chơi vơi” đặc biệt của tác giả, một nỗi nhớ da diết, triền miên được thổ lộ theo cách nhẹ nhàng nhưng khó phai nhất. Tâm tư kia như được khắc trong tim, được vẽ lên đá, tồn tại với thời gian qua nhiều dáng vẻ, hình thù khác nhau. Đồng thời, khi kết hợp cùng với từ cảm thán “ơi” ở câu trên càng nhấn mạnh nên một cảm xúc khó tả, một chút xuyến xao trong lòng của toàn đoàn quân Tây Tiến, trong đó có cả Quang Dũng.

Nếu như hai câu đầu của đoạn thơ sẽ là khúc dạo đầu của hồi ức kỷ niệm thì hai câu thơ tiếp theo có lẽ lại là những miêu tả về đoạn hành trình đã được lưu dấu:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, đoàn quân vẫn miệt mài đi qua dù đang mỏi mệt, vất vả. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh mùi súng đạn tàn khốc, bên tiếng pháo, tiếng bom ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nối tiếp những cung bậc cảm xúc ở phía trên, việc sử dụng những từ láy có tác dụng gợi hình như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút của tác giả đã khắc họa nên bức tranh hành trình hiểm trở thêm phần sắc nét. Con dốc cao sừng sững ngất trời đầy gian nan, cách trở với đường đi quanh co, gập ghềnh khiến cho mỗi con người khi cất bước đi lên gặp nhiều nguy hiểm khôn xiết.

Ấy thế mà, dù băng qua gió, đi trong mây, nét hóm hỉnh của những chàng trai trẻ trong đoàn quân vẫn còn đó. Phải chăng phép nhân hóa “súng ngửi trời” kia của tác giả là minh chứng rõ ràng nhất trong bài thơ? Trước núi rừng hùng vĩ mây phủ quanh năm, giữa bộn bề nguy khó, sinh tử cận kề, tinh thần lạc quan của các anh vẫn luôn được gìn giữ.

Cách gọi “súng ngửi trời” nghe sao thật ngộ nghĩnh, hồn nhiên, nhưng càng gọi lại lại càng thấy thương vô cùng. Thương cho cái gian truân, vất vả, thương cho bao gian khổ, khó khăn của chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính trẻ xa nhà phải chịu đựng.

Là “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đất trời Tây Bắc, người ở dưới nhìn lên như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống mịt mờ mây và sương mù che kín. Những ngọn núi, đồi cao, quanh năm không dấu chân người qua lại, “heo hút”, trùng trùng điệp điệp nay đã có các anh đi qua, mang theo cùng mùi sương vị gió.

Tạm dừng những câu thơ kết hợp nhiều thanh trắc miêu tả cảnh dốc đồi, tác giả đã viết nên một câu thơ với vần bằng xuyên suốt hết câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một thoáng mênh mang đã tái hiện lên giữa cuộc hành quân, khi các anh dừng chân nơi ngọn đèo xa lạ, nhìn thấy bản Pha Luông cùng với những ngôi nhà. Tiếng “nhà” gọi lên nghe chiều bâng khuâng, làm xao xuyến mỗi tâm hồn, một tiếng khẽ thôi nhưng chứa nhiều nỗi man mác khôn nguôi, khó tả. Là vì lẽ đứng trước nơi chốn lạ trông thấy cảnh vật xa xăm mà gần gũi? Hay là vì nỗi nhớ nhà vẫn luôn gìn giữ nơi tim mỗi chàng trai Hà Thành cả một thời thơ dại chưa bao giờ rời xa mảnh đất cố hương?

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Nơi núi rừng Tây Bắc hoang dã, là những ngọn núi ngất trời, những cánh rừng sâu đầy dã thú, con dốc cao sừng sừng cản bước chân người. Hành quân nơi địa hình hiểm trở như thế ranh giới của sự sống và cái chết thật thật mong manh và khó đoán. Đã có các anh phải kiệt sức vì chặng đường khắc nghiệt, gian nan, bỏ lại sau lưng chí hướng, những đồng đội trên đường. Thương những con người “dãi dầu không bước nữa”, để rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bởi cái cảnh mưa ngàn, thú dữ, tiếng cọp hoang văng vẳng đêm đêm nơi xứ Mường Hịch, tiếc thác chảy thét gầm trong những chiều hoàng hôn phủ lặng…

Sau những chặng đường dài nguy khó, hai câu thơ cuối kết thúc đoạn một đã khiến người đọc cảm nhận lại được chút ấm áp, dịu nhẹ bên những kỷ niệm chan chứa tình người nơi các anh lính trẻ đi qua:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Gác lại phút trắc trở băng rừng, lội suối, các anh dừng lại, ngồi bên nhau quây quần nơi bản làng xa lạ nào đó. Mùi khói bếp xông lên xen lẫn tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu đã giữ dấu ân tình, là buổi chuyện trò trong những bữa cơm ngạt thơm vị khói đã làm đậm nên những kỷ niệm không phai, khó mờ.

Chiến tranh đã trôi qua rất lâu, mỗi khi nhìn lại đó là những khoảng lặng, nốt trầm trong ta, để ta thêm biết ơn, thêm tự hào cho những người lính qua đoạn một bài thơ Tây Tiến nói riêng và và các chiến sĩ đã hy sinh vì dân tộc nói chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người đã ngã xuống vì tình yêu đất nước thì đó lại là những quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí tuyệt vời về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy anh hùng của đời mình.

Bài văn mẫu số 3

"Tây Tiến" của Quang Dũng có thể coi là một trong những bông hoa tươi thắm nhất của chùm hoa thơ viết về anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ngay từ khi ra đời đã tạo một sức sống hết sức mạnh mẽ và bền bỉ trong lòng người đọc. Sức sống ấy có được là nhờ ngòi bút của Quang Dũng đã từ những cảm hứng vừa hiện thực, vừa bay bổng lãng mạn khi khắc họa hình tượng người chiến sĩ vệ quốc như một khúc ca bi tráng vang lên giữa một bản đại hùng ca của toàn dân tộc trong những tháng năm bảo vệ đất nước mình. Hình tượng người lính với sự hòa trộn các sắc màu vừa hiện thực vừa lãng mạn đã được hiện ra ngay từ phần thứ nhất của bài thơ, phần mô tả vẻ đẹp của người lính gắn liền với những chặng đường hành quân của họ. Thiên nhiên và con người đan xen hoà quyện lẫn nhau để tạo nên sự hoành tráng của bức tranh cuộc sống, sự kỳ vĩ lớn lao của con người.

"Tây Tiến", nói đúng ra là những hoài niệm đầy nhớ thương và tự hào của Quang Dũng về những người đồng đội của mình trong đoàn binh Tây Tiến, đoàn binh có nhiệm vụ từ Hà Nội, Hà Tây tiến thẳng lên Tây Bắc giải phóng vùng biên giới Việt-Lào rồi giúp nước bạn giải phóng vùng thượng Lào, tạo nên một vùng an toàn cho chiến khu của chúng ta; về những tháng năm vô cùng gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của đoàn binh Tây Tiến gắn liền với những vùng đất mà họ đã đi qua, đã chiến đấu, và chiến thắng. Sau những bước chân trường chinh, Tây Tiến, đoàn binh đã được phiên chế thành những đơn vị khác. Vì thế bài thơ lúc đầu có tựa đề "Nhớ Tây Tiến", về sau QD mới đổi thành "Tây Tiến".

Bài thơ, như những dòng ghi chú cuối cùng, được làm tại Phù Lưu Chanh, một làng ven bờ sông Đáy. Phải chăng vì thế mà nỗi nhớ Tây Tiến lại được bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dòng sông với âm hưởng vô cùng tha thiết

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"

Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ "xa rồi" và chữ "ơi" đầy cảm xúc nhớ thương. Nhà thơ như để tiếng gọi yêu thương "Tây Tiến ơi" vọng về với một thời gian khổ nhưng nghĩa tình, đầy những hy sinh nhưng cũng đầy những gắn bó, vọng về một miền đất xa xôi, vọng tới những người đồng đội của mình dù nằm lại nơi viễn xứ hay đang chiến đấu ở những chiến trường khác nhau. "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!", thấm đượm biết bao nỗi nhớ, niềm yêu thương của Quang Dũng.

Hình tượng con sông Mã mở đầu cho hoài niệm về Tây Tiến như một sự khẳng định âm hưởng hào hùng, bi tráng của những "tháng năm Tây Tiến" đã không thể phai mờ trong tâm trí không chỉ mỗi người lính Tây Tiến mà của cả dân tộc, của cả đất nước. Con sông Mã đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, cho vẻ đẹp của đoàn binh Tây Tiến. Và Quang Dũng đã để con sông Mã ấy xa dần, xa dần nhưng vẫn chảy suốt bài thơ để khi thì hiện lên thành những con thác chiều chiều oai linh gầm thét, khi lại thành dòng nước lũ với con thuyền độc mộc, với "hoa đong đưa" và cuối cùng là hiện ra một cách đầy đủ trong khúc ca bi tráng của nó khi "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Và phải chăng con sông Mã ấy cũng chính là dòng sông cảm xúc mà Quang Dũng đã từ nó thể hiện bao nhiêu tự hào, cảm phục, nhớ thương đối với những người đồng đội của mình.

14 dòng thơ mở đầu là sự khắc tạc hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của họ. Vì thế thiên nhiên được mô tả cũng gắn liền với những chặng đường hành quân này. Thiên nhiên và con người như đan xen, như hoà quyện lẫn nhau. Dừng lại những chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, 14 dòng thơ như những thước phim tư liệu nhưng lại đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống, cuộc chiến đấu của người lính Tây Tiến.

Trước hết phải thấy Quang Dũng đã tạo nên trong Tây Tiến một thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa bí hiểm, vừa thơ mộng vừa khắc nghiệt như một cái nền làm nổi bật hình tượng người lính. Cho nên sau câu thơ như một tiếng gọi tha thiết "Sông Mã xa rồi TT ơi !" là hình ảnh của một vùng rừng núi bao la như chao nghiêng trong ống kính của người nghệ sĩ quay phim, như chơi vơi trong nỗi nhớ của Quang Dũng. "Nỗi nhớ chơi vơi" là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, bởi chơi vơi thường mang ý nghĩa chỉ không gian. Không gian tồn tại của sự vật, đi vào nỗi nhớ của Quang Dũng "chơi vơi" trở thành không gian của tâm tưởng, của cảm xúc. Từ bức tranh toàn cảnh "chơi vơi" một nỗi nhớ này, hoài niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những chặng đường đã qua của đoàn binh Tây Tiến với những địa danh, không phải không có sự lựa chọn một cách kỳ công, gợi biết bao cảm giác về sự xa xôi hiểm trở như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu...Những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ, thậm chí nó từng khiến Vũ Quần Phương cho rằng 2 chữ "Mường Hịch" nghe như bước chân cọp dậm dịch rình người, còn 2 chữ "Mai Châu" tự nó đã ủ sẵn hương thơm của nếp rừng. Mới biết sức gợi tả của các địa danh thôi cũng đã có thể làm lay động trí tưởng tượng của người đọc.

Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến của Quang Dũng còn vô cùng đặc sắc bởi nó được tạo nên từ một thứ ngôn ngữ rất giàu tính tạo hình. Mô tả thiên nhiên mà ta như thấy những bước chân quả cảm của đoàn binh Tây Tiến đang đạp bằng mọi gian khổ mà thiên nhiên thử thách, mọi hiểm trở mà thiên nhiên đe dọa. Ta không chỉ thấy một Sài Khao sương lấp, một Mường Lát hoa về trong đêm hơi mà còn thấy cả những chặng đường khúc khuỷu, cheo leo

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi "

Đó là hình ảnh trập trùng dốc đứng đèo cao như dựng lên trước mắt đoàn binh Tây Tiến. Những thanh trắc tiếp nối nhau tạo cảm giác về sự gập ghềnh khúc khuỷu. Điệp từ "dốc" như mở ra trước mắt người đọc hình ảnh những con dốc tiếp nối nhau lên tới người. Nhịp của câu thơ càng làm tăng thêm nỗi vất vả của người lính bởi nó như tiếng thở hối hả, giục giã, gấp gáp. Đó là nhịp điệu:

Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm

Đó là một nhịp điệu ít thấy trong câu thơ 7 chữ cổ điển: 2/2/1/2. Hơn nữa nhà thơ còn sử dụng liên tiếp những từ láy gợi hình, những từ láy mà tự nó đã có giá trị biểu hiện như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", tiếp đó là "heo hút".

Tuy nhiên cần phải thấy thơ Quang Dũng có một đặc điểm rất nổi bật, bao trùm, đó là những hình ảnh tương phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc. Cho nên những "dốc lên", "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" đã trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên đối với con người. Vì sau tất cả những thử thách ấy, ta bỗng bắt gặp một cảm xúc đầy kiêu hãnh của người lính. Người lính đã bất chấp mọi thử thách để vươn tới một tầm cao +++g lộng giữa đỉnh trời. Quang Dũng đã tạo nên một hình ảnh hết sức bất ngờ từ sự tương phản này, hình ảnh "súng ngửi trời". Từ hình ảnh ấy, người lính hiện ra rất thực, thực với những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức Hà Nội. Đó là hình ảnh được hiện ra từ cái nhìn của những người lính trẻ thông minh mà tinh nghịch, những người lính đã vượt qua muôn trùng dốc để vươn tới tận trời, để súng ngửi trời. Không phải là những người lính như người lính trong đoàn binh Tây Tiến khó có thể liên tưởng từ "mũi súng" đến "súng ngửi trời"

Thời đại đã đem đến cho Quang Dũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà còn là hình tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người lính như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta nhớ tới hình ảnh người chiến sĩ vệ quốc trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão:

"Hoành sóc giang san cáp kỉ thu"

Hình tượng người anh hùng vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông hoặc người lính trong câu thơ của Tố Hữu.

"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo"

(Lên Tây Bắc)

Song ở câu thơ của Quang Dũng, người lính thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng. Thiên nhiên có lúc vụt hiện ra từ những câu thơ giàu giá trị tượng hình, một đỉnh cao nghìn thước. Đó là câu thơ:

"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"

Không ít người yêu thích câu thơ này bởi sự ngắt nhịp giữa dòng đã bẻ gập câu thơ , tạo nên cái đỉnh cao nghìn thước kia. Nhưng thực ra, cái độ cao nghìn thước ấy được tạo nên từ chính cấu trúc ngữ nghĩa của câu thơ. Nhà thơ đã tạo nên cái tương phản giữa nghìn thước lên và nghìn thước xuống để đứng giữa câu thơ là cái ngất trời của một chữ "cao". Chính cấu trúc ngữ nghĩa ấy đã tạo nên đỉnh cao nghìn thước giữa câu thơ. Chẳng những thế, câu thơ với chữ "lên", "xuống" còn gợi ra hình ảnh trập trùng của đoàn binh Tây Tiến đang vượt dốc cao vực thẳm. Mô tả thiên nhiên, Quang Dũng chỉ nhấn mạnh sự dữ dội hiểm trở của nó mà còn gợi ra hình ảnh hết sức thơ mộng. Bên cạnh cái hiểm trở của đỉnh cao nghìn thước, của con thác gầm thét, của Mường Hịch cọp trêu người còn có khung cảnh của Lũng Sa

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Một câu thơ toàn thanh bằng gợi nên cái mênh mông xa vời, chơi vơi. Sự tương phản về thanh điệu tự nó cũng đã gợi ra cái trập trùng của núi non nhưng đặc sắc hơn còn là chất lãng mạn gợi ra từ một khung cảnh thiên nhiên như vậy. Phải là người lính đầy chất thơ trong tâm hồn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy sau khi đã vượt dốc, qua cồn mây, đạp bằng đỉnh cao nghìn thước.

Nói đến thiên nhiên trong Tây Tiến, không thể không nói tới một thiên nhiên hùng vĩ như một cái nền làm nổi bật tầm vóc của con người ở những câu thơ này. Quang Dũng đã mô tả thiên nhiên để mô tả con người. Quang Dũng đã mô tả thiên nhiên bằng cả hình, cả âm, cả nhịp điệu và đặc biệt là bằng cảm hứng lãng mạn để sự hiểm trở của thiên nhiên chỉ càng khơi gợi cảm hứng chinh phục của con người. Đó là cảm hứng không phải không có sự ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn như "Nhớ rừng" của Thế Lữ, sự ảnh hưởng từ câu thơ:

"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"

Đến câu thơ:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét"

Cảm hứng lãng mạn ở Tây Tiến còn là sự ảnh hưởng từ hồn thơ lãng mạn của Lý Bạch bởi những câu thơ "Dốc lên ... ngửi trời" đã gợi ta nhớ đến "Thục Đạo Nan" của Lý Bạch

"Thục đạo nan, thục đạo chi nan
Nan ư thướng thanh thiên"

Đọc câu thơ:

"Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

Ta lại nhớ đến "Thục đạo nan" với câu thơ:

"Triêu tỵ trường xà - Tịch tỵ mãnh hổ"

Con đường Tây Tiến có khác gì con đường vào "Thục" xưa trong câu thơ của Lý Bạch. Chính Quang Dũng cũng nói về sự ảnh hưởng này trong các câu thơ của ông.

Với 14 dòng thơ mở đầu, tuy hình ảnh người lính chỉ thấp thoáng ẩn hiện giữa thiên nhiên qua ống kính quay cận cảnh của Quang Dũng nhưng đoạn thơ vẫn khắc họa những vẻ đẹp hết sức đặc sắc từ ý chí, nghị lực đến khí phách, tâm hồn của đoàn binh Tây Tiến. Hình tượng người lính ở đây cũng mang màu sắc được hoà trộn từ cảm hứng hiện thực cho đến cảm hứng lãng mạn, một sự hòa trộn mang tính đặc trưng của thơ Quang Dũng. Hiện thực và lãng mạn luôn nâng đỡ lẫn nhau trong các câu thơ trong từng hình ảnh.

Đó là hình ảnh người lính hiện ra như một đoàn quân mỏi nhưng cũng lại là người lính tâm hồn tràn đầy chất thơ nên giữa bao nhiêu mỏi mệt vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng, vẻ đẹp của một "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Người lính như thả hồn vào cõi mộng của đêm hơi giữa núi rừng, tận hưởng hương thơm của hoa rừng. Nếu cảm nhận câu thơ "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" như một sự cách điệu hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với những bó đuốc trên tay, hành quân qua Mường Lát như một ai đó đã nói thì sẽ không thể hiểu được ý tưởng của nhà thơ muốn làm nổi bật cái tinh tế, cái thi vị, chất thơ như một vẻ đẹp trong tâm hồn người lính.

Đó còn là hình ảnh những người lính vượt muôn trùng dốc với bao nhiêu vất vả bởi những "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" nhưng đột nhiên lại xuất hiện ở tầm cao đỉnh trời trong tiếng cười lạc quan với chi tiết "súng ngửi trời". Ta như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi mệt nhọc gian nan, rũ sạch cả bụi trường chinh trên tấm áo người chiến sĩ. Quả thực như đã nói, cho đến "Tây Tiến", chưa ở đâu trong văn học nước ta, người lính vệ quốc, anh bộ đội cụ Hồ được đặt ở một tầm cao như vậy. Đó là hình ảnh người lính vượt những đỉnh cao nghìn thước không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mà còn là đỉnh cao của những khó khăn, thử thách nhưng tâm hồn vẫn thảnh thơi, vẫn mơ mộng khi để lòng trải ra mênh mông giữa khung cảnh

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Đó còn là hình ảnh về sự hy sinh lặng lẽ mà rất anh hùng của những người lính Tây Tiến dọc theo chặng đường hành quân. Thương nhớ vô cùng trong 2 chữ "anh bạn" mà nhà thơ đã nói về đồng đội của mình bởi đó là những người bạn đã nằm lại dọc đường hành quân. Nhưng Quang Dũng không biến nỗi đau ấy thành sự bi luỵ khi nhà thơ viết về sự hy sinh của những người bạn như viết về giấc ngủ của họ. "Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời", nhưng tinh thần của họ lại vút lên cùng sông núi . Họ coi cái chết nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ nhưng sông núi lại để niềm nhớ thương và kiêu hãnh hoá thân thành những ngọn thác để chiều chiều oai linh gầm thét, vừa thể hiện nỗi đau xé lòng lại vừa thể hiện khúc tráng ca muôn đời của sông núi hát về sự hy sinh của họ.

Thủ pháp tương phản được sử dụng một cách triệt để để làm vút lên vẻ đẹp tâm hồn hết sức hào hoa của người lính, để dựng lên hình ảnh những người lính dẫu sống giữa một vùng đất hoang sơ đầy bí hiểm, nơi cọp còn trêu người, nhưng tâm hồn họ vẫn ngời lên một vẻ đẹp phong nhã, hào hoa trong câu thơ:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "

Bao nhiêu lãng mạn gửi vào những chữ "nhớ ôi Tây Tiến...", "Mai Châu mùa em ...". Đó là những chữ đã để lại trong tâm hồn người lính những vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp mang đậm tình người với "cơm lên khói" và "mùa em thơm nếp xôi". Lòng người Tây Tiến nhớ mãi "mùa em", mùa những người lính Tây Tiến gặp em giữa khung cảnh hạnh phúc của xóm làng. Hương nếp xôi cũng từ mùa em mà thơm mãi trong tâm hồn người lính.

Dẫu 14 dòng thơ mở đầu chủ yếu là khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm trở thì cũng phải thấy Quang Dũng muốn từ thiên nhiên ấy mà làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Đây là câu thơ có sức tạo hình hết sức độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng nghệ thuật vừa bám sát hiện thực lại có sự bay bổng trong sức tưởng tượng của người đọc bởi chất lãng mạn ấy của hồn thơ Quang Dũng.

Bài văn mẫu số 4

Quang Dũng là nhà thơ lãng mạn, tài hoa. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc... Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt - Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa xôi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc... Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh , dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ — chiến sĩ.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát, của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

“Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” luôn có những tiếng gầm thét, những âm thanh ấy khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời...

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi lụy, thảm thương.

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết, như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình, như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

“Nhớ ôi!” là tình cảm dạt dào, là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản Mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, có hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài Tiếng hát con tàu.

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
...
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài Tây Tiến, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là ở sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẫn giữ được giá trị của mình.

Bài văn mẫu số 5

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn la, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa (Lào) - là những nơi hiểm trở, hoang vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.

Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn chiến đấu cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ "Mây đầu ô" (xuất bản 1986). Ban đầu bài thơ có tên là "Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển lại thành "Tây Tiến". Nhan đề "Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.

"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng đường hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiên ra.

Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi. Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là: "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi". Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ "nhớ". "Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.

Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.

Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến. Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh " hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời,

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh "súng ngửi trời" là một nhân hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối "ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống" càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.

Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất mát hi sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh "gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt Nam": "Và anh chết trong khi đang đứng bắn - Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" kết hợp với biện pháp nhân hóa "thác gầm thét", "cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian. Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán "Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ "mùa em" rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.

Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến - một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.

Xem thêm các bài văn mẫu hay, chi tiết khác:

TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT

TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay

TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT

TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT

TOP 10 Bài văn Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (2024) HAY NHẤT

 

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!