Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc
Đề bài: Hãy giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc.
Một số bài văn mẫu Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc
Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 1)
Chào thầy/cô và các bạn. Mình tên là Nguyễn Văn A, hôm nay mình xin được phép giới thiệu một tác phẩm kịch Lời thề thứ 9 của Lưu Quang Vũ.
Trong 10 lời thề của Quân đội nhân dân Việt Nam, lời thề thứ 9 chính là: "Kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân", "Không lấy của dân, không quấy nhiễu dân, không dọa nạt dân". Dựa trên lời thề này, Lưu Quang Vũ đã sáng tác ra vở kịch "Lời thề thứ 9". Tác phẩm kể về Đôn và Xuyên - hai anh bộ đội trong một lần làm nhiệm vụ đã gặp một ông chú, nghi là buôn lậu nên tịch thu túi xách của ông chú này. Sau đó, khi trở về, hai người mới biết đó là bố của Hiến - bạn thân hai người. Bố Hiến chính là Chủ tịch Tỉnh đương nhiệm, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn. Trong lúc này, ở quê nhà, bố Xuyên bị Chủ tịch Xã ức hiếp, bắt giam trong hầm tối. Mẹ Xuyên đi kêu oan khắp nơi không được. Ba người Đôn, Xuyên, Hiến quyết định dùng số tiền tịch thu được từ bố Hiến để về quê giúp đỡ gia đình Xuyên. Mọi chuyện vỡ lở, trung đoàn quyết định truy nã ba anh lính về chịu kỉ luật. Vở kịch kết thúc khi Trung đoàn trưởng, bố Hiến, mẹ Xuyên và mọi người gọi họ trở về, tất cả mọi người nhận ra lỗi lầm của mình.
Các diễn viên trong đoàn kịch đã thể hiện cực kì tròn vai. Đôn có tính cách tếu táo, hay ca cải lương nhưng trong chiến đấu cực kì anh dũng, dám đánh giáp la cà với địch và lưu lại vết sẹo trên mặt. Xuyên hiền lành, yêu thương gia đình nhưng cũng rất dũng cảm, đã lấy thân mình che chắn để cứu Hiến trong một trận đánh. Hiến là cậu con trai của Chủ tịch Tỉnh, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn với tính cách cương trực, thẳng thắn, luôn chiến đấu hết mình. Điểm sáng của vở kịch nằm ở diễn xuất của hai diễn viên NSƯT Đức Khuê trong vai bố Hiến - Chủ tịch Tỉnh và NSƯT Lê Khanh trong vai mẹ Xuyên. NSƯT Đức Khuê rất ra dáng một vị thủ trưởng cũ, hơi cứng nhắc, bảo thủ, hay phê bình mọi người và không nhận ra lỗi sai của mình. Cô Lê Khanh cũng toát lên mình dáng vẻ của một bà mẹ bộ đội lam lũ, kiên cường, giàu lòng yêu thương và nhân hậu. Từ cách hóa trang, dáng đi, điệu bộ cử chỉ, nhất là trong những lời thoại đầy triết lí đều cho người xem thấy rõ điều đó.
Xung đột kịch là sự xung đột giữa bộ đội và người dân, giữa nhân dân và chính quyền. Khi những người lính đang chiến đấu bảo vệ đất nước thì chính gia đình họ lại bị ức hiếp. Đau đớn, mất niềm tin, họ phải thốt lên rằng: "Thế mà bảo nhân dân ta anh hùng, đất nước ta tươi đẹp", "Không, đất nước không đẹp, nhân dân cũng không anh hùng. Nhân dân nhát... Nhân dân thế này, quê hương đất nước thế này, chúng con không tha thiết giữ đâu. Đấy, ai có giỏi thì lên biên giới mà đánh giặc.". Những suy nghĩ đó đã được mẹ Xuyên gỡ rối trong phân cảnh cuối: "Khó mấy rồi cũng xong, rối mấy rồi cũng sẽ gỡ ra, nhưng hễ động một tí chúng mày về thì bỏ nước cho ai?". Ngoài ra, nhân vật này cũng có những câu nói giàu tính hiện thực. Khi bị Chánh văn phòng Tỉnh hỏi "Nếu lên Trung ương không kiện được, bà định lên giời à", người mẹ này đã trả lời "Vâng, nếu như lên được. Nhưng khốn nỗi, không có giời. Xưa thì còn đổ lỗi cho giời được, nhưng nay biết rằng chỉ toàn con người thôi.". Câu nói vang lên vừa đanh thép, vừa thể hiện sự chua chát, đắng cay về hiện thực đáng buồn của xã hội. Từ xung đột ấy, tác giả muốn đặt ra câu hỏi cho mọi người, nhất là cho những người nắm quyền: Vậy ai phải là người chịu trách nhiệm cho câu chuyện này, khi mà quân và dân không còn chung một lòng, chính quyền thờ ơ, vô cảm với nỗi oan của nhân dân?
Rất nhiều vấn đề đã được đặt ra trong "Lời thề thứ 9". Những điều đó đều mang tính thời đại mà đến ngày nay, chúng ta vẫn còn phải suy ngẫm rất nhiều. Chính bởi vì nội dung của vở kịch đã quá đặc sắc nên phần âm nhạc, phối cảnh sân khấu cũng không cần cầu kì. Những chiếc thùng gỗ được phủ vải xanh quân đội cùng hàng cây chằng chịt cho người đọc biết đấy là khung cảnh chiến trường. Hay bàn làm việc của ông Chủ tịch Xã có chiếc điện thoại mới, chiếc đồng hồ xịn to oành nhưng chẳng có mấy công văn giấy tờ đã cho ta biết đây là người như thế nào. Hay như khi mới gặp mẹ Xuyên, Chủ tịch Tỉnh vẫn ung dung ngồi trên ghế, chỉ đến khi nghe lời bà bộc bạch, ông mới đứng dậy, thể hiện thái độ tôn trọng.
Tuy đã có tuổi đời đến 35 năm nhưng những vấn đề mà vở kịch nói đến vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tính thời đại tác phẩm mang lại cũng chính là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo của Lưu Quang Vũ.
Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 2)
Các bạn thân mến! Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài hoa trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Kịch Lưu Quang Vũ được đánh giá là thành công nhất của ông, cũng làm nên tên tuổi của ông trong nền văn học đương đại. Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những vở kịch tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Lưu Quang Vũ. Đoạn trích: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là cảnh VII và đoạn kết của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Đoạn trích đã đặt ra vấn đề quan trọng giữa một việc sống hài hoà, trọn vẹn cả thể xác lẫn tinh thần của con người trong cuộc sống.
Đoạn trích “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” tập trung kể về cuộc đời của chàng Trương Ba, là một người có tài đánh cờ xuất chúng nhưng không may chết oan do sự nhầm lẫn của Nam Tào. Nhằm chuộc lại lỗi lầm của mình Nam Tào và Đế Thích đã cho Trương Ba sống lại nhưng trong một thể xác của người khác. Ban đầu mọi thứ có vẻ thuận lợi khi Trương Ba được sống lại trên trần thế, nhưng dần dần mọi thứ lại trở nên khó khăn, rắc rối vì thể xác và tâm hồn của Trương Ba không hòa nhập với nhau. Trương Ba vốn là một người có học thức còn anh bán thịt lại là người thô lỗ, phàm tục, điều này đã dẫn đến những mâu thuẫn, sự xô xát không thể tránh khỏi giữa phần xác và phần hồn. Những đòi hỏi vô lý của người vợ, sự xa lạ của gia đình và những người thân yêu… tất cả đã đẩy chàng Trương Ba vào bi kịch mới: sống còn đau khổ hơn cả cái chết. Với nội dung như vậy đoạn trích đặt ra rất nhiều vấn đề quan trọng giữa sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, về ý nghĩa cuộc sống của con người, về khái niệm sống toàn vẹn.
Đế Thích và Nam Tào tượng trưng cho khuôn phép, luật pháp của xã hội. Đế Thích cho rằng không ai có thể sống toàn vẹn, mỗi người đều phải tuân thủ những quy tắc và những khuôn khổ của xã hội. Nhưng Trương Ba lại khác ông không hề chấp nhận điều này, ông tin rằng con người cần phải được sống trọn vẹn cả phần hồn lẫn phải xác. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi tâm hồn và thể xác hòa nhập thành một khối thống nhất. Nếu sống tầm gửi, sống bám vào thân xác của người khác thì thật tẻ nhạt, buồn chán, như vậy con người cũng sẽ đánh mất chính mình. Bởi thế ông đã từ chối được sống tiếp, chấp nhận cái chết để bảo toàn danh dự, giá trị của bản thân. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích xoay quanh những quan niệm của con người về giá trị đích thực của cuộc sống, về thế nào là sống toàn vẹn, những lời khẳng định mạnh mẽ của Trương Ba… đánh dấu cuộc đấu tranh của con người để chống lại những ràng buộc, định kiến của xã hội. Thể hiện khát khao khẳng định cái tôi của mình.
Linh hồn của đoạn trích này là Trương Ba, một nhân vật đã được tác giả tập trung khai thác. Trương Ba mang những nét tính cách điển hình, là tượng trưng cho một bộ phận con người trong xã hội. Họ biết sống với đúng giá trị của mình, quyết không thỏa hiệp, nhượng bộ mà đánh mất đi bản sắc của mình. Dẫu có phải chết thì vẫn kiên định với chính kiến, quan điểm của mình.
Với cách xây dựng tình huống độc đáo, tính kịch được đẩy lên cao trào, xoáy sâu vào các xung đột giữa các nhân vật trong kịch, cách dẫn dắt mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn kịch hợp lý. Đoạn trích: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” có cốt truyện hoàn toàn mang tính tưởng tượng, hư cấu. Kết thúc nhân vật mang tính chất bi kịch thường thấy song hoàn toàn là sự giải thoát phù hợp với tư tưởng, hành động trước đó của nhân vật.
Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 3)
Các bạn thân mến! Nguyễn Huy Tưởng, một cây bút sáng tác văn học thiên về những đề tài lịch sử, thể hiện nguồn kiến thức rộng lớn về con người và xã hội. Kịch “Vũ Như Tô” là một trong những hòn ngọc sáng chói trong sự nghiệp văn chương của ông. Trong đó, đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” được trích từ hồi thứ V của tác phẩm. Với cách xây dựng tầng lớp mâu thuẫn hợp lý, tác giả đã liên kết câu chuyện không chỉ khéo léo mà còn đẩy mạch truyện lên đỉnh cao, tạo tình huống hấp dẫn đến người đọc.
Có ý kiến cho rằng, “Vũ Như Tô” không chỉ là một vở kịch đơn thuần mà là kịch lịch sử, lấy cốt lõi từ một sự kiện có thật, viết về sự kiện trong khoảng thời gian năm 1516 – 1517 dưới triều vua Lê Tương Dực, vị vua thứ chín của thời Hậu Lê. Tác phẩm được hoàn thiện vào mùa hè năm 1941. Lấy bối cảnh một sự kiện diễn ra tại thành Thăng Long, khi mâu thuẫn giữa nhân dân và triều đình vô cùng căng thẳng thì Vũ Như Tô – một kiến trúc sư đại tài lại xây dựng Đài Cửu Trùng, công trình rất đồ sộ và tốn kém.
Đứng trước áp lực dư luận và sự nổi loạn đòi đốt Đài của nhân dân, Vũ Như Tô bất lực và đau đớn nhìn đứa con tinh thần của mình bị thiêu rụi. Mâu thuẫn trong vở kịch được xây dựng giữa phe nổi loạn với phe vua Lê Tương Dực, giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ, nổi bật nhất là những mâu thuẫn nội tâm của Vũ Như Tô.
Chính sự triều đình lúc bấy giờ rơi vào cảnh nhiễu nhương, các phe nổi loạn thi nhau giành giật ngôi vị. Phe nổi loạn gồm hầu hết những tầng lớp trong xã hội, từ dân chúng đến thợ xây dựng Cửu Trùng Đài. Nhân dân lao động mâu thuẫn với tên vua bạo chúa Lê Tương Dực suốt ngày chỉ ăn chơi sa đọa. Đây là mâu thuẫn giai cấp cơ bản của chế độ phong kiến đương thời. Mâu thuẫn này đã tồn tại từ trước đó, cho đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng.
Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình đã tăng sưu thuế, bắt thợ giỏi, hành hạ những người chống đối. Chính sách của vua khiến dân cùng nước kiệt, nhân dân thợ thuyền từ đó sinh ra căm ghét cả Vũ Như Tô vì ông chính là kiến trúc sư xây dựng Cửu Trùng Đài. Các nhân vật nổi loạn này chỉ xuất hiện qua lời kể của nhân vật Đan Thiềm, nhưng chính mâu thuẫn này đã gây ra hậu hỏa kinh hoàng cho triều đình.
Mâu thuẫn trong kịch Vũ Như Tô còn bắt nguồn từ phe nội phản trong triều đình. Phe cánh đứng đầu là Trịnh Duy Sản, sau Trịnh Duy Sản là Ngô Hạch, An Hòa Hầu nhân dịp thợ thuyền dân chúng chống đối. Trịnh Duy Sản cầm đầu phe đối nghịch dấy binh nổi loạn, lôi kéo người làm phản, giết Vũ Như Tô, Lê Tương Dực, Đan Thiềm, tiêu diệt Cửu Trùng Đài. Mâu thuẫn này đã đẩy đoạn trích lên đến cao trào.
Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực, giải quyết mâu thuẫn đồng thời làm mâu thuẫn tăng lên. Ngoài ra, còn có mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ trong triều đình. Đối với Trịnh Duy Sản, Kim Phượng và các cung nữ là con rối của vua Lê Tương Dực. Kim Phượng và các cung nữ vì thế mà tìm cách đổ lỗi, căm ghét Đan Thiềm, Vũ Như Tô để mong được phe nổi loạn bỏ qua.
Nổi bật nhất trong tác phẩm là mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và nhân dân lao động, đồng thời là mâu thuẫn trong chính suy nghĩ của nhân vật Vũ Như Tô. Một bên là nhân dân với tầm nhìn thực tế, lợi ích nhất thời, thiết thực, một bên là người nghệ sĩ, người yêu cái đẹp Vũ Như Tô với quan điểm nghệ thuật siêu thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật.
Người nghệ sĩ thiên tài với nhiều hoài bão, tâm huyết nhưng không thể thi thố tài năng của mình để đem lại cái đẹp cho đời, mang tới niềm tự hào cho dân tộc khi cả xã hội, cả chế độ đã quá thối nát, mục ruỗng. Nhân dân phải sống cơ cực, lầm than trong khi nhà vua lại sa đọa, rượu chè bê tha. Hoàn cảnh đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát vọng sáng tạo của mình.
Nghe theo lời khuyên của cô cung nữ Đan Thiềm, một người cũng “mắc bệnh” yêu cái đẹp giống ông để mượn uy quyền, tiền bạc của Lê Tương Dực nhằm xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô không ý thức được hậu quả khôn lường xuất phát từ phía đại chúng. Trớ trêu thay, chính niềm khát khao cống hiến tài năng của mình để đem lại vinh quang cho đất nước đã đẩy ông vào trạng thái đối nghịch với lợi ích trực tiếp, thiết thực của người dân. Cho nên, mặc dù vốn gần gũi, yêu thương và quý trọng nhân dân nhưng Vũ Như Tô lại bị dân coi như kẻ thù.
Sự đối lập trong tâm trạng của Vũ Như Tô bắt nguồn từ chính những người dân và thợ thuyền. Họ phải sống một cuộc đời đói khổ, bị bóc lột, hành hạ và áp bức nên sự oán giận nhà vua cũng như kẻ xây dựng công trình kia là điều dễ hiểu. Với họ, Vũ Như Tô và Đan Thiềm chính là nguồn cơn của sự đau khổ khi đòi xây dựng Cửu Trùng Đài.
Trong khi đó, kiến trúc sư lại chỉ say sưa với tác phẩm nghệ thuật của mình, mong để lại cho đời sau một di tích lịch sử văn hóa mà quên mất thực tế nhân dân. Đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Cửu trùng Đài bị thiêu rụi, Vũ Như Tô vẫn không khỏi bàng hoàng, vẫn nghĩ mình vô tội, thậm chí còn muốn thuyết phục An Hòa Hầu, một lòng sống chết bảo vệ công trình dang dở. Một người nghệ sĩ nhân cách cao cả, lý tưởng đẹp đẽ, tôn sùng nghệ thuật chân chính và muốn để lại cho nhân dân, cho hậu duệ bức tượng đài kiến trúc.
Một nhân vật bi kịch khi thoát li khỏi thực tế, đưa cái nghệ thuật lên quá mức cho phép mà không nhìn lại cuộc sống đói khổ của nhân dân. Đến phút cuối, khi quần chúng nổi dậy đòi giết mình, đốt đài, người nghệ sĩ vẫn không nghĩ việc xây dựng Cửu Trùng Đài là gây tội ác, vẫn khăng khăng tin mình quang minh chính đại. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ đại tài, họa chăng chỉ là không sinh ra đúng thời đại mà thôi.
Kịch nghệ thú vị ở chính những mâu thuẫn đối lập mà nó mang lại, ở đây, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng nghệ thuật trọn vẹn và đặc sắc. Ngôn từ điêu luyện, khắc họa tính cách và diễn biến tâm trạng nhân vật để đẩy cao những mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật, dẫn dắt vở kịch đến nút thắt và nút mở hợp lý. Mâu thuẫn được giải quyết tuy không triệt để nhưng lại là lối thoát duy nhất cho tầng lớp mâu thuẫn chồng chất.
Đọc kịch của Nguyễn Huy Tưởng, ta không hoàn toàn có khái niệm chiêm nghiệm văn chương mà còn là phân tích lịch sử, đặt tình huống và thực tế đương thời để thấu hiểu và tri âm với tác giả.
Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ Văn 11 - Cánh diều hay khác:
Em tâm đắc nhất với triết lí nhân sinh nào trong trích đoạn Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
Phân tích Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
Mong muốn về sự chấm dứt một tình trạng xấu / tiêu cực nào đó đang xảy ra với quê hương, đất nước
Bình luận về một bài học mà em rút ra được sau khi học truyện Chữ người tử tù
Hiện tượng học sinh dùng tiếng nước ngoài trong giao tiếp hằng ngày của giới trẻ Việt Nam hiện nay