Đề bài: Đóng vai nhân vật ông hai kể lại chuyện làng.
Dàn ý: Đóng vai nhân vật ông hai kể lại chuyện làng.
Dàn ý 1
I. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bản thân: mọi người thường gọi tôi là ông Hai, tôi ở cái làng chợ Dầu từ lúc sinh ra.
II. Thân bài
- Kể lại tâm trạng của bản thân khi ở nơi tản cư: nhớ làng, phấn chấn khi ở phòng thông tin bước ra.
- Kể lại tâm trạng của bản thân từ khi nghe được tin dữ: làng Chợ Dầu là Việt gian (Miêu tả nội tâm, đối thoại, độc thoại, nghị luận...)
- Kể lại tâm trạng của bản thân khi nghe được tin cải chính.
III. Kết bài: Khẳng định lại tình cảm của ông Hai đối với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ.
Dàn ý 2
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về bản thân (nhân vật ông Hai):
- Tên thường gọi: ông Hai
- Nơi ở: làng Chợ Dầu
2. Thân bài
* Khái quát bối cảnh:
- Hai vợ chồng cùng ba đứa con đang trú tại nơi tản cư
- Buổi trưa trong giờ nghỉ ngơi lại nghĩ về làng
* Kể lại tâm trạng nhớ làng khi ở nơi tản cư:
- Nhớ lại bản thân hồi còn trẻ làm việc cùng anh em
- Đi đến phòng thông tin nghe đọc báo
- Cuộc nói chuyện với người dân tản cư mới đến
* Diễn biến tâm trạng khi nghe tin làng theo giặc:
- Bất ngờ, đau đớn, tủi hổ
- Yêu làng bao nhiêu thì nay đau bấy nhiêu, xót xa cho những đứa con thơ
- Kiểm điểm từng người, không tin làng mình là Việt gian
* Tâm trạng sau khi nghe tin cải chính:
- Vui sướng, hân hoan, đường hoàng đi khoe Tây đốt nhà mình
- Niềm tự hào về ngôi làng, bảo vệ danh dự cho làng Chợ Dầu
3. Kết bài
- Bày tỏ tình cảm với làng, với kháng chiến, với quê hương và đất nước
Dàn ý 3
Diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai:+ Khi nghe tin làng mình theo giặc:- Lúc mới nghe tin: cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như không thở được, giọng lạc hẳn đi, cúi gằm mặt xuống mà đi.
- Hành động: về đến nhà nằm vật ra giường, nước, mắt ông lão giàn ra, ông nắm chặt tay mà rít lên: cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này... ông Hai trằn trọc không sao ngủ được, lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, trông ngực ông đập thình thịch khi nghe tiếng nói của mụ chủ nhà...
- Tâm trạng và hành động của ông Hai thể hiện sự đau đớn, tủi hổ đến cùng cực và nhiều cung bậc trạng thái khác nhau khi nghe tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc.
- Qua đó thể hiện tấm lòng yêu làng tha thiết của ông Hai, tình yêu ấy thiêng liêng, sâu nặng biết bao nhiêu. Tình yêu quê hương làng xóm gắn bó với tình yêu Tổ quốc.
- Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy mua quà chia cho con, lật đật đi qua nhà bác Thứ, rồi qua hết nhà này đến nhà khác, múa tay cả lên mà khoe về sai sự mục đích của những tin đồn về cái nhà của ông bị giặc đốt trụi và làng Chợ Dầu của ông không theo giặc.
- Ý nghĩa: Đó là sự thay đổi lớn trong tâm trạng, hành động. Trước đây ông Hai buồn đau khổ biết bao nhiêu giờ đây ông vui và sung sướng bấy nhiêu. Có lẽ không ai nói về ngôi nhà của mình bị cháy mà hả hê vui vẻ như ông Hai, vì ngôi nhà của ông bị cháy là bằng chứng của làng Chợ Dầu không theo giặc, “từ ngôi nhà của ông bị cháy danh dự của làng Chợ Dầu đã được hồi sinh”. Tình yêu làng, niềm tự hào về làng được đặt lên trên hết.
Một số bài văn mẫu: Đóng vai nhân vật ông hai kể lại chuyện làng.
Đoạn văn mẫu số 1
Ôi cái làng Dầu của tôi! Vẫn cái phong vị ngọt ngào của lúa non đồng nội. Vẫn con đường gạch đá xanh rơn. Bầu trời cao thẳm, rộng bao la, vương chút nắng xuống mái đình cổ kính. Tôi đã yêu và yêu biết nhường nào cái mảnh đất này, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Bọn giặc đáng khinh kia đã tàn nơi đây. Làng Dầu không còn như ngày tôi phải rời làng đi tản cư nữa. Nhưng giờ trở lại, lòng tôi vẫn thế, vẫn vẹn nguyên không hề thay đổi. Trong tôi có cái gì nao nao rất lạ. Một cảm giác nhớ nhớ, xen một chút thương, pha đôi sự tự hào. Tôi như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Hạnh phúc vì thực sự cái đau khổ của một ngày xa xôi kia chỉ còn là hồi ức, hồi ức không đẹp nhưng lại làm cho con người ta nhớ mãi chẳng thể quên.
Đó là một ngày nắng. Cũng cách đây mấy năm rồi. Và tôi thì cũng không còn nhớ rõ cho lắm.
Trưa ấy, trời nắng ghê lắm. Nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa. Nắng như muốn thiêu rụi cả con người. Có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Tiếng lũ ve thì ngân mãi không thôi, não lòng. Xong việc, tôi có cả một khoảng thời gian mà nằm nghĩ vẩn vơ. Và thế là tôi nhớ về cái làng Dầu của tôi, nhớ ghê gớm.
Tôi ngóng đứa con gái lớn từng lúc một. Mong nó về nhanh nhanh để trông nhà trông cửa, để tôi còn được làm cái việc mà tôi vẫn làm. Một lúc sau, nó về. Tôi dặn dò con vài câu rồi bước vội ra ngoài. Đường vắng hẳn người qua lại. Trời lồng lộng gió nhưng vẫn không đủ để thổi đi cái nắng nóng của mùa hè. Nắng thế này thì bỏ mẹ chúng nó. Tôi nghĩ rồi nói lớn. Có người đi ngang qua, bỡ ngỡ hỏi lại:
- Chúng nó nào?
- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi vị trí giờ bằng ngồi tù.
Nói rồi tôi bước thẳng. Cũng như thường lệ, tôi ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự. Biết bao là tin hay. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Vui quá! Nhưng dường như hạnh phúc của con người thật là bé nhỏ. Ngờ đâu cái vui vẻ ấy chỉ là một ngày lặng gió trước khi giông tố nổi lên. Bước ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua quán nước ngồi. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một người đàn bà nói bọn Tây nó vào làng Chợ Dầu, nó khủng bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó... Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!
Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm giận. Nó như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như đến không thở được. Khóe mắt cứ giật giật, các dây thần kinh như tê liệt. Một lúc lâu sau, tôi mới rặn è è, nuốt cái gì vương vướng ở cổ, hỏi lại, giọng lạc hẳn đi:
- Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ...
- Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại...
Tôi chưa dứt lời thì người ta đã nói. Dứt khoát. Chắc như đinh đóng cột. Tôi đờ người. Hai tai ù ù. Chẳng còn nghe thấy gì cả. Giọng người kia như lẫn vào trong gió. Tôi trả tiền nước, lảo đảo đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng:
- Hà, nắng gớm, về nào...
Tôi nói với mình mà như chẳng nói với ai. Tôi tự trấn an mình. Lảng ra một chỗ rồi bước hẳn, không dám quay đầu lại nhìn. Tôi cúi gằm mặt xuống mà đi, như mình vừa làm điều gì đó tội lỗi lắm. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường. Tay chân như nhũn hẳn ra, không còn sức. Tôi thở dốc. Mấy đứa nhỏ len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con, chẳng hiểu sao nước mắt tôi cứ dàn ra. Mắt mờ đi, nhạt nhòa. Mấy đứa nhở... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu... Tôi nắm chặt hai tay, móng đâm vào da thịt, đau nhói. Tôi rít lên như một con thú bị thương, đau đớn đến tột cùng:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
Tôi bỗng ngừng lại, ngờ ngợ. Tôi nhớ lại từng người. Họ toàn những người có tinh thần cả mà. Họ quyết không chịu đi để ở lại giữ làng, định bụng một phen sống mái với lũ chúng nó. Có đời nào họ chịu nhục nhã mà đi làm cái điều kinh khủng ấy!... Nhưng không! Không có lửa thì làm sao có khói? Ai người ta đi đặt điều vu oan cho mà làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Cả làng Việt gian! Rồi đây biết sống ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy?... Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi. Mọi thứ rối tung lên, như tơ vò, một mớ bòng bong. Gỡ thế nào cũng không ra được. Thôi thì cắt đi cho nhẹ nợ. Bụng bảo dạ, tôi cố nhét cho sâu cái chuyện đó vào sâu trong bộ não. Nhưng dường như vợ tôi cũng biết chuyện đó rồi. Chiều về, bà ấy uể oải, cái mặt nặng như đeo chì. Mãi khuya, bà ấy mới dám lôi chuyện ấy ra. Vừa nói, hỏa khí trong tôi đã bùng lên. Thế là im bặt, nhẫn nhục.
Đêm xuống yên ắng đến lạ. Đêm đen như mực, như chỉ trực đợi tôi nhắm mắt là sẽ ôm trọn tâm hồn tôi. Tôi vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt lặng hẳn đi, tôi nghe có tiếng léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ... Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực tôi đập thình thịch. Nín thở, ruột gan như sôi lên, tôi lắng tai nghe ra bên ngoài...
Từ ngày hôm ấy, tôi chỉ ru rú một góc nhà, đến cả nhà bác Thứ cũng không dám sang. Tủi hổ lắm! Tôi còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa?... Ruột gan tôi lúc nào cũng như lửa đốt. Cứ một đám đông túm lại tôi cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa cũng nơm nớp lo sợ, thoáng nghe thấy mấy tiếng Tây, Việt gian... là lại chột dạ. Lủi thủi trong nhà, nin thin thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Các cụ đã nói "Ghét của nào trời trao của ấy". Đúng như những gì tôi lo sợ, mụ chủ đã đến, ý tứ đuổi khéo chúng tôi. Phải rồi! Ai người ta dại mà đi chứa lũ bán nước cơ chứ? Tất cả đang quay lưng lại với tôi. Thật đáng sợ! Thật là tuyệt đường sống! Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa gia đình tôi? Cứ nghĩ, nghĩ và nghĩ mãi. Những ý nghĩ đen tối, ghê rợn cứ theo đó mà len lỏi vào tâm chí tôi. Từng bước, từng bước một, chúng thống lĩnh suy nghĩ của tôi... Hay là quay về làng?...
Nước mắt tôi cứ dàn ra. Mặn chát. Về làng ư? Không... Không... Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Về làng đồng nghĩa với việc chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Không thể được! Làng thì yêu. Yêu thật! Nhưng làng theo Tây mất rồi. Làng đã phản bội lại ta thì phải thù.
Tôi bế thằng út, xoa đầu nó, hỏi khẽ:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu ?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng mình không?
Thằng bé cúi mặt, vân vê gấu áo như suy nghĩ cái gì đó. Nó nép đầu vào ngục tôi, khẽ trả lời:
- Có.
Tiếng nói khẽ khàng. Như tiếng lòng của chính bản thân tôi. Sao tôi vẫn cứ yêu cái làng ấy đến thế ? Tôi lại hỏi:
- Thế con ủng hộ ai?
- Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Mắt thằng bé mở to hết cỡ. Đôi mắt long lanh ấy ánh lên một niềm vui bất tận. Thằng bé trả lời dứt khoát. Nước mắt tôi lại trào ra, ấm áp.
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.
Tôi thủ thỉ với thằng bé. Tôi khắc sâu vào lòng thằng bé mà cũng như tự nhủ với lòng mình, tự minh oan cho chính mình. Cái lòng bố con tôi như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Cứ như vậy cho đến ngày hôm ấy. Tôi nhận được tin cải chính. Như trút được gánh nặng trong lòng, tôi mua quà cho lũ trẻ. Rồi lật đật đi khoe với hàng xóm láng giềng. Phải! Phải! Phải cho mọi người cùng biết cái tin ấy chứ. Tay chân tôi cứ múa hết cả lên. Đi đến đâu tôi cũng hô thật to:
- Tây nó đốt làng tôi rồi. Nhà tôi bây giờ chỉ còn lại một đống tro đen sì. Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính,,, cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo giặc ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn sai sự mục đích cả!
Cái nhà cháy ấy là minh chứng cho việc làng tôi không theo giặc. Tôi hô hào như để trút bỏ những phiền muộn vừa qua. Đã thật! Ai cũng mừng, cũng vui cho tôi...
Tiếng mấy đứa con léo réo. Thằng út kéo tay tôi gọi lớn, kéo tôi ra khỏi hồi tưởng. Tôi nhìn quanh. Mắt ngân ngấn lệ. Tôi nhấc bổng thằng nhỏ, hôn nó cái chụt. Nó cười khúc khích, tiếng cười như tan vào gió, như mang niềm hạnh phúc của tôi bao trùm lên cả làng Dầu. Tôi gói ghém những hồi ức đó, nhét vào một nơi thật sâu rồi vững bước, thẳng về phía trước, thẳng về cái làng của tôi. Còn hồi ức kia, nó chỉ làm cho tình yêu làng của tôi thêm nồng đượm mà thôi... Tôi tin rằng, tương lai vẫn còn ở phía trước. Và tôi sẽ gieo hạt ở nơi đây để hạnh phúc nở hoa nơi chốn này.
Đoạn văn mẫu số 2
Quê hương của tôi cũng bao người khác, thời kì chiến tranh bị chia cắt đi di tản. Tôi là người nông dân chân lấm tay bùn yêu nước phải đi di tản theo cách mạng. Yêu quê hương yêu nước là thế, tuy nhiên trong một lần tình yêu làng, yêu nước của tôi rơi vào hoàn cảnh bị thử thách.
Tôi là Nguyễn Hai Thu, người ta thường gọi là ông Hai cho thân mật. Làng tôi tên là Chợ Dầu, trong một lần thực dân Pháp xâm lược chúng đốt phá và cướp bóc, tôi phải đi di tản theo lệnh của cụ Hồ.
Ở nơi tản cư, không lúc nào thôi nghĩ về làng, tưởng tượng công việc kháng chiến trong làng, từ người già cho đến đứa trẻ đều hăng hái kháng chiến. Chỉ nghĩ đến thôi là tôi cảm thấy hứng khỏi, mọi mệt mỏi tan biến. Tôi phải đi khoe với tất cả mọi người về ngôi làng đáng tự hào này.
Ở nơi khác nhưng tôi vẫn luôn nghe ngóng nhiều thông tin về chiến tích của người dân trong làng. Khi có một nhóm người từ dưới xuôi lên tôi vội nghe tin tức, họ nói cả làng Chợ Dầu của tôi theo Tây. Tôi như nghe tin sét đánh, người cứng lại như ngừng thở. Phải mất một khoảng thời gian tôi mới tỉnh táo trở lại và lập tức trở về nhà. Về đến nơi, cả người như bị rút cạn sức lực, nằm vật ra giường nhìn lũ trẻ đang chơi ngoài cổng. Tôi thấy tủi hổ, và cả nước mắt rơi.
Mấy ngày sau tôi cảm thấy bất an và không ra khỏi nhà. Dù chỉ cần nhìn thấy đám đông túm tụm lại tôi cũng trở nên hoang mang, tôi cho rằng người ta đang bàn về chuyện làng Chợ Dầu. Còn mụ chủ nhà, mụ nói bóng nói gió, chế giễu, dọa nạt đòi đuổi cả nhà tôi đi nơi khác vì cái mác Việt gian, theo Tây phản bội Tổ quốc.
Trong lòng tôi cũng đấu tranh dữ dội lắm, tôi đi đến quyết định: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Một hôm ông chủ tịch loan tin làng tôi được cải chính. Tôi vui mừng khôn xiết là chạy sang ngay nhà bác Thứ và khoe rằng cái tin làng tôi theo giặc là sai, thậm chí tôi còn khoe nhà tôi bị Tây đốt sạch. Tôi thật sự sung sướng vì ngôi làng của mình vẫn còn theo cách mạng, theo cụ Hồ. Nhà cửa mất có thể xây dựng lại chứ nếu danh dự của làng bị mất thì vết nhơ ngàn năm không thể xóa nhòa.
Đoạn văn mẫu số 3
Tôi là một người nông dân làng chợ Dầu. Mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Kháng chiến bùng nổ tôi muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên tôi phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư tôi rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình.
Đang trong tâm trạng náo nức thì tôi nghe được tin làng chợ Dầu của tôi theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Tôi lặng đi tưởng như không thở được. Một lúc lâu tôi mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, tôi hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Tôi vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường nhìn lũ con tôi thấy tủi thân, nước mắt tôi cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Tôi ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi tôi tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy nhưng không có lửa làm sao có khói. Tôi cảm thấy tủi nhục, chiều hôm ấy vợ tôi về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ tôi mới hỏi tôi về cái tin ấy. Tôi im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. 3 - 4 ngày hôm sau tôi không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà chật chội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào tôi cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là tôi lại giật mình.
Trong tôi giờ đây đang diễn ra một cuộc chiến tranh nội tâm gay gắt khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình tôi đi. Tôi lâm vào tình trạng bế tắc: về làng hay ở lại. Cuối cùng tôi đến quyết định: làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, tôi tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của tôi vơi đi phần nào. Rồi một hôm khoảng 3 giờ chiều, có người đàn ông đến nhà tôi chơi. Ông ấy rủ tôi đi theo ông ấy đến sẩm tối tôi mới về. Lúc ấy tôi rất vui. Đến bực cửa tôi đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà tôi rồi, ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng tôi theo Tây làm Việt gian là sai sự mục đích. Cứ thế tôi lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy tôi sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của tôi.
Đoạn văn mẫu số 4
Làng Chợ Dầu ngôi làng thân yêu nơi tôi sinh ra và lớn lên nhưng bọn Tây đã khiến chúng tôi phải đi tản cư nơi khác, nhưng giờ đã được trở về nhà, Làng Dầu trong lòng tôi vẫn vẹn nguyên như chưa sứt mẻ ít nhất là tình cảm tôi dành cho nó. Tôi hạnh phúc vì đã được quay về quê hương nơi “chôn rau cắt rốn” của tuổi thơ.
Trở về quê hương tôi được nghe rất nhiều thông tin nào là tiêu diệt bao nhiêu tên địch? bao nhiêu người hi sinh? đang chăm chú lắng nghe với sự phấn khởi tự hào thì bỗng được tin từ một người phụ nữ nói rằng “làng Chợ Dầu theo Tây phản cách mạng”, giọng điệu người phụ nữ cay nghiệt và căm giận phát lên. Nhận được tin dữ, cảm giác đầu tiên đó là sốc, mặt tôi biến sắc, cổ họng nghẹn ắng lại,da mặt tê rân rân, cảm giác lúc đó thật xấu hổ và thất vọng. Tôi là người yêu làng, hãnh diệu và kể cho mọi người nghe mọi việc tốt đẹp về làng mình như giờ thành ra thế này, thật sự rất buồn, xấu hổ và thất vọng về ngôi làng. Tôi lảng tránh đi nơi khác và trở về nhà.
Trở về tôi vẫn không tin đó là sự thật, những suy nghĩ nội tâm đấu tranh nhau dai dẳng giữa tình yêu thương làng và sự thật đang được phơi bày. Ngôi làng tôi gắn bó, thân thiết, yêu vì những điều tốt đẹp giờ trở thành làng theo giặc, tôi thật sự thất vọng. Trong tâm trạng rối bời tôi tâm sự với thằng út, những điều kể ra làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
Tôi đi chơi cùng ông hàng xóm đến tận tối mới về, ông chủ tịch làng chợ Dầu mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng theo Tây làm Việt gian là sai sự thật, sai mục đích. Tôi vui mừng đến nỗi hô hào bọn trẻ:
“Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia cho”
Tôi chạy vội vã sang thì được khoe thông tin Tây nó đốt nhà, đốt sạch mọi thứ, mọi thông tin về làng chợ Dầu trước kia toàn sai sự thật. Dù tài sản bị mất đi nhưng không hiểu sao trong lòng tôi bỗng vui, vui vì tin làng quê mình vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng.
Câu chuyện là như vậy đó, trải qua nhiều cung bậc cảm xúc từ thất vọng, chán nản và niềm vui bất ngờ đến nhảy cẫng lên như một đứa trẻ, qua việc này niềm tự hào về ngôi làng chợ Dầu trong tôi vẫn không thay đổi, làng tôi vẫn luôn trung thành với cách mạng.
Đoạn văn mẫu số 5
Vậy là đã hơn tháng trời, kể từ ngày Hai Thu, tôi rời làng Chợ Dầu yêu quý của mình đi tản cư. Thật đúng là khi xa quê rồi, người ta mới càng thấm thía câu nói của ông cha ta.
Ở nơi tản cư, chẳng lúc nào tôi nguôi nỗi nhớ về làng của mình. Niềm vui duy nhất của tôi là đến phòng thông tin nghe, đọc báo để biết thêm tin tức kháng chiến. Những lúc ấy, ruột gan tôi cứ như múa cả lên, vui quá!
Hôm nay, chẳng hiểu sao, con lớn nhà tôi đi làm về muộn khiến tôi ở nhà cứ bứt rứt không yên. Vì thế khi vừa thấy bóng con bé thấp thoáng đằng xa, tôi đã lao ngay ra dặn con bé trông nhà và vội vàng đi xuống phòng thông tin nghe đọc báo như mọi lần.
Tôi vẫn thế nhưng bây giờ tôi đã có những đứa con rất đẹp và rất có hiếu. Hình ảnh lũy tre làm cùng những con bò con trâu làm tôi nhớ đến ngày xưa tôi và những đứa trẻ khác cùng độ tuổi lớn lên dưới ánh nắng sớm mai hình ảnh những người nông dân vẫn cần cù chịu thương, chịu khó ngày ngày làm lụng vất và để có những bữa bữa cơm ngon bên gia đình. Hình ảnh khói bếp cũng làm tôi liên tưởng tới ngày xưa tôi và gia đình tôi quê quần nướng những củ khoai lang đỏ và tiếng nói cười vang vọng làm xua tan đi ngày dài mệt mỏi. Thực sự lành rất quan trọng với mỗi chúng ta không có là quê chúng ta sẽ không lớn lên được như bây giờ giờ. Tôi rất yêu quê hương rất yếu xóm làng và yêu những người thân thương của tôi. Nó thực sự là những kỷ niệm đẹp mà tôi cất giữ lâu nay. Mỗi khi trở về làng quê thì bao nhiêu kí ức lại ùa về như những mảnh ghép tuyệt đẹp trong cuộc đời của người nông dân như tôi những người hàng xóm của tôi họ cũng có những gia đình mới những cuộc sống riêng nhưng họ luôn luôn nhớ về quê hương như tôi đã tưởng quê hương hai tiếng thật thân thuộc không bao giờ có thể file mỡ trong tâm trí tôi.
Tôi giờ chỉ còn đứa con út để giãi bày tâm sự. Mỗi lần ôm nó vào lòng, nhắc cho nó nhớ đến làng Chợ Dầu là quê hương nó, tôi lại chạnh lòng. Dù tôi đã quyết định từ bỏ ngôi làng ấy thì tôi cũng không thể dứt bỏ được tình yêu mãnh liệt với làng của mình. Quyết định ấy như vết dao sắc lẹm cứa đứt trong tim tôi. Xót xa! Đau đớn! Nhưng, tôi ủng hộ kháng chiến. Nhìn thằng bé con giơ tay, mạnh bạo, rành rọt nói to: “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”, nước mắt tôi lại giàn ra, thủ thỉ, khẳng định lại lời của con. Tôi nói như đế ngỏ lòng mình, như đê minh oan cho mình nữa. Mặc cho người ta nói tôi dân Chợ Dầu Việt gian, tôi vẫn ủng hộ Cụ Hồ dù trước mắt, cuộc đời tôi không biết sẽ ra sao.
Đoạn văn mẫu số 6
“Quê hương” – hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Dẫu rằng tôi cùng bao người khác nữa chỉ là những người nông dân chân lấm tay bùn, ngày ngày đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì chúng tôi cũng có quê hương của mình và rất yêu nó. Sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu quê hương của chúng tôi còn được mở rộng ra, gắn kết, gắn liền với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tôi cũng không ngoại lệ. Ấy vậy mà có một lần, tình yêu làng, yêu nước của tôi đã bị đặt vào trong một thử thách làm tôi mất ăn mất ngủ suốt mấy ngày liền.
Trước khi kể về câu chuyện của mình, tôi nên giới thiệu về bản thân mình trước chứ nhỉ? Tuy mọi người thường gọi tôi là ông Hai nhưng tên thật của tôi là Nguyễn Hai Thu. Nhắc tới làng tôi, chắc mọi người đều biết tới rồi nhỉ, làng tôi có tinh thần kháng chiến thế cơ mà! Làng tôi chính là làng Chợ Dầu thuộc huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh đấy! Nhớ năm ấy cái lũ Pháp mất dạy chúng nó tràn sang xâm lược nước ta, tôi cũng muốn ở lại sát cánh cùng các anh em giết chết cha chết mẹ chúng nó, ngặt nỗi dạo ấy trái gió trở trời, cái chân của tôi đau nhức quá, hơn nữa nhà tôi còn có một đàn con nheo nhóc, nên gia đình tôi buộc phải đi tản cư ở vùng đất Thắng theo chính sách của cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
Ở nơi tản cư, tôi cũng chẳng nhàn hạ tẹo nào. Gia đình tôi ăn bữa nay phải nghĩ đến bữa mai, ăn năm nay phải nghĩ đến sang năm, rồi còn phải góp lương thực để phục vụ kháng chiến nữa chứ, tính kiểu gì cũng không thấy đủ, vậy nên cả gia đình tôi phải làm quần quật cả ngày. Ngày nào cũng vậy, hai tay chân tôi mỏi nhừ, tưởng như không có sức mà bước, mà cầm, mà nắm, mà cử động nữa. Ấy thế mà cứ mỗi khi nằm vật xuống giường, tôi lại vắt tay lên trán nghĩ về làng rồi lại tự tưởng tượng về những công việc kháng chiến của làng: đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,… Chỉ nghĩ đến thôi là tôi cảm thấy mình như tràn trề sinh lực, phảng phất như tất cả mệt mỏi đều tan biến hết. Chắc tối nay tôi sẽ lại sang nhà bác Thứ để khoe về làng mất! Ôi, làng của tôi mới đáng tự hào làm sao!
Ở vùng đất Thắng này công việc ưa thích của tôi là xuống phòng thông tin nghe lỏm tin tức mà người ta đọc trên báo. Không phải là tôi không biết đọc mà thực ra tôi đã học qua một lớp bình dân học vụ rồi đấy, biết đọc, biết viết hẳn hoi ấy nhé, nhưng mà chữ in này khó nhận mặt chữ, tôi chỉ đọc được bập bõm, câu được câu không, thật là khổ tâm hết sức! May thay, hôm ấy tôi gặp trúng một anh chàng cao lớn, trên người mặc bộ quân phục màu xanh lá cây nom rất đỏm dáng. Chắc hẳn là một anh dân quân mới học, chữ nào chữ nấy đọc chậm rãi, to, rành rọt từng chữ. Bao nhiêu là tin hay, nào thì có một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa, rồi anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, hay đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống được một tên hai bốt Thao ngay giữa chợ. Lại còn bao tin đột kích nữa, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, rồi còn kiếm được cả súng nữa. Tôi càng nghe càng hăng say, càng mừng rơn, rồi bất chợt lại nghĩ đến làng: “Cái lũ Pháp tép riu này mà đi qua làng mình nhất định sẽ bị đánh cho tơi bời rồi làng mình cũng được lên báo cho mà xem.” Càng nghĩ tôi càng thấy đúng rồi cười thầm một mình.
Ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào quán dặn dò vợ mấy câu rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Đi được một đoạn tôi gặp phải một tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên, tôi vội tìm một quán gần đấy ngồi nghe ngóng tin tức. Tôi hỏi bọn họ:
- Các ông, các bà ở đâu lên ta đấy ạ!
Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá!
Tôi hỏi thêm mấy câu về tình hình dưới xuôi, ai biết lại nghe được tin tức bọn giặc rút giặc rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu. Tôi đinh ninh làng mình phải giết được vài thằng, nào ngờ một người đàn bà cho con bú lại nói cho tôi một tin dữ: cả làng Chợ Dầu của tôi theo Tây. Tôi như bị sét đánh trúng, cả người cứng lại, đờ ra, tưởng như đã ngừng thở. Phải một lúc lâu sau, tôi phản ứng kịp, run run hỏi lại, nhưng đáp án tôi nhận được lại đập nát vụn chút hy vọng cuối cùng của tôi, họ khẳng định rằng bọn Tây vào làng, cả làng tôi vác cờ thần ra đón, rồi cả thằng chánh Bệu khuân hết đồ đạc theo giặc. Tôi thấy mắt mình nóng lên, nước mặt như chực trào ra, cổ họng như bị cái gì chặn lại. Đắng ngắt! Bây giờ tôi chỉ có một ý nghĩ muốn về nhà trốn tránh hết thảy. Tôi vội đứng dậy trả tiền trà, rồi vờ như không thèm để ý, vươn vai nói to rồi chuồn thẳng:
- Hà, nắng gớm, về nào,…
Dù đã đi ra khỏi quán, tôi vẫn nghe tiếng lanh lảnh của người đàn bà nọ vọng ra:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cho mỗi đứa một nhát!
Về đến nhà, toàn thân tôi như bị rút cạn sức lực, nằm vật ra giường, đưa mắt nhìn lũ trẻ nhà mình đang chơi ngoài cổng. Có lẽ chúng thấy tôi khác thường nên ngoan ngoãn tránh đi. Tôi đau đớn, tủi hổ, nước mắt giàn giụa: “Ôi chao mấy đứa con số khổ của tôi, chúng nó mới tí tuổi đầu mà đã ngoan hiểu chuyện như vậy, có làm nên tội nên tình gì đâu mà bị người ta gán cho cái mác trẻ con làng Việt gian cơ chứ. Khốn nạn, cái bọn này ăn cái gì mà đổ đốn, dám bán nước, phản bội Tổ quốc, phản bội cụ Hồ muôn năm thế này hả trời.” Tức giận, tôi mắng ra lời luôn cho bõ tức.
Nhưng mắng xong rồi tôi mới ngờ ngợ như lời mình có gì đó không đúng. Mọi người ở làng so với tôi còn có tinh thần kháng chiến hơn, quyết tâm ở lại sống chết với giặc cơ mà! Mới nghĩ như vậy, tôi lạt gạt phắt đi ngay, không có lửa làm sao có khói, người ta không có thù oán với mình thì đặt điều với mình để làm gì, huống chi tên chánh Bệu đích thị là người làng mình rồi, không có sai. Chao ôi, nhục nhã chưa, cả làng Việt gian!
Tối ấy vợ tôi về, có lẽ bà ấy cũng nghe tin rồi, bởi tôi thấy bà khang khác, cả người uể oải, mặt cúi gằm xuống, đi thẳng vào trong nhà cất thúng rồi ra thềm ôm má nghĩ ngợi. Thấy mẹ như vậy lũ trẻ cũng không dám đòi quà. Sự im lặng đáng sợ bao trùm lên gian nhà nhỏ. Mãi khuya, vợ tôi mới chống gối đứng dậy, lẳng lặng xuống bếp đếm tiền hàng như thường lệ. Lúc lâu sau bà mới nhỏ giọng gọi tôi, nhưng tôi cố tình tảng lờ đi, thậm chí cong cáu gắt ngắt lời bà khi bà dường như định nhắc lại chuyện ban sáng. Bà ấy nín bặt, lát sau mới khẽ khàng nói tiếp rằng người ta đồn nơi này sẽ không chứa những người làng Chợ Dầu nữa. Tôi lặng đi, không dám hé nửa lời, bởi tôi biết hiện giờ tâm trạng tôi không tốt, nếu nói thêm câu gì nữa sẽ làm tổn thương tới bà ấy mất. Nhìn gương mặt gầy gò, mới ngoài bốn mươi mà tưởng chừng như đã già đi cả chục tuổi, những nếp nhăn, vết chân chim như ghi lại những tháng ngày vất vả khó nhọc bà phải trải qua khi chung sống với tôi, tôi cũng thấy hổ thẹn lắm chứ! Nhưng biết làm sao được, những lời nói ban sáng của mụ đàn bà nọ vẫn đeo bám, ám ảnh, dằn vặt tôi mãi. Tôi trằn trọc mãi mà không tài nào ngủ được. Một đêm thức trắng!
Ba bốn ngày sau đó tôi luôn cảm thấy bất an lo sợ, không dám bước chân ra khỏi nhà nửa bước dù chỉ là sang nhà bác Thứ, chỉ cần một đám đông túm tụm lại , hay nghe tiếng cười nói xa xa, tôi cũng hoang mang, cho rằng người ta đang nói về “cái chuyện ấy”, rồi chỉ loáng thoáng nghe được mấy tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là tôi lại lủi ra một góc nhà, nín thít. Đặc biệt là mụ chủ nhà, từ ngày xảy ra chuyện ấy, thỉnh thoảng mụ lại chạy sang nói bóng nói gió, đâm chọt, chế giễu, dọa nạt gia đình tôi một hồi. Hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng tôi khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Thậm chí có lần mụ còn đe dọa rằng ở đây người ta đồn rằng không chứa người làng Chợ Dầu chúng tôi ở đây nữa. Tuy đây chỉ là việc do vợ tôi kể lại nhưng cũng làm tôi khốn đốn, khổ sở một phen. Rời khỏi đây gia đình tôi biết đi đâu về đâu bây giờ, ai người ta cho ở nhờ, ai người ta buôn bán với? “Hay là quay về làng…” vừa mới chớm nghĩ như vậy, tôi lập tức phản đối ngay, về làng không phải là cam chịu cái mác Việt gian, phản bội Tổ quốc, bỏ lại kháng chiến, cụ Hồ… Cuối cùng, phải gian nan lắm tôi mới ra được quyết định: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Quyết định thì như vậy nhưng cái tình yêu làng này đã ngấm vào máu thịt, là một phần cơ thể của tôi rồi, đâu phải bảo thù là tôi thù ngay được, thế là tôi phải tìm thằng Húc trò chuyện để để giải khuây. Khi tôi hỏi nó nhà ta ở đâu thì nó trả lời là làng Chợ Dầu, khi tôi hỏi nó có muốn về làng không nó chỉ khe khẽ đáp: có. Vậy mà khi tôi hỏi nó ủng hộ ai thì nó lại trả lời mạnh bạo và rành rọt: ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Nghe câu trả lời của nó mà lòng tôi đau như cắt, bởi tâm sự của nó cũng là tâm sự của tôi, nói với nó cũng là tôi đang tự giải tỏa lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Tôi biết cái ý nghĩ mong có anh em đồng chí, cụ Hồ nghe được mà biết, mà soi xét cho bố con tôi chỉ là ý nghĩ viển vông, nhưng tôi vẫn không nhịn được mà nói chuyện với con. Chí ít, mỗi lần nói chuyện với con xong, lòng tôi cũng vơi đi mấy phần.
Nhưng có một chuyện đã xảy ra khiến tảng đá trong lòng tôi biến mất hoàn toàn: ông chủ tịch đã cho hay tin làng tôi được cải chính. Hôm ấy, ngài ấy xuất hiện trước mặt tôi làm tôi sửng sốt, nhất thời không phản ứng kịp, mãi mới nhớ ra là phải mời khách vào nhà. Thì ra ngài ấy muốn mời tôi cùng báo tin. Tôi chọn ngay ra bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất nhất mà cho dù là lễ Tết tôi cũng không nỡ diện để mặc vào, chỉnh gọn gàng lại đầu tóc rồi cùng đi với ngài ấy. Mãi đến sẩm tối tôi mới về đến nhà. Vừa chia quà cho các con xong, tôi sang ngay nhà bác Thứ và nhà chủ nhà khoe rằng ông chủ tịch vừa lên cải chính cái tin làng tôi theo giặc là “sai sự mục đích”, thậm chí khoe cả cái tin nhà tôi bị Tây đốt mất rồ. Mặc dù đối với người nông dân chúng tôi cái nhà là quan trọng nhất nhưng tôi không ức chế nổi sự sung sướng của mình. Chỉ là một căn nhà thôi, sau này chiến tranh kết thúc quay về xây dựng lại cũng được, chứ nếu danh dự của làng bị mất thì đó sẽ là một vết nhơ mà kể cả qua bao nhiêu năm cũng không xóa nhòa đi nổi.
Tôi tưởng câu chuyện nhỏ này chỉ có gia đình tôi và vài người xung quanh biết nhưng không thể ngờ được nó lại được nhà văn Kim Lân – một nhà văn cùng quê với tôi – viết thành một truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ và còn được đánh giá rất cao. Nhà văn đã mượn truyện của tôi để khái quát thành tình cảm của người nông dân của khắp mọi nơi trên mọi miền của Tổ quốc. Là người nông dân ai chẳng yêu nơi chôn rau cắt rốn của mình, đất nước có giặc người nông dân khắp nơi đều đứng lên tham gia kháng chiến. Đó là sự tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Cuộc sống ngày hôm nay của chúng ta đang ngày càng trở nên tốt hơn, tất cả là nhờ có Cách mạng. Chính vì vậy chúng ta càng phải cố gắng đem hết sức mình cống hiến cho đất nước, cho quê hương để đất nước hết giặc, cuộc sống của người nông dân sẽ được đổi mới hoàn toàn.
Đoạn văn mẫu số 7
Người ta có thể tác con người ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con người. Câu nói ấy thật sâu sắc. Đối với tôi, làng Chợ Dầu là máu thịt, là linh hồn, không gì có thể cướp lấy hay xóa nó đi trong tâm hồn tôi.
Đã mấy chục năm rồi, có lẽ chừng ấy năm ròng cũng đủ để tôi thấu hiểu hầu hết những người dân trong làng. Họ và tôi, chúng tôi đều là người Việt Nam, chúng tôi đều mang trong mình dòng máu lạc hồng luôn đỏ mãi trong lòng mỗi người. Người trong làng tôi hầu hết đều là những người nông dân một nắng hai sương tần tảo sớm hôm vất vả ra đồng. Chúng tôi sống cho bản thân mình nhưng chưa giây phút nào chúng tôi quên được lòng yêu Tổ Quốc, yêu nơi mà tôi sinh ra và lớn lên. Thế mà không hiểu vì lí do gì mà mọi người lại tung tin đồn xấu cho làng tôi.
Hôm ấy trời nắng đẹp và trong, như mọi hôm tôi lại đến phòng thông tin để đọc báo. Tôi rất thích đến đây nghe người khác đọc báo. Tuy là nông dân nghèo, cuộc sống cực khổ, làm nhiều việc tôi vẫn có cái thú vui đọc tin tức thường xuyên để nắm bắt thông tin mọi nơi. Khi vừa bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi ra lối huyện cũ, tôi bắt gặp tốp người tản cư bàn tán rất náo nhiệt.
Tính tôi cũng hay tò mò không biết có việc gì nên liền lại tán gẫu cùng. Được biết có làng nào ấy Việt gian theo Tây. Tôi nào ngờ ấy lại là làng Chợ Dầu – chính ngôi làng tôi sống. Họ bảo làng tôi Việt gian, người làng tôi theo giặc. Như không tin được vào tai mình. Tôi thầm nghĩ đủ điều. Chẳng nhỡ làng mình theo Tây thật rồi sao. Sao lại có chuyện đấy được. Người làng ta đều là những con người yêu nước hết cả mà. Không nhẫn nhịn được nỗi nhục nhã đến tận cùng, tôi đành đánh trống lảng bỏ đi: “Hà, nắng gớm, về nào…”
Kể từ cái ngày tin đồn ấy được truyền lây lan rộng khắp nơi, tôi chẳng dám bén lẻn ra đường nữa. Tâm trí tôi như dần triệt quệ, tôi không thèm màng đến việc gì nữa. Cả vợ tôi cũng chán nản không thiết làm việc nhà. Được sinh ra và lớn lên trong thời kì chiến tranh, từ bé tôi đã phải sống với bom đạn. Thấy thế tôi luôn nhủ với lòng mình rằng sau này phải gắng sức làm việc gì đấy giúp ích cho đất nước.
Trong đầu tôi cũng như gia đình, làng xóm tôi đều hứa với lòng sẽ luôn ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Thế mà giờ đây chúng tôi còn chưa làm được điều gì đã làm tổn hại đến đất nước rồi. Tôi cũng yêu làng tôi lắm, cái làng Chợ Dầu ấy đã gắn bó với tôi khá lâu rồi. Nhưng sâu thẳm trong trái tim mộc mạc , bình dị của người nông dân nghèo này vẫn luôn dành một phần quan trọng đối với Tổ quốc. “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Thời điểm ấy, khắp nơi mọi người đều xua đuổi dân làng Chợ Dầu. Bà chủ nhà của tôi rồi cũng phải từ chối gia đình tôi sinh sống tại nhà bà. Trong vài ba hôm ngắn ngủi, không biết làm gì, đi về đâu, đầu óc tôi như trống rỗng bởi sự nhục nhã không cam chịu nổi.
Thế mà nỗi buồn ấy lại bỗng chốc chuyển sang nụ cười vui hồn nhiên nở dần trên gương mặt tôi. Tôi vui sướng khi được nghe tin mừng rằng tin làng Chợ Dầu Việt gian đã được cải chính lại. Đúng thật là, toàn là sai sự mục đích cả. Tôi đi đến khắp nơi báo tin mừng dây cho mọi người. Ngay cả bà chủ nhà cũng vui và đành cho tôi tiếp tục ở nhà bà. Thế là cuộc sống tôi lại trở nên vui vẻ như trước.
Mọi con sông đều chảy ra biển, tình yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương trở thành tình yêu Tổ Quốc. Đối với người nông dân một nắng hai sương, làng có một vị trí rất quan trọng. Đấy là nơi tôi sinh ra, lớn lên và làm việc. Quan trọng hơn làng đã trở thành cội nguồn quê hương, là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của người nông dân. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ không bao giờ quên đi được bóng dáng cái làng Chợ Dầu thân thuộc ấy và sẽ luôn tin tưởng, chẳng bao giờ rời xa làng mình.
Đoạn văn mẫu số 8
Gắn bó với làng Chợ Dầu đã lâu, giờ phải ra nơi tản cư tôi thấy cuộc sống vẫn chưa quen. Ở đây hay ở làng người ta vẫn gọi tôi với cái tên quen thuộc là ông Hai.
Hôm ấy tôi làm việc quần quật ngoài vườn suốt buổi sáng, vừa đặt lưng xuống nghỉ là tôi lại nhớ về hồi còn ở làng, lúc đó sức vóc có, làm cùng anh em vui biết mấy, lòng tôi cứ thấy rạo rực. Chờ cho đứa con gái lớn về tôi cắt nó trông em rồi phải đi ngay tới phòng thông tin nghe đọc báo. Ai bảo chữ in khó đọc quá nên cứ phải chờ chực ở đây nghe người ta đọc, may hôm nay có anh dân quân đọc to rõ ràng chẳng thiếu bài nào. Nghe báo xong tôi phấn chấn cả người, đi thẳng ra phố huyện gặp tốp người tản cư mới lên, họ ở Gia Lâm.
Ngồi nói chuyện với họ tôi giật mình nghe tin giặc vào làng Chợ Dầu khủng bố, tưởng phải giết được vài thằng tây nhưng nào ngờ người ta lại nói làng tôi theo Tây, bán nước làm Việt gian. Tôi nghẹn đắng họng, không dám tin đó là sự thật, lẽ nào cái làng yêu dấu của tôi lại như thế. Trên đường về nhà tôi chỉ biết cúi gằm mặt mà đi, còn mụ chủ nhà nữa mụ sẽ đuổi cả nhà tôi đi vì biết tôi ở làng Chợ Dầu. Tôi thương lũ con của mình, chúng nó sẽ thành trẻ con làng Việt Gian ư? Câu hỏi khiến tôi rít lên trong đau đớn, làm sao biết được sự thật có phải như thế không, tôi kiểm điểm từng người trong óc mà không thể nghĩ ra bởi ai cũng là người có tinh thần cả. Còn nỗi nhục nhã nào bằng, rồi đây chẳng ai chứa, cả đất nước này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước.
Cả đêm hôm nghe tin làng theo giặc tôi không thể ngủ được, mấy ngày sau cũng chẳng thèm bước chân ra ngoài cửa, cái tôi mong ngóng duy nhất là tin cải chính cho làng tôi. Mụ chủ nhà ngày nào cũng xỉa xói không yên, tôi chỉ biết nín nhịn cho lặng đi, tôi nghĩ đến đủ thứ ghê rợn, đen tối , đầu óc rối bời không biết đưa nhau đi đâu về đâu. Thế rồi có ông bạn cùng làng lên báo tin, Tây nó đốt nhà tôi, đốt cả làng, chính ông chủ tịch làng lên đây cải chính. Tôi vui sướng không thể giấu nổi niềm vui ấy, tôi phải nói to cho tất cả dân tản cư ở đây biết làng Chợ Dầu của tôi yêu nước.
Tôi hân hoan, sung sướng ngồi kể chuyện cho mọi người nghe về cái hôm mà Tây vào làng khủng bố, cảm giác như chính mình vừa tham gia đánh giặc cùng dân làng Chợ Dầu.
Đoạn văn mẫu số 9
Nghe câu nói của mụ đàn bà mới ở dưới quê mới lên: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!” , cổ tôi nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân như vừa bị ai tát một cái đau lắm. Tôi lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau tôi mới rặn è è, mạnh dạn hỏi lần nữa: – Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
Người đàn bà lại khẳng định mình vừa ở dưới đó lên rồi rành rọt kể lại mọi chuyện. Từ chủ tịch xã đến dân làng đều theo Tây cả. Lại còn nói rõ chính xác tên của từng người nữa chứ. Thôi rồi! Làng Chợ Dầu theo Tây thật rồi. Người Chợ Dầu làm Việt gian thật rồi. Đó là một điều khủng khiếp mà cả đời tôi có tưởng tượng cũng không nghĩ ra được. Tôi cứ ngờ ngợ. Nhưng người đàn bà kia nói không sai cái gì. Lại còn gọi miệt thị là “chúng nó”, gằn giọng ở chỗ “Việt gian”, “theo Tây”, lại còn cạnh khóe thêm đớn đau: “Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?”
Tôi tủi nhục không biết giấu mặt vào đâu. Không để người ta biết tôi là dân làng Chợ Dầu, tôi vội lấy cớ lủi vội về. Về đến nhà tôi nằm vật ra giường. Mấy đứa trẻ thấy mặt tôi hầm hầm không dám hỏi gì. Nhìn chúng nó, tủi thân, nước mắt tôi cứ ròng ròng chảy. Tôi nghĩ về tương lai của chúng nó mà không cầm được nước mắt. Chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Rồi chúng nó sẽ bị người ta rẻ rúng, người ta ruồng bỏ đấy thôi. Tôi thì già cả rồi, có chết đi cũng được. Nhưng còn tương lai của chúng sẽ thế nào đây?
Làng tôi, tôi đã yêu nó biết mấy. Tôi yêu cái làng tôi to và đẹp. Từng con đường, từng cái cây ngọn cỏ của làng đều nảy nở trong tôi một tình yêu tha thiết. Có cái làng nào mà mọi con đường đều được lát đá ong sạch sẽ như làng Chợ Dầu của tôi. Nhà ngói cả nhé! Tường vôi vây kín đáo và chắc chắn lắm. Dân chợ Dầu có thể nhịn ăn nhịn mặc nhưng không thể để cái nhà mình xập xệ được. Lại thêm cái sinh phần bề thế, khang trang và cao lớn của viên tổng đốc thì không làng nào có được.
Không những yêu làng, tôi còn tự hào về cái làng của tôi lắm lắm. Làng tôi tinh thần dữ lắm. Khi kháng chiến nổ ra, gái trai gì trẻ làng tôi cũng hăm hở đi đắp hào, đào ụ, dựng chòi canh sẵn sàng chống giặc. Người trong làng đã thề sẽ sống chết mà giữ làng. Lúc ấy, tôi cũng tham gia cùng các anh em làm công tác kháng chiến. Bao đêm hội họp nghe nhắc nhở của các cán bộ cũng thấy mạnh mẽ lắm. Không đâu như ở làng Chợ Dầu, ai ai cũng sôi nổi, quyết tâm và kiên cường.
Tôi chưa tin hẳn lời của người đàn bà kia. Liệu có điều gì đó chưa phải ở đây chăng? Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được. Họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy.
Nhưng không có lửa sao lại có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Càng suy nghĩ tôi càng thấy đau đớn và nhục nhã. Chao ôi! Cả làng làm Việt gian. Rồi đây biết làm ăn buôn bán làm sao? Rồi đây sẽ phải ở đâu, mặt mũi nào để ngửa mặt nhìn mọi người nữa đây?
Mấy ngày, tôi không nói không rằng, cũng không dám đi đâu, cứ quẩn quanh trong nhà. Ai hỏi gì tôi cũng gắt gỏng. Vợ tôi cũng khổ tâm lắm. Cứ nhìn tôi như muốn khóc, không dám hỏi gì. Một không khí nặng nề bao trùm khắp căn nhà nhỏ.
Tôi cố giữ kín chuyện này. Nhưng mụ chủ nhà không biết từ đâu đã biết chuyện liền đánh tiếng sẽ đuổi chúng tôi đi. Thật là khổ hết biết. Giờ đi thì đi đâu? Tôi chợt nghĩ sẽ quay về làng nhưng rồi gạt phắt đi. Chúng nó theo Tây cả rồi, về làm gì nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là làm Việt gian, làm nô lệ cho Tây đấy.
Bao nhiêu thảm cảnh cứ quần vũ trong đầu tôi hệt như có cơn bão tố nào đó cào cấu trong trí óc. Nghĩ đến cái thói ức hiếp, bài trừ của bọn Tây mà tôi thấy rợn cả người. Cả cuộc đời lầm than cũ nổi lên rõ ràng trước mắt tôi. Về bây giờ là mất hết. Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Tôi sẽ đứng về phía Cách mạng, đứng về phía kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ, quyết chống giặc đến cùng. Đời chỉ sống có một lần, làng thì cũng mất rồi, còn luyến tiếc làm chi nữa.
Có lúc tôi ôm thằng Húc vào lòng, thủ thỉ với nó cho nguôi ngoai nỗi khổ. Nó cũng tinh thần lắm. Nó cũng ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ. Nó cũng như tôi quyết một lòng trung trinh với đất nước. Nghe thằng bé nói một cách mạnh bạo và rành rọt tôi hạnh phúc vô cùng, nước mắt lại chảy ra ướt nóng hết cả má. Nỗi khổ tâm trong tôi cũng vơi bớt đi phần nào.
Tưởng chừng như sẽ phải ôm nhục đến hết đời. Có ngờ đâu, ông trời còn thương tôi. Lúc sắp sửa rời nơi tản cư để lên nơi ở mới thì một thanh niên người làng Chợ Dầu tìm đến. Anh ta nói làng Chợ Dầu không theo Tây đâu. Làng Chợ Dầu kiên cường chống giặc, quyết bảo vệ từng gốc cây, từng mái nhà. Khi Tây tràn vào làng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của ta. Tuy chiếm được làng nhưng chúng không thu được gì. Quá tức giận, chúng đốt sạch cả làng rồi. Cuộc tiêu thổ kháng chiến đã thành công. Chính ông chủ tịch xã đã đích thân lên đến tận đây để cải chính cái tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Tôi nghe tin ấy mà thấy sung sướng như thể mình đang mơ. Cứ hỏi đi hỏi lại anh thanh niên. Để tôi tin, anh dắt tôi đến gặp ông chủ tịch. Thì ra là láo hết, sai sự thật hết, sai “sự mục đích” hết cả. Bọn giặc đã chơi trò tâm lí chiến đấy thôi. Chúng tung tin để phá tổ chức của ta, chia rẽ dân ta, làm dân ta mất niềm tin vào đồng bào của mình. Âm mưu của chúng thật thâm độc. Nhưng Cách mạng đã thấy rõ điều đó. Cách mạng đã lo liệu tất cả, đã cử người đến các khu tản cư để khẳng định, để làm an lòng mọi người.
Tôi lại đi khắp nơi để cải chính lại cái tin “oan nghiệt” ấy. Ai cũng vui mừng cho tôi. Đến cả mụ chủ nhà cũng phấn khởi mừng theo. Tôi kể tỉ mỉ, rành rọt cho mọi người nghe hôm Tây nó vào làng khủng bố. Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian đi cùng, đi những đường nào, đốt phá những đâu. Dân quân, tự vệ đã bố trí, cầm cự kháng địch ra sao. Tôi kể không sót thứ gì như thể tôi vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật.
Sau những tai họa ấy, tôi càng yêu làng, yêu kháng chiến hơn bao giờ hết. Làng Chợ Dầu là làng anh hùng. Dân chợ Dầu anh dũng, kiên trung. Tình yêu làng trong tôi quyện chặt với tình yêu nước. Từ đây, làng tôi và đất nước là một. Tôi và nhân dân là một. Ủng hộ Cách mạng! Ủng hộ cụ Hồ! Tôi sẽ tiếp tục góp sức cùng nhân dân, cùng cụ Hồ chiến đấu chống giặc đến hơi thở cùng.
Đoạn văn mẫu số 10
Làng Chợ Dầu nơi tôi sinh ra và lớn lên nay đã không còn nữa, bị Tây đốt hết rồi. Thế nhưng tôi không buồn, ngược lại còn vui và đi khoe với tất cả mọi người ở nơi tản cư.
Suốt buổi sáng tôi hì hục vỡ đất ngoài bờ ruộng chuẩn bị trồng ít sắn cho những tháng đói năm tới. Làm một mình tôi phải cố đến mỏi nhừ đôi vai, lại nhớ hồi còn ở làng tôi làm việc có anh có em vừa vui lại sung sức chẳng biết mệt. Làm sao tôi hết nhớ làng được, ngày nào tôi cũng phải đi bộ lên huyện đến phòng thông tin nghe người ta đọc báo để biết tin về làng của mình. Hôm ấy khi ở phòng thông tin về, tôi ghé qua lối huyện cũ thấy có tốp người tản cư mới đến, tôi ra đó hỏi chuyện. Họ là người từ Gia Lâm lên đây, thế rồi có một người đàn bà báo tin giặc nó khủng bố vào làng Chợ Dầu của tôi.
Nghe tin dữ, tôi như chết lặng đi, chưa kịp trấn tĩnh thì chính từ miệng người đàn bà đó nói cả làng tôi là Việt gian đi theo Tây. Khi ấy cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi tưởng như không thở nổi. Tôi hỏi mụ liệu chuyện đó có thật không, ai ngờ mụ còn chỉ đích danh chánh Bệu thì tôi chẳng còn biết nói gì đành đứng dậy đi về. Trên đường về tôi chỉ biết cúi gằm mặt mà đi, tôi cảm thấy nhục nhã, đau đớn, cái làng của tôi sao lại bán nước theo giặc như thế. Về đến nhà, nhìn đàn con thơ tôi càng thương, nghĩ chúng là trẻ con làng Việt gian mà xót xa. Tôi suy nghĩ đến nát óc vẫn không thể hiểu nổi tại sao dân làng lại theo Việt gian cho được, ai cũng là người có tinh thần. Cả ngày hôm đó cho đến mấy ngày hôm sau tôi vẫn không thể thoát ra khỏi cái tin ấy, chỉ biết ngồi im trong nhà nín thít, mặc cho mụ chủ nhà cứ xỉa xói tôi cũng mặc kệ, cùng lắm là nhà tôi bị đuổi đi khỏi nơi này. Có lúc tôi ôm thằng con út vào lòng thủ thỉ với nó cho đỡ buồn, làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc thì phải thù, tôi ủng hộ và tin tưởng vào Cách mạng, vào Bác Hồ. Thế rồi có anh bạn cùng làng lên báo tin chủ tịch làng đã lên tận nơi báo tin cải chính. Ra láo hết, toàn là sai sự mục đích cả. Tây nó còn đốt cháy hết nhà tôi, đốt cả làng, làm gì có chuyện làng tôi theo Tây.
Tôi sung sướng vỡ òa, minh oan cho làng cũng là minh oan cho tôi, từ giây phút ấy tôi có thể tự hào về làng của mình, đem tin đó rao khắp nhà trên xóm dưới, cho mọi người biết làng tôi đã anh dũng chống trả bọn Tây ra sao.
Đoạn văn mẫu số 11
Sáng ngày hôm nay vẫn như mọi ngày, tôi nhâm nhi tách trà mới pha, đọc vài trang báo của ngày mới, ngẫm nghĩ lại thời tuổi trẻ sôi nổi cùng xóm làng của mình, những hồi ức đẹp đẽ nhất ẩn sâu trong tâm trí…
Trưa hôm ấy tôi ở nhà một mình. Vợ con đi bán buôn cả, nên tôi đành ra bờ suối dốc sức mà vỡ một vạt đất, dự sẽ dành trồng vài trăm gốc sắn, sang năm mùa đói vẫn có cái mà ăn. Làm sáng giờ chân tay đã rã rời, nằm vật xuống tấm nệm êm ái, tôi lại suy nghĩ vẩn vơ. Nhung nhớ lắm cái ngày còn sống ở làng, cùng anh em đào đường, khuân đá… Tôi nhớ lắm cái làng Chợ Dầu này, là nhớ tha thiết.
Kiên nhẫn chờ đến khi cái lớn về, tôi vội nhắn nhủ nó vài câu chăm nom nhà cửa đã vội chạy đi, như mọi hôm, tôi đi nghe lỏm thông tin từ người khác. Dọc đường cũng có vài người níu tôi lại hỏi thăm, nói vài câu bông đùa khiêu khích, tôi vội chạy đi. Nghe lỏm hả? Nói ra thì cũng chẳng có gì hay ho lắm đâu, thực làm tôi khổ tâm hết sức ấy chứ. Tôi cũng từng học một khóa bình dân học vụ rồi, nhưng vẫn là không thể tự mình đọc nắm nội dung được, đành ngồi đó vờ đọc mà nghe lỏm người khác đọc. Ghét nhất là thứ người cậy ta đây biết lắm chữ, không đọc ra tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay hà cớ chi lại may thế, vớ được anh dân quân đọc to phết, tôi nghe được bao nhiêu là thông tin bổ ích ấy chớ.
Tôi háo hức ra khỏi phòng thông tin, lại dặn vợ vài điều, ghé quán làm vài điếu thuốc lào mà thong thả uống chè thưởng gió. Rồi bỗng nhiên nhìn thấy vài người trông không giống dân nơi này, mở miệng, tôi thắc mắc, hỏi han.
Biết được họ ở Gia Lâm lên, còn biết giặc vừa nổ súng từ Bắc Ninh đến Chợ Dầu, như thường lệ, tâm trạng lân lân, tôi lại chép miệng ý khoe mẽ: “ Thế ở Chợ Dầu ta giết được bao nhiêu thằng hở bác ? “. Ngờ đâu câu trả lời lại như mũi giáo gắm thẳng vào nơi sâu tối nhất tâm trí tôi: “ Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa! “. Là tôi nghe lầm thôi mà phải không ? Không thể nào như vậy được. Khăng khăng ý niệm đó, tôi gặng hỏi lại. Câu trả lời lại như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt yêu cầu tôi thức tỉnh, run run tôi đành vờ đứng dậy than to trời nắng nóng, chạy vội về nhà.
Về đến nhà vẫn không khỏi nghe được những lời cay nghiệt của làng xóm, tôi thương thầm lũ trẻ nhà mình. Chúng là trẻ con của làng Việt gian rồi…
Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác thường ngày, làm cho căn nhà bỗng chốc trở nên yên ắng, lạnh lẽo. bọn trẻ cũng im thin thít, không dám đùa giỡn như mọi hôm. Nghĩ lại thì cũng không đúng lắm vì ai trong làng cũng là những người yêu nước thề chống giặc mà. Hơn nữa ai đi bịa chuyện làm gì. Rồi một hồi tôi lại nghĩ đến tương lai của làng Chợ Dầu này, liệu có ai chịu buôn bán với làng Việt gian chứ?
Mấy ngày sau đó tôi đều giam mình trong nhà, tự thân xấu hổ, tủi nhục. Tôi tâm sự cùng con giải bày nỗi lòng. Cuối cùng, tôi cũng quyết định không về làng nữa. “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tôi quyết một lòng theo kháng chiến, theo cụ Hồ, một lòng với đất nước. Mình không làm được gì tốt đẹp cho đất nước thì cũng đừng làm chuyện gì tồn hại.
Tôi ôm nỗi lòng suy nghĩ thâu đêm, càng nghĩ càng thấy tủi nhục và căm phẫn. Dù quyết ủng hộ cụ Hồ, Ủng hộ kháng chiến nhưng giờ ai cũng ghét người làng chợ Dầu thì biết phải đi đâu. Trong lúc tột cùng bế tắc thì một buổi sáng sớm, ông chủ tịch xã gọi tôi lên báo tin. Thì ra tất cả đều láo cả, tất cả là lừa dối, là hành động phá hoại lòng tin của kẻ thù. Làng Chợ Dầu không chỉ không phải Việt gian mà còn tích cực tham gia kháng chiến chống giặc cứu nước, tôi như một lần nữa được sống lại. Tôi vô cùng mừng rỡ hăm hở đi đính chính lại, tiếp tục vinh quang mà nói về cái làng mà tôi yêu quý nhất. Cho đến nay tôi vẫn duy trì thói quen đó, như cách tôi kể cho bạn nghe về câu chuyện của mình trong ngày hôm nay.
Đoạn văn mẫu số 12
Quê hương là gì hở mẹ
à cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Chúng ta ai cũng có quê hương, nơi chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng những tâm hồn thơ bé, nơi mà dù đi xa tới đâu ta đều hướng về. Riêng tôi đó là cái làng chợ Dầu đầy thương nhớ. Mọi người thắc mắc tôi là ai ư? Tôi chính là ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Ôi cái làng chợ Dầu của tôi! Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh làng tôi có cái phòng thông tin rộng nhất vùng, cái tròi phát thanh cao tít bằng ngọn tre, chiều chiều tiếng loa gọi vang vọng khắp cả một khoảng trời, không ai là không nghe thấy. Rồi nhà ngói san sát nhau, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Chẳng là tôi tự hào về cái làng của tôi lắm các bác ạ. Tôi vẫn có tính hay khoe làng như thế xưa nay. Thế mà chỉ vì cái bọn giặc đáng khinh kia mà làng chợ Dầu bị tàn phá, dân trong làng thì phải đi tản cư hết.
Bây giờ khoe làng, tôi khoe khác. Tôi khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà tôi gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Mỗi lần hô động tác, anh huấn luyện viên lại phải đệm tiếng ạ… thườn thượt đằng sau: “Nghiêm ạ!… Nghỉ ạ!… Vác súng lên vai ạ!…”. Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng tôi thì làm công trình không để đâu hết. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán.
Thực tình tôi không muốn tản cư lên trên này một chút nào. Nhưng bà Hai nhà tôi cứ khóc lóc, bà năn nỉ bắt tôi phải đi, bà bảo:
-Thế ông định bỏ mẹ con tôi chết đói à? Ông phải lên trông nom chúng nó cho tôi xoay xỏa chứ. Rồi bà khẩn khoản nói với mọi người, khẩn khoản với đồng chí thôn đội trưởng, mọi người đồng ý để tôi đi, tôi đành phải nghe theo.
Những ngày đầu ở trên này công việc không có, trong người tôi lúc nào cũng bực bội, không yên. Cũng đến khổ bà nhà tôi các bác ạ. Tôi quay sang cáu gắt mẹ con nhà bà ấy. Nhưng tôi nghĩ mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. Ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi còn ra thế nào nữa. Công việc là công việc chung chứ của riêng mình ai?
Mỗi lần tôi bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp bề bộn những bồ, bị, nồi, niêu, và những dây quần áo ẩm sì ấy là tôi nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Sao mà tôi sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im ắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì tôi không sao chịu được. Tôi phải đi cho nó khuất. Tôi chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào nhà thì thôi, động vào nhà là nhòm.
Ngay từ dạo mới lên, tôi đã bực mình với mụ ấy lắm rồi. Nghe xóm giềng ở đây người ta nói, tôi biết mụ không phải là người đứng đắn.
Buổi trưa hôm ấy tôi ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về. Hai đứa bé thì tôi bắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết. Tôi hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, tôi tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm. Đến khi mỏi nhừ tôi vào nhà nằm vật lên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Tôi lại nghĩ về cái làng của tôi, lại nghĩ đến những ngày cùng làm với anh em. A, sao mà độ ấy vui thế. Tôi thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng Tôi lại thấy náo nức hẳn lên. Tôi lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm. Chao ôi! Tôi lão nhớ làng, nhớ cái làng quá. Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo óc. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. Tôi lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Tôi giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa lớn gồng đôi thúng không bước vào. Tôi cất tiếng hỏi:
-Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không để đứa con kịp trả lời, tôi nhỏm dậy vơ lấy cái nón:
-Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy. Tôi giơ tay chỉ lên nhà trên và bước ra ngoài.
Loading...
Bên ngoài trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. Tôi đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Cũng như thường lệ, tôi ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự. Biết bao là tin hay đều được cập nhật ở đây. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Nhưng dường như hạnh phúc của con người thật là bé nhỏ. Ngờ đâu cái vui vẻ ấy chỉ là một ngày lặng gió trước khi giông bão nổi lên. Bước ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua quán nước ngồi. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một người đàn bà nói bọn Tây nó vào làng chợ Dầu, nó khủng bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:
– Nó… Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
– Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!
Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm giận. Nó như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như đến không thở được. Khóe mắt cứ giật giật, các dây thần kinh như tê liệt. Một lúc lâu sau, tôi mới rặn è è, nuốt cái gì vương vướng ở cổ, hỏi lại, giọng lạc hẳn đi:
– Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ…
– Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại…
Tôi chưa dứt lời thì người ta đã nói. Dứt khoát. Chắc như đinh đóng cột. Tôi đờ người. Hai tai ù ù. Chẳng còn nghe thấy gì cả. Giọng người kia như lẫn vào trong gió. Tôi trả tiền nước, lảo đảo đứng dậy. Chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng:
– Hà, nắng gớm, về nào…
Tôi cúi gằm mặt xuống mà đi. Tôi thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy tôi hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt tôi cứ tràn ra…
-Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… tôi nắm chặt hai tay lại và rít lên:
-Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!
Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Tôi kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng. Quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nẩy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa thì sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?
Tối ấy không ai nói với ai câu nào, không gian yên ắng đến lạ. Rồi vẫn cái giọng rì rầm như thường ngày:
-Này thày nó ạ.
Tôi nằm rũ ra trên giường không nói gì.
-Thày nó ngủ rồi à?
-Gì? Tôi khẽ nhúc nhích:
-Tôi thấy người ta đồn… tôi gắt lên:
-Biết rồi!
Tôi nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ . Tôi không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra tôi chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Tôi ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
-Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
-Là con thầy mấy lỵ con u.
-Thế nhà con ở đâu?
-Nhà ta ở làng chợ Dầu.
-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực tôi trả lời khe khẽ:
-Có. Tôi ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
-À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
-Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt tôi giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Tôi thủ thỉ:
-Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Chiều hôm ấy có anh cùng làng đến chơi, cũng người chợ Dầu các bác ạ. Tôi đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. Tôi vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Tôi đi mãi đến xẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ tôi đã lên tiếng:
-Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào.
Rồi tôi vội sang bác Thứ khoe:
-Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Đấy câu chuyện là như thế đấy mọi người ạ. Đến giờ nghĩ lại tôi vẫn không sao quên được cảm giác khi nghe tin cải chính. Bởi vì có niềm tin vào Đảng, vào bác Hồ và cả cái làng của tôi nữa nên kháng chiến mới thắng lợi như ngày hôm nay. Tôi mong qua câu chuyện của tôi mọi người sẽ thêm yêu quê hương của mình.Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 4
Tôi là ông Hai trong câu chuyện "Làng” tôi yêu cái làng Chợ Dầu của tôi – cái làng mà tôi đã sinh ra và lớn lên, cái làng mà tôi đã sinh ra và lớn lên, cái làng đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ thuở nào. Giờ đây xa làng ỏ nơi tản cư tôi nhớ làng da diết- nhớ những ngày tham gia kháng chiến, và có lẽ tình yêu làng càng được trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng tôi nếu như không có một ngày…
Nghe theo chính sách của Đảng, gia đình tôi phải đi tản cư, phải xa ngôi làng thân yêu, xa quê tôi tích cực lao động vỡ vạt đất rậm ngoài suối để trồng thêm vài gốc sắn. Nằm giường tôi nghĩ về cái làng và nghĩ về những ngày cùng làm việc với anh em, ồ sao độ ấy vui thế, tôi thấy mình như trẻ ra và cảm thấy náo nức vô cùng, tôi lại muốn về làng, muốn được cùng anh em đào đường, xẻ hào, khuôn đá… tôi tự hỏi lòng mình không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm! Chao ôi! tôi nhớ làng nhớ cái làng quá.
Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt đất, có tiếng gà trưa cất lên. Gian nhà lịm đi, mờ mờ hơi đất, tôi nghĩ đến mụ chủ nhà, thảo nào cũng phải nghe những tiếng chửi con mắng cái của bà, lại kêu vại nước chóng cạn, cáo bếp bừa bộn mà tôi nghe đến nỗi phát ngán. Tấm che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng lên tôi nghĩ đứa con gái lớn bán hàng đã về nên tôi cất tiếng hỏi khi không thấy nó bước vào.
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không để con kịp trả lời tôi vội vơ cái nón dặn nó trông hai em rồi bảo nó trông nhà, đừng để mụ chủ lấy đồ của gia đình.
- Nó thì rút ruột ra, biết chửa?
Tôi bước ra ngoài, trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại, họ dạt cả vào những khoảng bóng cây - tránh nắng, một vài tiếng động nhẹ khẽ gợi lên, oi ả. Đi nghênh ngang giữa đường vắng, tôi mong nắng cho Tây nó chết.
- Nắng này bỏ mẹ chúng nó.
Theo thói quen, việc đầu tiên tôi vào phòng thông tin nghe đọc báo, tôi tuy biết mặt chữ nhưng chữ in khó đọc khiến tôi khổ tâm hết sức, tôi ghét thậm những anh cậy ta lắm chữ đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. May sao hôm nay vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng chữ, tôi sung sướng khi nghe bao nhiêu là tin hay về tinh thần kháng chiến của dân ta. Nào là em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa, nào là một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ ” khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dàm khẩu, ngày mai đàm khẩu, tích tiểu thành đại” làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm. Tai nghe mà ruột gan tôi cảm tưởng như đang múa cả lên, vui quá!
Tôi náo nức bước khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vội mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ, tôi ngồi vào một cái quán nước, hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, bao nhiêu ý thích chen chúc trong đầu tôi. Tiếng quạt, tiếng thở. tiếng trẻ con khóc cùng tiếng của cánh đi phá đường râm ran cả góc đường. Dưới chân đồi, những ruộng lúa xanh mượt uốn quanh co dưới trời nắng, lấp lánh như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dập dờn.
- Các ông, các bà ở đâu ta lên đây à
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đây ạ, đi bốn năm mới lên đến đây, vất vả quá.
Tôi hỏi chuyện lúa má ở dưới xuôi rồi rít một hơi thuốc lào nữa gật gù cái đầu ” Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… hay đáo để”
- Này bác có biết mấy hôm nay súng bắn ở đâu mà nghe rát thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về qua Chợ Dầu, nó khủng bố ông ạ!
Tôi giật mình khi nghe tên Chợ Dầu, tôi lắp bắp hỏi:
- Nó… nó vào làng chợ Dầu hở Bác? thế ta giết được bao nhiêu thằng?
Người đàn bà ẵm con cong môi
- Có giết được thằng nào đâu, cả làng chúng nó theo việt gian theo Tây còn giết gì nữa.
Tôi cảm thấy như cổ nghẹn đắng lại , da mặt tê rân rân, lặng người đi, tôi tưởng như không thể thở được, một lúc lâu mới hết bàng hoàng không tin vào những gì đã nghe tôi hỏi lại.
- Liệu có thật không hả bác? hay là chỉ tại…
- Thì chúng tôi vừa ở dưới đó lên mà, Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ! Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng Chánh Bệu thì khuôn cả từ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xa cam- nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.
Tôi đau đớn đến uất nghẹn, tôi trả tiền nước, đứng dậy chèm chẹp miệng, cố cười nói to.
- Hà, nắng gớm, về nào….
Tôi cố đánh lảng đi và đứng dậy đi thẳng, tôi vẫn nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú.
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm còn được người ta thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát.
Tôi nghe mà cứ tưởng như nói mình vậy, chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, tôi chợt nghĩ đến mụ chủ nhà, rồi mụ chủ có để yên cho gia đình lão già này hay không? Về đến nhà tôi nằm vật ra giường, nhìn lũ con tủi thân nước mắt tôi cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian ư? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúm hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu….
Tôi đau đớn đến tột độ nắm chặt hai tay mà rít lên:
- Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồn mà đi làm cá giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này? rồi tôi ngẫm nghĩ lại, chả nhẽ cái bọn ở nàng lại đốn đến thế được, đối với tôi họ đều là người có tinh thần cả mà, họ đã ở lại làng quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy, mà thằng Chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi, không có lửa làm sao có khói. Chao ôi! cực nhục chưa cả làng Việt gian, rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? ai người ta chứa? ai người ta buôn bán mấy, suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt Gian bán nước, lại còn bao nhiêu người làng tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cơ sự này chưa?
Chiều hôm ấy vợ tôi về cũng có vẻ khác, chắc lại vì cái chuyện làng Việt gian rồi, trong nhà sự im lặng thật ngột ngạt và khó chịu. Mãi khuya, vợ tôi mới xuống bếp tính tiền hàng:
- Này, thầy nó ạ!
Nằm rũ trên giường tôi vờ như không nghe, tôi bực dọc, tức tối người lặng hẳn đi chân tay nhũn ra, có tiếng léo nhéo ở gian nhà trên tiếng mụ chủ… tôi nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài.
- Thầy nó ngủ rồi ư? dậy tôi bảo cái này đã.
Tôi bật ngóc đầu dậy giơ tay trỏ lên nhà tôi rít hai hàm răng lại nghiến:
- Im, khổ lắm, nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ, hai chữ Việt gian cứ lảng vảng trong đầu tôi khiến tôi vô cùng sợ hãi tủi hổ, tôi không dám bước ra ngoài, hễ thoáng qua những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông,… là tôi lủi ra góc nhà, nín thít. Thôi, lại chuyện ấy rồi, tôi lại nghĩ đến mụ chủ nhà. Chắc là mụ vui lắm, thích lắm, mỗi lần đi qua cửa mụ lấy chuyện bóng gió mà nói như khía vào thịt tôi. Nhẫn nhịn vì có chỗ cho gia đình chui ra chui vào là tốt lắm rồi, nhưng mụ có để yên cho tôi đâu, mụ có ý muốn đuổi nhà tôi đi bằng những lời nói ngọt xớt, vợ tôi phải nhẫn nhịn xin bà ta cho ở đây bài ba hôm nữa…
Từ hôm đó, tôi ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối ghê rợn nối tiếp trong đầu óc tôi, biết đem nhau đi đâu bây giờ, ở đâu họ cũng đuổi người Chợ Dầu đi. Trời ơi! cái câu nói của người đàn bà hôm trước cứ dội lên trong tâm trí tôi. Tôi nghĩ:
- Hay là quay về làng.
- Không về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây. Không thể được, làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Hàng ngày không biết tâm sự giãi bày lòng mình với ai, tôi lại vu vơ nói với hỏi chuyện thằng con út:
- Út à, thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào tôi khe khẽ
- Có
- À. thầy hỏi con nhé! thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt.
- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt tôi giàn ra, ròng ròng trên hai má, tôi nói thủ thỉ.
–Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ Con nhỉ
Tôi nói để ngỏ lòng mình, càng nghĩ tôi lại càng đau, anh em đồng chí biết cho bố con tôi, cái lòng của bố con tôi là như thế đấy có bao giờ dám đơn sai, mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy trong lòng tôi cũng vơi đi được đôi phần.
Nhưng thật bất ngờ, cái tin cải chính được đưa lên, hôm ấy tôi cùng người làng Chợ Dầu đi về làng, vui mừng không sao tả xiết, tôi hô hào với bọn trẻ:
- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia cho
Tôi chạy sang bác Thứ khoe khắp nơi
- Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! đốt nhẵn, ông chủ tịch làng tôi vừa lên đây cải chính ông ấy cho biết ” cải chính là cái làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà, láo! láo hết, toàn là sai mục đích cả.
Tưởng mụ chủ nhà sẽ sa sầm xuống mà tức tối nhưng mụ lại tỏ ra vui sướng, từ hôm ấy tôi lại càng hãnh diện về làng, lại sang bác Thứ trò chuyện về làng và lại tích cực lao động.
Chuyện là vậy đó mọi người ạ! nói ra tôi lại thấy lòng mình bồi hồi, nao nức. Cho đến tận bây giờ tôi cũng không thể quên từng việc, từng lời nói về làng tôi. Qua đây, tôi muốn nhắc nhở các bạn rằng: hãy yêu làng của mình- nơi chôn rau cắt rốn của ta, nơi đã nuôi ta khôn lớn, trưởng thành giống như tôi yêu làng Chợ Dầu của tôi vậy, hãy đặt niềm tin vào làng thân yêu bạn sẽ luôn cảm thấy cuộc sống thật hạnh phúc- giống như tôi đã đặt niềm tin vào làng Chợ Dầu và tôi đã trở thành người hạnh phúc.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 5 Bài văn Cảm nhận một chi tiết ấn tượng trong Quang Trung đại phá quân Thanh (2024) HAY NHẤT
TOP 10 Đoạn văn cảm nhận về Quang Trung (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Đoạn văn đóng vai Lục Vân Tiên kể lại chuyện (SIÊU HAY) 2024
TOP 10 Đoạn văn đóng vai kiều ở lầu ngưng bích (2024) SIÊU HAY
TOP 10 mẫu đóng vai Kiều Nguyệt Nga kể lại câu chuyện (2024) SIÊU HAY