Đề bài: Đoạn văn cảm nhận về Quang Trung.
Dàn ý: Đoạn văn cảm nhận về Quang Trung.
Dàn ý 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
II. Thân bài:
- Phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
1. Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ
- Giận, liền họp các tướng sĩ, tự mình cầm quân để đuổi bọn giặc
- Nghe lời tướng sĩ đứng ra làm vua và tiến quân ra Bắc
- Tổ chức hành quân hỏa tốc
- Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
- Lập kế hoạch hành quân đánh giặc
2. Là một con người sáng suốt, có tầm nhìn xa và trông rộng:
- Phân tích rất đúng và sáng suốt sự tương quan giữa quân ta và quân địch
- Rất giỏi trong việc phán xét và dùng người
- Mở tiệc khao quân
3. Tài giỏi trong việc dùng binh:
- Vị tướng mưu lược tài ba
- Có sự tính toán trong việc hành quân và đánh giặc
- Có những mưu tính rất chính xác
4. Có cách đánh giặc độc đáo:
- Bắt gọn bọn nghe thám
- Đánh nghi binh
- Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chính xác
III. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Dàn ý 2
I. Mở bài:
Giới thiệu về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Ví dụ:
Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu đời và có bao nhiêu thăng trầm lịch sử, trải qua nhiều vị vua tài ba lãnh đạo. Một trong những vị vua tài ba ấy có hình ảnh lỗi lạc của vua Quang Trung. Hình ảnh vua Quang Trung được thể hiện rõ qua tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm ghi chép lại sự thống nhất của vương triều Lê. Tác phẩm đã tái hiện một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc Việt Nam xưa.
II. Thân bài:
- Phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
1. Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ
Giận, liền họp các tướng sĩ, tự mình cầm quân để đuổi bọn giặc
Nghe lời tướng sĩ đứng ra làm vua và tiến quân ra Bắc
Tổ chức hành quân hỏa tốc
Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
Lập kế hoạch hành quân đánh giặc
2. Là một con người sáng suốt, có tầm nhìn xa và trông rộng:
Phân tích rất đúng và sáng suốt sự tương quan giữa quân ta và quân địch
Rất giỏi trong việc phán xét và dùng người
Mở tiệc khao quân
3. Tài giỏi trong việc dùng binh:
Vị tướng mưu lược tài ba
Có sự tính toán trong việc hành quân và đánh giặc
Có những mưu tính rất chính xác
4. Có cách đánh giặc độc đáo:
Bắt gọn bọn nghe thám
Đánh nghi binh
Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chính xác
III. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Một số bài văn mẫu: Đoạn văn cảm nhận về Quang Trung.
Đoạn văn mẫu số 1
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”' nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:" Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...". Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:" Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc...". Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình "Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", "bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’ .
Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt". Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ' để "dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả". Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần" mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.
Đoạn văn mẫu số 2
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.
Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể " để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ "mềm lòng" dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.
Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.
Đoạn văn mẫu số 3
Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kỳ mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm - Xoài Mút trong một trận thủy chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ- vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên Gò Đống Đa lịch sử bất tử.
Đọc Hồi thứ 14 " Hoàng Lê nhất thống chí", hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.
Những tác giả- những người con ưu tú của dòng họ Ngô thì ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ " hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.
"Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét."
Nên biết rằng lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: "E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn lại trở ra,, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?" Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.
Nguyễn Huệ là một con người " biết nghe và quyết đoán". Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ "giận lắm" định "cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn "hãy chính vị hiệu", ông đã nghe theo để " giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đi đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế Trời Đất, thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung đã chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ Quốc đứng trước họa xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An : gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân "đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn", nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ "ăn ở hai lòng ... sẽ bị giết ngay tức khắc", vạch trần thói tàn bạo tham lam của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ ... để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân ra tới Tam Điệp hội sưu với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành năm đạo binh lớn " gióng trống lên đường ra Bắc".
Nguyễn Huệ thật "lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân." Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc : bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết " thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, " quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người." Trong khi đó, một trận "rồng lửa" đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào " tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" làm cho Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngữ không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp ... nhằm hướng Bắc mà chạy." Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào Thăng Long trước kế hoạch hai ngày.
Nhãn quan quân sự - chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm " người khéo lời lẽ" để "dẹp nỗi việc binh đao", đem lại "phúc cho dân."
Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
"Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình"
("Ai tư vãn" – Ngọc Hân công chúa)
Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn " Hoàng Lê nhất thống chí" thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Đoạn văn mẫu số 4
Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu - anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, "định thân chinh cầm quân đi ngay".
Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", " đốc suất đại binh'' ra Bắc gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,...
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. Chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa giành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột "phương lược tiến đánh đã có tính sẵn", lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: Cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế...
Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi...) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Đoạn văn mẫu số 5
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một trận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương”
(Ngô Ngọc Dụ)
Vua Quang Trung, vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ đẹp uy nghi, trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.
Hồi thứ thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã tạo nên chiến công kì tích nhất trong lịch sử Việt Nam, với tốc độ tiến công thần tốc, chỉ trong 10 ngày ông đã tiêu diệt gọn quân Thanh, lấy lại nền độc lập cho đất nước. Chỉ trong đoạn trích ngắn này, nhưng vẻ đẹp khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người đã được biểu lộ rõ nét nhất.
Đọc Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, ấn tượng đầu tiên của người đọc đối với vị anh hùng này chính là ở trí tuệ sáng suốt và vô cùng mạnh mẽ, quyết đoán. Ngay khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc, chiếm giữ kinh thành Thăng Long bấy giờ Nguyễn Huệ mới là Bắc Bình Vương và ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo, lòng yêu nước trào dâng ông đã định cầm quân đi ngay. Song trước sự khuyên ngăn, suy nghĩ kĩ lương, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi, để danh chính ngôn thuận cầm quân ra Bắc. Ngay sau khi lên ngôi Nguyễn Huệ - niên hiệu là Quang Trung đã ra lệnh xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành được chiến thắng với kẻ địch mạnh, đòi hỏi phải có một trí tuệ sáng suốt. Quang Trung đã rất mưu lược, sáng suốt khi nhận định tương quan tình hình hai bên, ra lời hịch vừa để khích lệ binh tướng, vừa để răn đe, cảnh tỉnh với những kẻ hai lòng. Ông vô cùng sáng suốt khi nhận rõ bản chất của kẻ định, và khơi dậy lòng yêu nước ở những người chiến sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông tướng sĩ trên dưới một lòng đều nhất nhất tuân lệnh: “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.
Không chỉ vậy, sự mưu lược của ông còn được thể hiện trong cách nhận xét về thế mạnh và cái yếu của bề tôi. Ông hiểu năng lực của Sở và Lân, họ chỉ là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tùy cơ ứng biến là không có tài”. Bởi vậy ông không trách cứ, xử tội họ. Ông cử Ngô Thì Nhậm – người có tài mưu lược để bên cạnh mà hỗ trợ hai vị tướng. Cách hiểu người, dùng người đúng đắn, trách người đúng tội đúng việc làm cho quân tướng ai nấy đều hài lòng và khâm phục. Nhờ có sự am hiểu như vậy, đã giúp ông thu phục nhân tâm của mọi người.
Và cuối cùng sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm rõ tình hình, quân Thanh bành trướng đang đóng quân gần hết Bắc Hà, nhưng ông cùng vô cùng tự tin chỉ trong mười ngày sẽ đánh đuổi sạch bóng quân Thanh. Nhưng ông không chỉ lo nghĩ đến việc dẹp yên giặc, mà con nghĩ trước cách ứng xử với chúng sau khi chúng bị đánh đuổi về nước. Là một nước lớn, khi thua trận tất yếu sẽ sinh sự cay cú mà đem quân trả thù, bởi vậy ông đã cử Ngô Thì Nhậm, dùng “khéo lời để dẹp yên binh đao”. Làm việc ấy cũng là để cho nhân dân nghỉ sức, ta có điều kiện trong vòng mười năm xây dựng đất nước, củng cố quân sự, lúc bấy giờ giặc Thanh có xâm lược ta cũng không còn phải ngần ngại gì nữa. Qua tất cả những sự việc đó, đã cho hậu thế thấy một con người tài trí sáng suốt, liệu việc như thần.
Không chỉ dừng lại là một con người có tài trí sáng suốt, mà dưới ngòi bút của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung còn là một người có tài thao lược hơn người. Ngay sau khi hạ lệnh xuất quân ra Bắc, ông lập tức lên đường, vừa đi vừa tuyển quân, khiến cho binh lực mạnh lên không ngừng. Ông có cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử, làm cho ai cũng không khỏi kinh ngạc, từ Phú Xuân ra đến kinh thành Thăng Long ông chỉ đi mất có bốn ngày, trong khi đi còn tuyển quân, phương tiện di chuyển thô sơ chủ yếu đi bộ, phần còn lại đi ngựa. Chính tốc độ hành quân thần tốc ấy cũng là một yếu tố làm cho kẻ địch bất ngờ.
Đồng thời ông lựa chọn thời cơ chính xác, chớp cơ hội tết nguyên đán giặc sơ hở, lo ăn chơi để đánh một trận tiến quân lớn, đập tan tất các các ngả quân của chúng. Ở mỗi trận đánh có có cách đánh hết sức linh hoạt, khiến cho kẻ thù choáng váng, tưởng “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Và chính điều đó đã dẫn đến thắng lợi tất yếu của quân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thug. Quang Trung cùng với các tướng sĩ của mình đánh một mốc son chói lọi và hào hùng vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Đẹp đẽ nhất là khi vua Quang Trung chỉ huy đội quân tướng sĩ trên chiến trường, đó là vẻ đẹp của sự oai phong, lẫm liệt, khó ai có thể bì kịp. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, chỉ huy xông ra trận. Trong ánh sáng của buổi sớm, khói của súng đạn, vị anh hùng thân cưỡi voi, mình mặc áo bào lẫm liệt xông ra chiến đấu với kẻ thù. Một tạo hình uy nghi, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành tượng đài bất hủ của dân tộc Việt Nam.
Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 đã tạc lên tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ thành công xuất sắc. Ông là con người toàn tài, vị vua anh dũng, sáng suốt, đánh tan quân xâm lược, đem lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng chính là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp, khí phách của dân tộc Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số 6
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.
Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể " để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ "mềm lòng" dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.
Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.
Đoạn văn mẫu số 7
Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu - anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, "định thân chinh cầm quân đi ngay".
Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", " đốc suất đại binh'' ra Bắc gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,...
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. Chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa giành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột "phương lược tiến đánh đã có tính sẵn", lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: Cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế...
Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi...) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Đoạn văn mẫu số 8
Hoàng Lê Nhất thống chí là tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Những sự kiện lịch sử được ghi chép lại một cách đầy chi tiết và đảm bảo tính chân thực. Ngoài các sự kiện đã xảy ra trong cuộc chiến tranh chấp quyền lực giữa nhà Lê và phong trào Tây Sơn, tác phẩm còn tập trung phác họa, tái hiện chân dung anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, điều này được thể hiện rõ nét trong hồi thứ 14.
Trước hết, ta có thể thấy Quang Trung là một con người đầy quyết đoán. Mỗi việc làm của mình, nhà vua đều suy nghĩ rất thấu đáo, biết được mục đích cần phải làm và quyết tâm hành động để làm nên nó. Điều đó được chứng minh bằng các sự kiện cụ thể. Khi biết rằng giặc Thanh đang đánh chiếm thành Thăng Long - vị trí quân sự quan trọng của quân ta, ông không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà họp bàn các tướng lĩnh để đề ra những kế sách, sau đó đích thân cầm quân lên đường. Phải có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí lớn thì vừa Quang Trung mới có hành động tức thời và quả quyết đến như vậy. Khi nghe những lời phải của các trọng thần, ông không hề do dự mà lập tức " đắp đàn trên núi Bân", làm lễ tố cáo trời đất và các thần sông núi, tạo ra áo mũ vừa mà lên ngôi hoàng đế. Quang Trung lên ngôi vua cũng là lúc nhận về mình trọng trách lớn lao với dân, với nước, vì vậy mà khi vừa lên ngôi, sau khi lễ xong liến cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.
Không chỉ là người tướng lĩnh quyết đoán, giàu mưu lược mà Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết trọng dụng người tài. Trước sự kiện quân Thanh kéo đánh nước ta, Nguyễn Huệ đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhằm đề ra kế sách vẹn toàn nhất. Sau khi đưa đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, nghe được lời khuyên khi gặp người cống sĩ Nguyễn Thiếp ông liền tổ chức ngày việc kén lính, chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn thành thì mở ngày cuộc duyệt binh và chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi ban bố lời phủ dụ binh lính và tướng sĩ, Quang Trung quyết hạ lệnh tiến cống, chỉ ra kế hoạch, phương hướng đối phó với bè lũ nhà Thanh trong chớp mắt. Những hành động thần tốc, ý nghĩ mạnh mẽ và kiên quyết ấy cho thấy một bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.
Ở vua Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà còn là một người có trí tuệ anh minh, nhãn quan tỏ tường. Ông biết phân tích những điểm yếu, điểm mạnh giữa ta và địch, biết nhận định đúng sai và đưa những quyết định đúng thời điểm. Đó là điều mà làm nên những chiến thắng khi thực hiện các chiến lược mà ông đã vạch ra. Những lời phủ dụ vừa thâm sâu vừa ân tình đó ông truyền đạt đã tác động vào ý chí, kích thích sự chiến đấu của nghĩa quân." Quân Thanh sang xâm lấn nước ta chớ bảo là ta không nói trước". Những lời lẽ đầy sức thuyết phục như vậy phát ra từ một người tài năng và nhiệt huyết càng khiến quân sĩ nể phục mà vâng lệnh: "Xin vâng lệnh, không dám hài lòng".
Sự thông minh xuất chúng ấy còn được thể hiện ở khả năng dùng người tài ba của ông. Biết chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ lại khéo lời làm tướng dẹp loạn đao binh đưa lại phúc cho muôn dân thiên hạ." Lần này ta ra, thân hành cầm quân bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?". Đặc biệt, trong cách xử trí Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến người người phải nể phục.
Nhờ vậy mà cuộc chiến do Nguyễn Huệ thân chính đã mang lại những chiến thắng thần tốc, vàng dội non sông. Đó là những cuộc hành binh nhanh chóng từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần. Tới Thăng Long vào 30 tháng chạp để lên đường, ngày mùng 5 năm sau đã hoàn thành nhiệm vụ. Tại huyện Phú Xuân, bắt sống được hàng loạt quân Thanh trên đường trốn chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn bộ khí giới, lương thực cho quân Nam. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh sau khi tự làm hại mình thì không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà chạy tán loạn. Quần ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại trận.
Người anh hùng Nguyễn Huệ, một người tướng lĩnh tài ba, vị minh quân của dân tộc qua từng trang viết được khắc hoạ thật rõ nét. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của thời đại xưa. Từ đó, cố gắng học tập, rèn luyện và hoàn thiện để bản thân mỗi ngày thật mạnh mẽ, trưởng thành, sống với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ, phát huy.
Đoạn văn mẫu số 9
Trường phái văn học của đại gia đình họ “Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nổi tiếng với bộ sách gồm thơ , phú rồi truyện kí không chỉ đặc sắc về nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử cao. Nổi bật trong đó phải kể đến “ Hoàng Lê nhất thống chí” như một thiên sử đồ sộ kể lại những thăng trầm của đất nước thời Trịnh Sâm, phong trào Tây Sơn và sự lật đổ nhà Thanh. Lồng lộng trong khúc tráng ca là hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung.
Hình tượng người anh hùng Tây Sơn được khắc họa tập trung qua hồi 4, hồi 5 và hồi 14. Ở đó người anh hùng hiện lên với đủ tâm tài chí dũng, là một trong những lý do xứng đáng để dẫn đến sự sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh và thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Tây Sơn. Với khí thế sấm chớp, hình tượng người anh hùng áo vải sánh ngang với các bậc anh hùng vĩ đại khác trong lịch sử.
Một trong những điều cốt yếu để làm nên một người anh hùng là lấy “ nhân nghĩa” làm đầu( Nguyễn Trãi đã đề cập trong “ Bình Ngô đại cáo”.). Và ở Quang Trung, mọi hành động, suy nghĩ của một người anh hùng đều xuất phát từ cái tâm đẹp, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân ,luôn lo lắng cho nước. Khác với những tên vua hèn hạ bán nước như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh liệt trong lòng vị tướng tài đã thổi bùng lên ngọn lửa căm giận trong ngài khi hay tin lũ bán nước, biết quân Thanh sắp tràn vào lãnh thổ nước nhà: ngài “ giận lắm, định cầm quân thân chinh đi ngay.” Tình yêu nước thổi vào những lời hiệu triệu đến với các binh sĩ một giọng hùng hồn , hào sảng, dứt khoát, thể hiện quyết tâm cao đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Ngài tin tưởng vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ thời Bà Trưng bà Triệu, rằng tội ác của quân giặc, quân ta nhất định không thể dung tha. Đến đây ta nghe như vang vang bên tai lời hiệu triệu của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngày nào gửi đến binh sĩ, thúc giục tinh thần đấu tranh. Tinh yêu nước đã mang trong đó cả linh hồn dân tộc tự ngàn đời.
Không chỉ yêu nước, thương dân, Quang Trung còn là một người vô cùng tài giỏi. Điều đó thể hiện qua trí tuệ sắc bén, tầm nhìn xa trông rộng của ông trong việc nhận định thời cuộc, vừa dự tính đánh thế nào mà còn dự tính trước sẽ ứng xử ra sao khi giành thắng lợi. Nhờ sáng suốt anh minh, ông hiểu được binh lính nhân dân là nòng cốt nên ông tập trung khích lệ tinh thần chiến đấu của các binh sĩ, thậm chí còn cho họ ăn Tết trước khi bước vào chiến trận. Đặc biệt là cuộc hành quân thần tốc và đánh bại quân Thanh chỉ trong vòng 5 ngày, sớm hơn nhiều so với dự kiến đã trở thành điều làm kinh ngạc con người ở mọi thời đại, càng chứng tỏ tài dùng binh, trí tuệ đáng khâm phục ở người anh hùng ấy.
Ở Quang Trung cũng không thể thiếu cái chí của một người anh hùng. Chí khí thể hiện ở quyết tâm cao độ, hành động quyết đoán và nhanh chóng của ông. Khi hay tin đánh giặc chỉ trong vòng một tháng ông đã hoàn thành đủ mọi nghi lễ tế cáo,quy tụ đủ số quân binh cần thiết và hành quân thần tốc làm nên chiến thắng chớp nhoáng đối với nhà Thanh.
Quang Trung còn là một vị tướng vô cùng dũng cảm. Ông trực tiếp mặc áo giáp cưỡi voi, xông pha ra trận , vừa vạch ra đường lối đánh giặc vừa trực tiếp là người chỉ mũi giáo vào quân thù. Người anh hùng ấy với lòng dũng cảm, quyết hi sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của non sông xã tắc hòa cùng khí thế xung thiên ngút trời làm mờ sao Ngưu, sao đẩu của nghĩa quân Tây Sơn khiến quân địch đớn hèn nhụt đi ý chí mà thất bại nhanh chóng.
Với sự hội tụ của cả tâm, tài, chí và dũng, Quang Trung xứng đáng trở thành linh hồn của cả nghĩa quân Tây Sơn, cũng là tinh thần dân tộc của con người thời bấy giờ. Đúng như Nguyễn Trãi nói: dân tộc ta “ anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Họ là Lý Thường Kiệt, là Lê Lợi, là Nguyễn Trãi, và bây giờ đến Quang Trung. KHác nhau về thời đại nhưng những người anh hùng ấy đều mang trong mình khí thế non sông, hồn thiêng sông núi, là niềm tự hào của cả một dân tộc, một đất nước, là những huyền thoại vĩ đại để con người đời sau nhớ về.
Hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã nhắc ta nhớ về một thời đại vàng son trong lịch sử dân tộc , tăng thêm ý thức dân tộc, tự nhắc mình phải tiếp bước cha ông trên con đường xây dựng, bảo vệ đất nước.
Đoạn văn mẫu số 10
Quang Trung vị tướng tài, vị anh hùng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang trước kẻ xâm lược nhà Thanh ngang tàn, hung hãn. Tất cả những vẻ đẹp, tầm vóc của vị anh hùng đều được tái hiện một cách chân thực và đầy đủ nhất qua hồi thứ mười bốn trích “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Đoạn trích là lời ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ tài đức song toàn và sức mạnh vô song. Vẻ đẹp của vua Quang Trung được thể hiện trên nhiều mặt khác nhau, mỗi phương diện đều được miêu tả kỹ lưỡng, giọng điệu hào hùng, ngợi ca.
Trước hết người anh hùng áo vải Quang Trung là người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Ngay khi nghe tin giặc đã chiếm một vùng đất lớn của ta, Quang Trung không hề sợ hãi, định cầm quân đi ngay. Với ý thức dân tộc và lòng tự tôn sâu sắc, ông không thể chần chừ chứng kiến cảnh nước nhà bị quân thù giày xéo. Nghe lời khuyên từ quần thần, ông quyết định lên ngôi vua, đây là quyết định hết sức sáng suốt, có ý nghĩa quan trọng: làm cho cương vị rõ ràng, danh chính ngôn thuận để cầm quân; không chỉ vậy còn giúp thống nhất nội bộ, tránh được sự hài lòng của binh lính. Hành động của ông không chỉ hội tụ được người tài mà còn giúp lấy lòng dân. Ông rất sáng suốt, nhanh nhạy trong việc phân tích tình hình thời cuộc, tương quan giữa ta và địch, điều đó được thể hiện rõ trong bài dụ tướng sĩ ở Nghệ An. Trong bài dụ ông khẳng định chủ quyền của dân tộc ta với phương Bắc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”; nêu lên dã tâm xâm lược và hành động phi nghĩa của kẻ thù; đồng thời ông nêu lên lời kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực đánh giặc. Lời dụ như một bài hịch ngắn dọn kích thích lòng căm thù giặc và lòng yêu nước của quân sĩ. Sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong việc xét đoán và dùng người, với mỗi đối tượng ông đều có khen chê rõ ràng để mỗi cá nhân nhận ra khuyết điểm của mình. Với Ngô Thì Nhậm ông hết lòng khen ngợi, đó là kế sách thông minh, giúp quân ta tránh được mũi nhọn kẻ thù, làm cho quân địch chủ quan, tự mãn mà không phòng bị. Với Sở và Lân, Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Không chỉ vậy, Quang Trung còn là người có tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và có tầm nhìn xa, trông rộng. Quân Thanh khi mới vào nước ta thế và lực rất lớn, thế nhưng ngay khi khởi binh Quang Trung đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long. Là một người tài trí, có tầm nhìn xa ông còn nhận ra bản chất thâm độc của kẻ thù, khi bại trận, là một nước lớn nhất định sẽ đem quân trả thù. Vì vậy, ông đã tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để đảm bảo cho dân ta có cuộc sống yên ổn, bình phục lại sau chiến tranh. Quang Trung quả là một vị vua tài trí, tâm sáng, không chỉ lo giành độc lập mà còn lo đến đời sống nhân dân, đến việc xây dựng đất nước sau này.
Trong quá trình chỉ huy chiến đấu, tài mưu lược và tài dụng binh như thần được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Trước khi xuất quân ra Bắc ông đã mở tiệc khao quân và hẹn mùng bảy sẽ gặp lại ở thành Thăng Long. Đây không chỉ là lời nói để động viên binh sĩ mà là lời tiên đoán thần kì dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung. Chớp thời cơ giặc ngủ quên trên chiến thắng, ông nhằm vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh. Ông đã tạo ra một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử, từ Phú Xuân ra Thăng Long chỉ mất hơn một tuần: 25 tháng chạp ở Phú Xuân, 30 đến Tam Điệp, đêm 30 bắt đầu tiến đánh thành Thăng Long; vừa đi ông vừa tuyển thêm binh sĩ. Tiến đánh mà vẫn đảm bảo yếu tố bí mật. Ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, đảm bảo yếu tố bất ngờ khiến kẻ địch không kịp trở tay. Trong từng trận đánh Quang Trung ông vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, làm chúng hoảng sợ; trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn siêu phách lạc. Bởi vậy, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên bờ cõi nước ta, sớm hơn cả những gì ông đã dự tính từ trước.
Đẹp đẽ nhất, khắc họa rõ nét nhất hình ảnh vua Quang Trung chính là khi ông đích thân cầm quân ra trận. Dưới cảnh khói mù mịt trời, cách gang tấc không thể nhìn rõ mặt người nổi bật lên là hình ảnh vị vua lẫm liệt, mặc áo bào, cưỡi voi, anh dũng xông ra trận. Hình ảnh đó cho thấy rõ hơn tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt của vua Quang Trung. Ông chính là linh hồn của trận đấu, làm cho tướng sĩ tin tưởng hơn vào chiến thắng của quân ta.
Xây dựng nhân vật Quang Trung, tác giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, kết hợp tự sự, miêu tả một cách hợp lí, chân thực, sinh động. Khắc họa chân dung vị anh hùng rõ nét với tính cách quả cảm, dũng mãnh, tài dùng binh như thần.
Trích đoạn đã cho chúng ta thấy được toàn bộ vẻ đẹp oai hùng, dũng mãnh của vua Quang Trung trước kẻ thù xâm lược, ông là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. Vị anh anh ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, là tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập và noi theo.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác: