Cảm nhận Chuyện cổ nước mình
Đề bài: Nêu cảm nhận của em về bài thơ “Chuyện cổ nước mình”.
I. Dàn ý:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu cảm xúc khái quát về bài thơ.
2. Thân bài:
* Cảm xúc về nội dung:
- Bài thơ gửi đến thông điệp về giá trị to lớn và sức sống bền bỉ của chuyện cổ trong việc lưu giữ lịch sử, văn hóa, văn học,...
+ Lí do tác giả yêu chuyện cổ: "nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa".
+ Chuyện cổ giúp con cháu tìm hiểu về phong tục tập quán, văn hóa của cha ông mình: "Ở hiền thì lại gặp hiền/ Người ngay thì gặp người tiên độ trì", "Thị thơm thị giấu người thơm/ Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà",...
* Phân tích về nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát truyền thống.
- Biện pháp ẩn dụ "người thơm".
- Ngôn từ tinh tế, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi.
3. Kết bài:
- Khái quát cảm xúc về tác phẩm.
II. Một số đoạn văn mẫu hay:
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ "Truyện cổ nước mình" của Lâm Thị Mỹ Dạ viết bằng thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, mang màu sắc ca dao, dân ca. Qua bài thơ tác giả ca ngợi truyện cổ của nước mình mang nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng bao bài học quý báu của ông cha truyền lại cho con cháu đời sau.
"Truyện cổ nước mình" là những truyện cổ, do nhân dân ta sáng tạo ra qua hàng ngàn năm lịch sử, thể hiện tâm hồn Việt Nam, bản sắc nền văn hóa Việt Nam.
Tình thương người bao la mênh mông và triết lí về niềm tin "ở hiền gặp lành" là ý nghĩa sâu xa, là sự tuyệt vời của truyện cổ nước mình khiến cho nhà thơ phải "yêu" và quý trọng:
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì".
"Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo" là triết lí, là niềm tin của nhân dân ta gửi gắm trong truyện cổ. Câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ gợi nhớ trong lòng ta bao truyện cổ, bao hình ảnh, bao nhân vật. Anh trai cày hiền lành được Phật trao cho câu thần chú: "Khắc nhập! Khắc xuất" mà lấy được vợ đẹp con nhà giàu (Truyện "Cây tre trăm đốt”). Người em cần cù, trung hậu được con chim phượng hoàng đền đáp "ăn một quả trà cục vàng" mà trở nên giàu có hạnh phúc; trái lại người anh tham lam mà chết chìm xuống đáy biển (Truyện "Cây khế". Thạch Sanh được Tiên "độ trì" mà trở nên võ nghệ cao cường, có lắm phép thần thông biến hóa, đã giết chết Trăn tinh, bắn chết Đại Bàng, có đàn thần để lui giặc, được làm phò mã, rồi được làm vua; trái lại Lý Thông gian tham, độc ác, quỷ quyệt bị sét đánh rồi hóa thành bọ hung...
Đúng như Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết:
"Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì".
Truyện cổ nước mình đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "nắng mưa" trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ:
"Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sông thầm thì tiếng xưa.
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi".
Đọc truyện cổ nước mình như được "nhận mật", như được gặp ông cha, khám phá được bao phẩm chất tốt đẹp của tổ tiên mình:
"Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình
Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng, lại đa tình, đa mang".
Truyện cổ nước mình hàm chứa bao bài học quý báu, đó là bài học về đạo lí làm người: sống phải chân thật chân thành, phải chăm làm siêng năng, phải có trí tuệ đừng a dua. Tác giả gợi lên thật khéo truyện "Tấm Cám", truyện "Đẽo cày giữa đường", ...để nói về những bài học do ông cha gửi lại "đời sau" qua truyện cổ:
"Thị thơm thị giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì".
"Truyện cổ nước mình" là một bài thơ hay, giản dị mà đậm đà. Bài thơ đã giúp mỗi tuổi thơ chúng ta yêu thêm truyện cổ của đất nước mình, dân tộc mình.
Đọc bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích truyện cổ nước mình.
Đoạn văn mẫu số 2
Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm mà tôi cảm thấy yêu thích nhất là “Chuyện cổ nước mình”.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khẳng định rằng: “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi/Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa/Thương người rồi mới thương ta/Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”. Qua lời khẳng định này, tôi cảm nhận được giá trị, ý nghĩa của mỗi câu chuyện cổ. Tất cả đều hướng con người đến lối sống hướng thiện, có tình, có nghĩa. Và từ đó, chuyện cổ đã trở thành hành trang theo mỗi người bước vào cuộc sống: “Mang theo chuyện cổ tôi đi/Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa/Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa/Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi”.
Không dừng lại ở đó, chuyện cổ đã trở thành một sợi dây gắn kết các thế hệ với nhau:
“Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn chuyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
Lâm Thị Mỹ Dạ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “Đời cha ông với đời tôi/ Như con sông với chân trời đã xa” nhằm góp phần diễn tả sự xa cách, khác biệt của thế hệ trước và sau cũng giống như khoảng cách giữa con sông với chân trời. Và dù có trải qua hàng nghìn năm, thế hệ “người xưa” đã đi xa nhưng những câu chuyện cổ sẽ mãi, trở thành phương tiện để con cháu ngày nay tìm hiểu về phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt của cha ông mình.
Khi đọc đến những câu thơ tiếp theo, tôi bỗng nhớ về những truyện cổ tích đã rất quen thuộc:
“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì
Tôi nghe chuyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau
Đậm đà các tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”
Mỗi câu chuyện lại lồng ghép một bài học giá trị, nhằm khuyên nhủ con người về cách cư xử trong cuộc sống. Khi nhắc đến “thị thơm giấu người thơm”, chúng ta nhớ ngay đến truyện “Tấm Cám” với hình ảnh cô Tấm xinh đẹp, hiền từ. Từ “thơm” muốn nói về những người có phẩm chất tốt đẹp với tấm lòng thảo thơm. Không những vậy, chuyện cổ còn giáo dục con người về thái độ “ba phải”, không có chủ kiến qua câu “Đẽo cày theo ý người ta/Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”. Hay lời răn dạy về lối sống tình nghĩa, thủy chung qua tích “trầu cau”.
Đến với những câu thơ cuối cùng, tác giả đã khẳng định một lần nữa giá trị của chuyện cổ:
“Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm.”
Bốn dòng thơ muốn khẳng định giá trị của chuyện cổ sẽ còn mãi. Đồng thời, tác giả muốn gửi gắm rằng mỗi người hãy biết lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị đẹp đẽ mà cha ông để lại.
Bài thơ đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, giúp tôi thêm yêu quý, trân trọng chuyện cổ.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã giúp người đọc hiểu hơn về giá trị của những câu chuyện cổ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình yêu dành cho “chuyện cổ nước mình”:
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì"
Không chỉ chứa đựng những giá trị nhân văn cao đẹp, mà chuyện cổ còn gửi gắm bài học làm người. Đó là tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành.
Những câu chuyện cổ đã là sợi dây vô hình liên kết giữa hai thế hệ, giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về thế hệ đi trước:
“Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn chuyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
Đọc đến những câu thơ tiếp theo, chúng ta nhớ đến rất nhiều truyện cổ tích quen thuộc:
“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì
Tôi nghe chuyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau
Đậm đà các tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”
Nhắc đến “thị thơm giấu người thơm”, mỗi người sẽ nhớ ngay đến truyện cổ tích “Tấm Cám” với hình ảnh cô Tấm xinh đẹp, hiền từ. Hay câu thơ “Đẽo cày theo ý người ta/Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì” là muốn phê phán những người không có chính kiến sẽ không thể làm nên việc. Cùng với đó, tác giả cũng ca ngợi lối sống thủy chung, tình nghĩa của ông cha ta qua sự tích “trầu cau”, miếng đỏ thắm tình người sâu nặng. Đó là bài học vô cùng quý giá cho mỗi người trong cuộc sống.
Cuối cùng, nhà thơ khẳng định “chuyện cổ” đã trở thành một hành trang quan trọng trong cuộc sống. Và những câu chuyện cổ gửi gắm bài học nhân văn sâu sắc chắc chắn sẽ còn mãi với thời gian.
Như vậy, bài thơ Chuyện cổ nước mình giúp người đọc nhận ra những bài học ý nghĩa, sâu sắc.
Đoạn văn mẫu số 4
Một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam là Lâm Thị Mỹ Dạ. Khi đọc bài thơ “Chuyện cổ nước mình”, người đọc đã hiểu thêm về giá trị của những câu chuyện cổ nước mình.
Nhà thơ đã bộc lộ một cách trực tiếp cho người đọc thấy được tình yêu dành cho chuyện cổ:
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”
Tác giả đã ngợi ca “chuyện cổ” vừa “nhân hậu, lại tuyệt vời sâu xa”. Bởi đó là nơi để ông cha ta gửi gắm những bài học cho con cháu mai sau. Lối sống tình nghĩa thủy chung hay sống hiền lành, nhân hậu thật đáng quý biết bao. Những câu chuyện cổ còn là sợi dây gắn kết giữa thế hệ trước và thế hệ sau:
“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
Trong hành trình của cuộc sống, “tôi” có được những câu chuyện cổ là hành trang vô cùng hữu ích. Tác giả đã giúp người đọc hiểu hơn về quá khứ của dân tộc mình. Thời gian qua có thể trải qua hàng thế kỉ, nhưng những câu chuyện cổ thì vẫn còn được kể lại từ đời này qua đời khác.
Những câu thơ ngắn gọn nhưng giúp người đọc hình dung ra về truyện cổ tích với chàng Thạch Sanh thông minh, cô Tấm hiền lành hay anh chàng đẽo cày giữa đường…
“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang.
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”
Thông qua những hình ảnh đó, tác giả muốn gửi gắm cho người đọc một bài học quen thuộc nhưng quan trọng: “Ở hiền gặp lành”. Cách sống của người dân Việt Nam từ ngàn đời này.
“Chuyện cổ nước mình” đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa”trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ. Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh quen thuộc, ngôn ngữ giản dị để giúp người đọc hiểu hơn về “chuyện cổ”.
Đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích chuyện cổ nước mình. Người đọc cảm thấy vô cùng thích thú khi đọc bài thơ này.
Đoạn văn mẫu số 5
“Chuyện cổ nước mình” Lâm Thị Mỹ Dạ đưa người đọc bước vào thế giới của những câu chuyện cổ. Từ đó, mỗi người sẽ thêm yêu mến hơn kho tàng văn học quý giá của nước mình.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu được rằng chuyện cổ là những câu chuyện được lưu truyền từ thời xa xưa. Ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình yêu dành cho “chuyện cổ nước mình”:
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”
Bởi những câu chuyện đó đem đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành. Tất cả chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời.
Những câu thơ tiếp theo, Lâm Thị Mỹ Dạ sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong những câu chuyện cổ. Người đọc thấy hiện ra trước mắt mình là hình ảnh Thạch Sanh dũng cảm, cô Tấm hiền lành, hay anh chàng đẽo cày giữa đường… Những câu chuyện đó đều gửi gắm một bài học của ông cha ta dành cho con cháu:
"Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.
Đậm đà cái tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người.
Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm”
Nhà thơ khẳng định “chuyện cổ” đã trở thành hành trang quan trọng trong cuộc sống. Và những câu chuyện cổ gửi gắm bài học nhân văn sâu sắc chắc chắn sẽ còn mãi với thời gian.
Chuyện cổ nước mình giúp người đọc nhận ra những bài học ý nghĩa. Với lời thơ giản dị, giọng điệu sâu lắng - bài thơ quả là một tác phẩm ý nghĩa.
Đoạn văn mẫu số 6
Một trong những bài thơ mà em cảm thấy vô cùng yêu thích là “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ. Câu thơ mở đầu là lời bộc lộ một cách trực tiếp cho tình yêu dành cho chuyện cổ: “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi”. Cùng với đó, tác giả đã ca ngợi “chuyện cổ” vừa “nhân hậu, lại tuyệt vời sâu xa”. Bởi đó là nơi để ông cha ta gửi gắm những bài học quý giá cho con cháu. Em đã thấy được lối sống tình nghĩa thủy chung hay hiền lành, nhân hậu thật đáng quý. Bên cạnh đó, những câu chuyện cổ còn là sợi dây gắn kết giữa thế hệ trước và thế hệ sau. Nhà thơ còn khắc họa thế giới cổ tích qua hình ảnh về chàng Thạch Sanh thông minh, cô Tấm hiền lành hay là anh chàng đẽo cày giữa đường… để từ đó truyền tải bức thông điệp: “Ở hiền gặp lành”. “Chuyện cổ nước mình” đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa” trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ. Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh quen thuộc, ngôn ngữ giản dị để giúp người đọc hiểu hơn về “chuyện cổ”. Đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích chuyện cổ nước mình.
Đoạn văn mẫu số 7
“Chuyện cổ nước mình” của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã đưa tôi vào thế giới diệu kì của những câu chuyện cổ. Ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình yêu dành cho “chuyện cổ nước mình”. Bởi những câu chuyện đó đem đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành. Tất cả chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời. Tiếp theo, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong những câu chuyện cổ. Người đọc thấy hiện ra trước mắt mình là hình ảnh Thạch Sanh dũng cảm, cô Tấm hiền lành, hay anh chàng đẽo cày giữa đường… Những câu chuyện đó đều gửi gắm một bài học của ông cha ta dành cho con cháu. Cuối cùng, nhà thơ khẳng định rằng “chuyện cổ” đã trở thành hành trang quan trọng trong cuộc sống. Với lời thơ giản dị, giọng điệu sâu lắng - bài thơ quả là một tác phẩm ý nghĩa. Khi đọc bài thơ, tôi đã nhận ra được nhiều điều ý nghĩa.
Đoạn văn mẫu số 8
Đến với bài thơ “Chuyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ đưa người đọc bước vào thế giới của những câu chuyện cổ. Tác giả đã cho thấy những câu chuyện cổ đem đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc hay ở hiền gặp lành. Và trong hành trình của cuộc sống, “tôi” có được những câu chuyện cổ là hành trang vô cùng hữu ích. Tác giả đã giúp người đọc hiểu hơn về quá khứ của dân tộc mình. Thời gian qua có thể trải qua hàng thế kỉ, nhưng những câu chuyện cổ thì vẫn còn được kể lại từ đời này qua đời khác. Những câu chuyện cổ đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa” trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ. Khi đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích những câu chuyện cổ nước mình.
Đoạn văn mẫu số 9
Đoạn văn mẫu số 10
Một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam là Lâm Thị Mỹ Dạ. Khi đọc bài thơ “Chuyện cổ nước mình”, người đọc đã hiểu thêm về giá trị của những câu chuyện cổ nước mình. Nhà thơ đã bộc lộ một cách trực tiếp cho người đọc thấy được tình yêu dành cho chuyện cổ:
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”
Tác giả đã ngợi ca “chuyện cổ” vừa “nhân hậu, lại tuyệt vời sâu xa”. Bởi đó là nơi để ông cha ta gửi gắm những bài học cho con cháu mai sau. Lối sống tình nghĩa thủy chung hay sống hiền lành, nhân hậu thật đáng quý biết bao. Những câu chuyện cổ còn là sợi dây gắn kết giữa thế hệ trước và thế hệ sau:
“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
Trong hành trình của cuộc sống, “tôi” có được những câu chuyện cổ là hành trang vô cùng hữu ích. Tác giả đã giúp người đọc hiểu hơn về quá khứ của dân tộc mình. Thời gian qua có thể trải qua hàng thế kỉ, nhưng những câu chuyện cổ thì vẫn còn được kể lại từ đời này qua đời khác.
Những câu thơ ngắn gọn nhưng giúp người đọc hình dung ra về truyện cổ tích với chàng Thạch Sanh thông minh, cô Tấm hiền lành hay anh chàng đẽo cày giữa đường…
“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang.
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”
Thông qua những hình ảnh đó, tác giả muốn gửi gắm cho người đọc một bài học quen thuộc nhưng quan trọng: “Ở hiền gặp lành”. Cách sống của người dân Việt Nam từ ngàn đời này.
“Chuyện cổ nước mình” đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa”trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ. Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh quen thuộc, ngôn ngữ giản dị để giúp người đọc hiểu hơn về “chuyện cổ”.
Đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích chuyện cổ nước mình. Người đọc cảm thấy vô cùng thích thú khi đọc bài thơ này.
Đoạn văn mẫu số 11
“Chuyện cổ nước mình” Lâm Thị Mỹ Dạ đưa người đọc bước vào thế giới của những câu chuyện cổ. Từ đó, mỗi người sẽ thêm yêu mến hơn kho tàng văn học quý giá của nước mình.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu được rằng chuyện cổ là những câu chuyện được lưu truyền từ thời xa xưa. Ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình yêu dành cho “chuyện cổ nước mình”
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”
Bởi những câu chuyện đó đem đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành. Tất cả chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời.
Những câu thơ tiếp theo, Lâm Thị Mỹ Dạ sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong những câu chuyện cổ. Người đọc thấy hiện ra trước mắt mình là hình ảnh Thạch Sanh dũng cảm, cô Tấm hiền lành, hay anh chàng đẽo cày giữa đường… Những câu chuyện đó đều gửi gắm một bài học của ông cha ta dành cho con cháu:
"Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.
Đậm đà cái tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người.
Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm”
Nhà thơ khẳng định “chuyện cổ” đã trở thành hành trang quan trọng trong cuộc sống. Và những câu chuyện cổ gửi gắm bài học nhân văn sâu sắc chắc chắn sẽ còn mãi với thời gian.
Chuyện cổ nước mình giúp người đọc nhận ra những bài học ý nghĩa. Với lời thơ giản dị, giọng điệu sâu lắng - bài thơ quả là một tác phẩm ý nghĩa.
Đoạn văn mẫu số 12
Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Bài thơ “Chuyện cổ nước mình” đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về những câu chuyện cổ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ tình yêu với chuyện cổ của đất nước. Đó là những câu chuyện giàu giàu giá trị nhân văn cao đẹp. Những câu chuyện cổ thể hiện tình người rộng lớn. Đặc biệt là triết lý sống “ở hiền gặp lành” là điều khiến cho nhà thơ phải “yêu” và quý trọng:
“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”
Những câu chuyện cổ còn là sợi dây gắn kết giữa thế hệ trước và thế hệ sau:
“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
Nhân vật trữ tình trong bài thơ lớn lên từ những câu chuyện cổ qua lời kể của bà, của mẹ. Trên hành trình vô tận của cuộc sống, “tôi” có được những câu chuyện cổ là hành trang để khám phá cuộc sống. Không chỉ vậy, những nét phong tục tập quán, phẩm chất đạo đức của ông cha còn được gửi gắm trong mỗi câu chuyện. Để rồi, “tôi” như hiểu thêm về con người, quê hương và đất nước trong quá khứ. Thời gian qua có thể trải qua hàng thế kỉ, nhưng những câu chuyện cổ thì vẫn còn được kể lại từ đời này qua đời khác. Và đó chính là sợi dây kết nối giữa ông cha với con cháu.
Nhưng không chỉ vậy, những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ còn gợi nhắc về hình ảnh những nhân vật trong truyện cổ tích
“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang.
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”
Đó là anh chàng hiền lành được ông bụt giúp đỡ với câu thần chú: “Khắc nhập! Khắc xuất” để có được vợ đẹp trong Cây tre trăm đốt. Người em cần cù, trung hậu được con chim đền đáp để có được cuộc sống hạnh phúc hay người anh tham lam mà chết chìm xuống đáy biển trong truyện “Cây khế”. Còn cả chàng Thạch Sanh được thần tiên phù trợ mà trở nên võ nghệ cao cường, giết chết chằn tinh, bắn đại bàng và có đàn thần để lùi giặc; ngược lại Lí Thống độc ác, gian xảo đã bị trừng trong truyện Thạch Sanh. Câu chuyện cô Tấm trải qua biết bao nhiêu lần hóa kiếp, cuối cùng từ quả thị bước ra trở lại làm người… Tất cả đã chứng minh cho triết lí sống “ở hiền gặp lành”. Những câu chuyện cổ đã giúp cho “tôi” hiểu rõ về những lời dạy dỗ của ông cha:
“Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.
Đậm đà cái tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người.
Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm”
Chuyện cổ nước mình đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa” trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ.
Khi đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích chuyện cổ nước mình.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 6 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Cảm nghĩ nhân vật em bé thông minh
Cảm nhận đoạn thơ: Đời cha ông với đời tôi
Suy nghĩ truyện Non-bu và Heng-bu