TOP 12 Đoạn văn Giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô (2024) HAY NHẤT

1900.edu.vn xin giới thiệu đoạn văn Giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô lớp 10 Cánh diều gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 10 hay hơn. Mời bạn đọc tham khảo

Giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô 

Đề bài: Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8-10 dòng) nêu ý kiến của em về giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), trong đoạn văn đó có sử dụng biện pháp liệt kê.

Viết đoạn văn nêu ý kiến về giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô

Một số đoạn văn mẫu hay: Giọng văn hào hùng của Đại cáo bình Ngô

Mẫu số 1

Trong đoạn 1 của bài thơ “Đại cáo bình Ngô” chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện rất rõ ràng. Nguyễn Trãi đã cất giọng, khẳng khái xưng danh hiệu tên nước: “Như nước Đạ Việt ta từ trước” và khẳng định: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đúng thế, đây là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một nền văn hiến đã rất lâu đời, có những “phong tục” tập quán rất riêng không trùng lặp với bất cứ quốc gia nào khác, và quan trọng hơn nữa, đã bao thế kỉ qua, nó vẫn cứ tồn tại bình đẳng và đầy kiêu hãnh bên cạnh cách triều đại của các hoàng đế Trung Hoa. Bên cạnh những giá trị nội dung khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi sử dụng giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lý lẽ sắc bén, đanh thép và và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.

Mẫu số 2

Trong "Đại cáo bình Ngô", Nguyễn Trãi đã có những lời lẽ, giọng điệu hết sức hào hùng. Đề cập tới truyền thống văn hóa, chủ quyền của đất nước, ông dùng giọng điệu chắc nịch, hùng hồn. Tiếp đến, khi phơi bày sự độc ác của giặc Minh, giọng điệu chuyển sang căm thù. Cuối cùng, để khắc họa những chiến thắng mà quân ta giành được, giọng văn lại vô cùng mạnh mẽ, đanh thép và tràn đầy khí thế. Qua đây, ta càng thêm ngưỡng mộ, nể phục tài năng nghệ thuật đỉnh cao của Nguyễn Trãi. Theo thời gian, tác phẩm "Đại cáo bình Ngô" sẽ sống mãi trong tâm tưởng mỗi người dân Việt Nam bởi các giá trị nhân văn, tốt đẹp.

=> Biện pháp liệt kê: mạnh mẽ, đanh thép và tràn đầy khí thế.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là áng thiên cổ hùng văn (7 mẫu) - Văn 10

Mẫu số 3 

Trong tác phẩm "Đại cáo bình Ngô", Nguyễn Trãi đã sử dụng linh hoạt nhiều giọng điệu. Trước hết, ngay ở phần mở đầu, tác giả dùng lí lẽ, giọng điệu hùng hồn để khẳng định về tư tưởng nhân nghĩa, nền độc lập dân tộc và truyền thống văn hóa của nước ta. Tiếp đến, khi tố cáo tội ác kẻ thù, giọng văn thay đổi thành căm tức. Tái hiện chiến thắng dồn dập của nghĩa quân, tác giả lại sử dụng giọng điệu đanh thép, mạnh mẽ, sôi nổi. Hay trong phần kết bài cáo, giọng điệu chuyển thành trầm ngâm, chất chứa bao suy tư. Có thể nói, bằng ngòi bút tài hoa cùng giọng văn hào hùng, Nguyễn Trãi đã mang đến một tác phẩm giàu ý nghĩa và giá trị.

Mẫu số 4

Top 3 Bài phân tích nghệ thuật lập luận của Bình Ngô đại cáo (Ngữ văn 10)  hay nhất - Toplist.vn

Là một áng văn lưu danh thiên cổ khi nó tổng kết lại quá trình kháng chiến chống quân Minh xâm lược trong mười năm của nghĩa quân lam Sơn. Đồng thời, bài cáo còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của quân và dân, truyền thống bảo vệ nền độc lập dân tộc bất khuất và tinh thần nhân nghĩa, vì nhân dân, vì con người xuyên suốt cả tác phẩm. Với bút pháp chính luận kết hợp với trữ tình qua giọng văn truyền cảm, mạnh mẽ, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, được người đọc ca tụng muôn đời. Bài cáo được viết bằng lối văn biền ngẫu thông dụng, dùng để thông báo, tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia, của dân tộc.

Mẫu số 5

Sau khi đọc "Đại cáo bình Ngô", em vô cùng ấn tượng với giọng văn hào hùng, đanh thép của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã khéo léo kết hợp nhiều giọng điệu để phù hợp với từng nội dung trong bài cáo. Đó là giọng điệu hùng hồn khi nhắc tới tư tưởng nhân nghĩa, nền văn hiến và chủ quyền dân tộc. Hay còn là giọng mạnh mẽ, sôi nổi khi nói về những chiến thắng vẻ vang, lẫy lừng của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đã góp phần tô đậm, khẳng định ý chí, khí thế và sức mạnh của người Việt. Qua đây, em càng thêm yêu mến, tự hào và trân trọng những áng văn hào hùng như "Đại cáo bình Ngô".

=> Biện pháp liệt kê: ý chí, khí thế và sức mạnh.

Mẫu số 6

"Đại cáo bình Ngô" là một trong số những tác phẩm lấp lánh chủ nghĩa yêu nước sâu sắc của Nguyễn Trãi. Bắt nguồn từ niềm tự hào dân tộc, từ sức mạnh làm nên chiến thắng, chất hào hùng trong Bình Ngô đại cáo đã trở thành một biểu tượng tinh thần của một thời đại đấu tranh bảo vệ chủ quyền của quốc gia Đại Việt. Khi nói về tư tưởng nhân nghĩa và độc lập, chủ quyền dân tộc bằng giọng điệu khẳng định chắc nịch, hùng hồn. Còn khi nói cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, những chiến công của quân ta giọng điệu của Nguyễn Trãi một lần nưã thể hiện sự đanh thép, hùng hồn, mạnh mẽ cùng với lòng tự hào khi nói về sự thất bại nhục nhã, thảm hại của kẻ thù giọng điệu mỉa mai châm biếm. Qua đó, ta thấy được Đại cáo bình Ngô dưới ngòi bút, sự tài năng của Nguyễn Trãi, lột tả được cuộc kháng chiến chính nghĩa, hào hùng, thấy được tấm lòng nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Mẫu số 7

Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.

Mẫu số 8

Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi là một tác phẩm sâu khắc khẳng định nền độc lập của dân tộc. Không khác một bản tuyên ngôn sau chiến thắng, giọng điệu của tác phẩm thể hiện rõ khí khái của bên chiến thắng, cũng là niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Nguyễn Trãi đã thay đổi rất nhiều giọng điệu trong tác phẩm, và chúng đều được vận dụng một cách khéo léo, linh hoạt. Khi nói về cuộc sống của người dân trong những năm Bắc thuộc, tác giả dùng giọng điệu đau thương, khi khẳng định chủ quyền, ông lại dùng sự hùng hồn, chắc nịch. Khi nghĩa quân Lam Sơn khởi nghĩa, giọng văn lại thay đổi thành đanh thép, mạnh mẽ. Và cuối cùng, với thắng lợi giành được, ông cũng thể hiện sự mỉa mai với những thất bại của quân thù. Qua tất cả, Nguyễn Trãi tự hào khẳng định lại chủ quyền của dân tộc, cũng nêu lên được quyền bất khả xâm phạm của một dân tộc. Nguyễn Trãi đã dùng vô cùng nhuần nhuyễn giọng điệu hào hùng trong tác phẩm Đại cáo bình Ngô. Nó được thể hiện rõ ràng qua những đoạn khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện niềm tự hào với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và niềm hân hoan chiến thắng trong ngày độc lập. Giọng văn ấy thấm sâu vào tâm trí người đọc, dẫn dắt những cảm xúc người đọc đi theo những hoàn cảnh trong từng phần. Bởi không chỉ có những lúc tự hào, có nhiều đoạn tác giả còn thể hiện những nét biểu cảm khác như niềm thương xót cuộc sống người dân hoặc sự mỉa mai, khinh bỉ trước sự thất bại của kẻ thù. Tóm lại, trong tác phẩm, giọng văn chủ đạo là giọng văn hào hùng, đây cũng là điều quan trọng và cần thiết.

Mẫu số 9

Bằng ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng giọng văn hào hùng và đanh thép để tạo nên một tác phẩm đi vào lịch sử. Những chi tiết được sử dụng nhiều nhất giọng văn này là phần khẳng khẳng định chủ quyền của dân tộc, ca ngợi thắng lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Giọng văn này được sử dụng rất đúng thời điểm, có tác dụng góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của Bình Ngô đại cáo. Nhờ đó, người đọc sau này khi đọc tác phẩm, có thể dễ dàng cảm nhận được những niềm tự hào mà người xưa gửi vào văn thơ.

Mẫu số 10 

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi như một bản tuyên ngôn sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng. Ông dùng giọng điệu hào hùng làm chủ đạo, những tuyên bố đều trở nên đúng đắn và thấm vào suy nghĩ của người đọc. Cũng nhờ chất văn, tác phẩm có tác động đến tư tưởng của những người đọc, để mọi người thấy được những khó khăn của nhân dân, những hy sinh và cả khó khăn phải trải qua trong cuộc kháng chiến này. Thắng lợi đến không dễ, cuối bài Nguyễn Trãi cũng một lần nữa dùng giọng điệu khẳng định chủ quyền, nền độc lập của đất nước.

Mẫu số 11

Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Cuộc đời ông gắn liền với những sự kiện trọng đại như khởi nghĩa Lam Sơn, vụ án "Lệ Chi viên" đến nay vẫn còn là một uẩn khúc lớn trong lịch sử,… Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại một tác phẩm được mệnh danh là "Bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai" của dân tộc: Bình Ngô Đại cáo Có ý kiến cho rằng, đây là một áng "thiên cổ hùng văn", khẳng định chân lý và sự thật hiển nhiên về vấn đề chủ quyền nước ta lúc bấy giờ bằng những lý lẽ và dẫn chứng vô cùng chặt chẽ và đầy tính thuyết phục.

Ra đời năm 1427, Bình Ngô Đại cáo là bài báo cáo được viết bởi Nguyễn Trãi, thay lời Bình Định vương Lê Lợi, tuyên cáo nhằm chấm dứt cuộc kháng chiến chống nhà Minh, giành độc lập cho nước Đại Việt. "Thiên cổ hùng văn" là áng văn chương hùng tráng lưu truyền muôn đời và có giá trị lịch sử tối quan trọng. Trong văn học Trung đại, đã có những áng văn cũng được viết bằng thể loại chính luận với mục đích trình tâu, báo cáo. Cho đến "Bình ngô Đại cáo", được đánh giá là mang tính hùng tráng ở cả giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. Sử dụng "cáo" – thể loại văn chương chính luận được dùng trong triều đình, mục đích để vua chúa công bố những quyết định, sự kiện trọng đại với toàn thể nhân dân, đòi hỏi lời lẽ sắc bén, dẫn chứng đầy đủ, hợp tình hợp lý, giàu sức thuyết phục. Trên cơ sở đó, xét về thực tế và lý thuyết, "Bình Ngô Đại cáo đáp ứng đủ tất cả mọi mặt khi có ý nghĩa mang tầm quốc gia, khẳng định chủ quyền của toàn dân tộc, chính thức đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. "Bình Ngô" nghĩa là đuổi hết được giặc Trung Quốc, lúc bấy giờ là thời nhà Minh, sự kiện này được thông cáo cho toàn thể dân chúng biết, đồng thời chính thức xác nhận "Đại Việt" là quốc gia tự lực tự quyền. Như vậy, xét về dung lượng, đây là áng văn chính luận có quy mô lớn nhất từ trước đến thời Lê, xét về nội dung, đây là dấu mốc lịch sử quan trọng bậc nhất, xứng đáng là một áng "thiên cổ hùng văn", áng văn chương oai hùng được trời đất chứng giám, lưu truyền cho con cháu muôn đời.

Bình Ngô Đại cáo là áng "thiên cổ hùng văn" về mặt tư tưởng. Tư tưởng nhân nghĩa luôn là nguồn cảm hứng cũng như kim chỉ nam vững chắc trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi. Thơ văn của ông luôn có tính nhân đạo, xét đến cùng cũng là để phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần con người, khát khao được dẹp loạn, bình trị thiên hạ, nhân dân được sống no đủ, yên bình:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nếu các bậc tiền bối đều lấy vua chúa, tướng lĩnh làm cốt lõi của những vấn đề chính trị, triều đình thì Nguyễn Trãi đã nhìn nhận ra vấn đề một cách khái quát, dám lên tiếng một cách dõng dạc và khảng khái, khẳng định giá trị của nhân dân trong công cuộc bình thiên hạ. "Việc nhân nghĩa" nằm ở chỗ nhân dân được thuận hòa, ấm no, nhân dân sống yên ổn ắt sẽ phát triển kinh tế, xã hội,… Đề cao giá trị nhân dân, giá trị con người, Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần nhân nghĩa, tư tưởng tiến bộ, cái nhìn khách quan, nhìn xa trông rộng, hướng tới nhân dân để xây dựng cốt lõi chính quyền, khẳng định tầm quan trọng của cộng đồng với sự tồn vong của dân tộc.

Không phải ngẫu nhiên mà "Bình Ngô Đại cáo" được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Nguyễn Trãi đã tuyên bố một cách hùng hồn về độc lập và chủ quyền dân tộc trên mọi khía cạnh, từ lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Nguyễn Trãi gọi nước ta là "nước Đại Việt" để khẳng định chủ quyền dân tộc. Đối lập với âm mưu muốn biến nước ta trở thành một quận của quân Minh, ông dõng dạc tuyên bố Đại Việt là một "nước", một quốc gia độc lập, có "nền văn hiến đã lâu", có lãnh thổ được xác định "núi sông bờ cõi đã chia", có "phong tục Bắc Nam",… Đặc biệt, tác giả gọi những bậc vua chúa của Đại Việt là "Đế", sáng ngang với các triều đại của đế quốc Trung Hoa, thể hiện niềm tự hào, tự tôn của dân tộc. Tác giả đặt Đại Việt ngang hàng với Trung Quốc vừa là lời khẳng định rắn chắc về bờ cõi bất khả xâm phạm, vừa khéo léo đả kích, lên án sự xâm lược vô căn cứ của giặc phương Bắc. Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố chính thức độc lập được xác lập, đồng thời nói lên tâm trạng của nhân dân, niềm tự hào của quần chúng khi trở thành công dân của một nước độc lập. Tất cả các yếu tố, từ chủ quyền, tập quán, bản sắc dân tộc, những anh hùng hào kiệt,… Đại Việt đều hoàn toàn có thể sánh vai với nước bạn Trung Quốc, không có cớ gì Trung Quốc có quyền xâm lăng và đô hộ nước ta.

Như vậy, "Bình Ngô Đại cáo" là văn kiện lịch sử chính thức khai sinh ra nước Đại Việt độc lập, có giá trị ngang với bản Tuyên ngôn độc lập ngày nay. Tính "thiên cổ hùng ca" thể hiện ở giọng điệu đanh thép và lời khẳng định khẳng khái, cơ sở lập luận, dẫn chứng đầy đủ, quyết định một sự kiện trọng đại của lịch sử, truyền đời cho con cháu đời sau về công dựng nước và giữ nước của thế hệ cha ông

"Bình Ngô Đại cáo" còn là lời tố cáo đanh thép về những tội ác tày trời của kẻ thù với toàn thể dân tộc ta, qua đó, tác giả ca ngợi vị lãnh tụ Lê Lợi anh minh, dũng cảm, kêu gọi nhân dân đoàn kết, hiếu trung với tổ quốc. Trước những hành động lừa lọc, nhơ bẩn mà quân Minh đã làm, thái độ của Nguyễn Trãi tỏ rõ sự căm thù, phẫn uất.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
.....
Ai bảo thần nhân chịu được?

Tác giả không ngại ngần liệt kê những tội ác của quân thù "bán nước cầu vinh", "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn", " vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ", "dối trời lừa dân", ép nhân dân xuống biển "mò ngọc", bắt sản vật quý hiếm bất chấp hiểm nguy đến cả tính mạng, "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", giết chóc không ghê tay, gây bao cảnh nhà tan cửa nát, trẻ mất cha, mẹ mất con, vợ mất chồng,… Những tội ác nhơ nhuốc ấy của quân thù, chẳng có nước sông nào gột rửa nổi, lòng dân ai oán ngút trời. Thực tại đất nước lúc đó lâm vào cảnh khốn cùng, kinh tế kiệt quệ, quân thù ngang nhiên vơ vét, sát hại người dân, tàn phá tài nguyên thiên nhiên, môi trường. "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", " nước Đông Hải không rửa sạch mùi", Nguyễn Trãi thể hiện thái độ ghê tởm, lên án gay gắt những hành động man rợ, tàn ác giặc Minh đã vơ vét nước ta. Đó chính là động lực, là cơ sở gợi lên sự căm thù của nhân dân, dấy lên ngọn lửa yêu nước, sẵn sàng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược.

"Bình Ngô Đại cáo" trở thành một bản hùng ca oai phong, lẫm liệt với những chiến công hiển hách mà quân và dân ta đã làm được. Trước hết, tác giả nêu rõ những sự thất bại ê chề, nhục nhã của giặc khi lăm le xâm lược lãnh thổ Đại Việt:

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi

Hàng loạt những tội ác gắn với những cái tên cầm đầu quân xâm lược như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã cùng với những địa điểm, cột mốc đánh dấu như Cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Liệt kê như vậy cốt để lên án sự bất nhân, vô cớ xâm lược từ phía Trung Quốc, gợi lại những nỗi đau thương mất mát trong lòng người dân để từ đó răn dạy, cảnh tỉnh nhân dân luôn một lòng đoàn kết chiến đấu chống giặc, trung thành với đất nước, với triều đình. Tác giả cũng khẳng định sự tự hào với những chiến công hiển hách của người anh hùng Lê Lợi, người anh hùng áo vải chiến đấu quên thân mình vì độc lập, tự do của dân tộc. Lê Lợi cũng là người đã khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng vang dội. Ca ngợi Lê Lợi bằng những mĩ từ như "tuấn kiệt", "sao buổi sớm" với tấm lòng cứu nước mãnh liệt, "đăm đăm muốn tiến về Đông" để tìm ra con đường cứu giúp dân chúng, thay đổi vận mệnh dân tộc. Nhắc đến Lê Lợi là nhắc đến vị lãnh đạo hoài bão lớn lao, khát khao được trừ ác giúp dân, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy thiếu thống, vất vả nhưng cuối cùng vẫn giành thắng lợi vẻ vang. Thậm chí, khi quân Minh thua cuộc rút về nước, Lê Lợi còn cấp cho ngựa đi đường bộ, cấp thuyền vượt biển về nước, thể hiện tấm lòng nhân văn sâu sắc, yêu thương con người, cầu tiến, cầu hòa bình, êm ấm. Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng của nhân dân, kết tinh bởi tất cả những nhân cách tốt đẹp và ý chí oai hùng của người dân Đại Việt.

Với những dẫn chứng xác thực, cụ thể, nêu thẳng mặt, vạch thẳng tên cùng lập luận chặt chẽ, lớp lang cùng cấu trúc bốn phần lần lượt, khẳng định nhân nghĩa, độc lập dân tộc Đại Việt, tố cáo tội ác quân thù và tuyên bố độc lập nước nhà qua chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa, "Bình Ngô Đại cáo" xứng đáng trở thành bản "Thiên cổ hùng ca". Xét trên phương diện lịch sử, đây là bản ghi chép sử bằng văn học đầy đủ, thuyết phục, thuật lại thực tiễn một cách khách quan, vạch trần bộ mặt giả dối, ác độc của giặc Minh. Về phương diện văn học, đây là áng văn chính luận được tổ chức hợp lý với hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng đủ đầy, ngắn gọn, hàm súc. Các thủ pháp nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt đã tạo nên âm hưởng hoành tráng, hào hùng, đúng phong thái của một bản "đại cáo" được lưu truyền cho muôn đời sau.

"Bình Ngô Đại cáo" đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỉ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi. Áng "Thiên cổ hùng văn" quyết định của cả một quốc gia, dân tộc, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kì Trung Đại.

Mẫu số 12

Điều ấn tượng nhất đối với độc giả khi đọc tác phẩm Bình Ngô đại cáo chính là giọng văn của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã khéo léo lồng ghép nhiều cảm xúc và giọng điệu của mình vào tác phẩm để khiến người đọc thêm hiểu rõ về những thời kỳ của cuộc sống nhân dân. Những tuyên bố, khẳng định chắc nịch của ông khiến cho những điều ông nói trở thành những điều tất yếu trong hiện thực. Vậy nên, chúng ta cũng hiểu được rằng, cuộc chiến khi ấy là cuộc chiến trang có nghĩa đem lại hòa bình, cuộc khởi nghĩa thắng lợi trong bao niềm mong đợi của nhân dân.

Xem thêm các bài văn mẫu 10 cánh diều khác :

So sánh tính cách của Trương Phi và Quan Công

Vấn đề đặt ra trong Người ở bến sông Châu

Lễ hội Ok Om Bok là gì

Viết một đoạn văn với câu chủ đề: Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn mang một nỗi buồn man mác như chính nỗi niềm

Phân tích chi tiết em thấy ấn tượng nhất trong truyện Nữ Oa

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!