Giới thiệu ca dao Việt Nam
Đề bài: Viết đoạn văn giới thiệu về ca dao Việt Nam.
I. Dàn ý:
1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về ca dao Việt Nam
2. Thân bài:
– Trình bày định nghĩa về ca dao
– Giới thiệu những đặc điểm chính của ca dao Việt Nam
– Giới thiệu những nội dung lớn của ca dao Việt Nam.
– Giới thiệu những nét đặc sắc về nghệ thuật của ca dao Việt Nam.
– Đánh giá về vai trò và tác dụng của ca dao Việt Nam trong nền văn học của dân tộc và trong đời sống mọi người.
3. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của ca dao.
II. Một số đoạn văn mẫu hay:
Đoạn văn mẫu số 1
Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam được kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người Việt Nam. Ca dao Việt Nam ra đời từ rất sớm, được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo nhịp điệu nhất định. Ca dao bao quát và phản ánh phạm vi rất rộng của cuộc sống con người bao gồm cả nghi lễ, phong tục tập quán, đời sống gia đình, cộng đồng, những nét đẹp đạo đức lối sống và cả kinh nghiệm sống quý báu. Đối tượng của ca dao đa dạng và phổ biến ở tất cả lứa tuổi, nhưng trong mỗi đề tài khác nhau thì nhân vật trữ tình lại khác nhau. Ca dao viết về gia đình, nhân vật trữ tình là người mẹ, người vợ... Ca dao viết về tình yêu trai gái, nhân vật trữ tình là chàng trai và cô gái... Ca dao có những đặc điểm nghệ thuật truyền thống. Thể thơ được sử dụng chủ yếu trong ca dao là thể thơ của dân tộc - lục bát và lục bát biến thể. Ca dao thường ngắn gọn, hàm súc, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ và nhiều hình ảnh biểu tượng. Trong ca dao thường xuất hiện hình thức lặp lại: lặp kết cấu, lặp từ, cụm từ, hình ảnh, đôi khi lặp cả dòng thơ. Ngôn từ sử dụng trong ca dao thường trong sáng, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, đậm đà màu sắc dân tộc và địa phương. Ca dao được chia thành nhiều mảng với nội dung, đối tượng phản ánh khác nhau như ca dao yêu thương, tình nghĩa bao gồm tình cảm gia đình cha mẹ, con cái, vợ chồng; tình yêu đôi lứa, yêu quê hương, đất nước, ca ngợi vẻ đẹp dân tộc. Hay ca dao than thân, ra đời từ vất vả, bất công của cuộc sống. Là lời giãi bày của người nông dân trong xã hội cũ và là người phụ nữ với những đè nén, áp bức bất công. Ngoài ra ca dao hài hước, trào phúng, châm biếm, thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Nó tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu, những con người đáng cười trong xã hội. Ca dao là một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người Việt Nam, là giá trị văn hóa tình thần phi vật thể được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nó không chỉ cất lên giai điệu của tình yêu thương, tình cảm quý báu mà còn là kho tàng kinh nghiệm được đúc kết từ thực tế cuộc sống của nhân dân.
Đoạn văn mẫu số 2
Từ bao năm nay, ca dao Việt Nam đã trở thành tài sản vô giá của dân tộc. Ca dao là nơi chứa đựng tâm hồn của dân tộc, là tâm tư, tiếng nói của dân tộc ta.
Về khái niệm, ca dao là tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường tồn tại dưới dạng lời thơ hoặc điệu hát, kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của người dân lao động.
Về đặc trưng thể loại của ca dao. Ca dao được sáng tác, lưu truyền bằng miệng và trí nhớ bởi tập thể nhân dân lao động. Lúc đầu đó có thể là sáng tác của một cá nhân nhưng qua quá trình lưu truyền, mỗi người tự đóng góp và làm phong phú thêm ca dao. Ca dao mang tính tập thể và tính nhân dân sâu sắc, có nội dung phản ánh rất rộng lớn. Đó là tình cảm của nhân dân với thiên nhiên, quê hương, đất nước, những mối quan hệ gia đình, xã hội. Trong ca dao, một số kiểu nhân vật trữ tình đều có tâm trạng chung phù hợp với lứa tuổi, gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội… nhưng trên cái nền chung đó mỗi kiểu nhân vật lại có nét đặc sắc riêng, tạo nên sự hấp dẫn khó quên với người thưởng thức. Ca dao thường được biểu diễn, người ta gọi đó là diễn xướng. Xét về hình thức diễn xướng, ca dao có hai hình thức cơ bản nhất là hát cuộc và hát lẻ. Hát cuộc là hình thức hát tập thể trong lao động hoặc trong các hội hè đình đám được diễn ra quy mô, có tổ chức. Còn hát lẻ là hình thức hát tự do, không cần tuân thủ lề lối, quy cách như hát cuộc. Người hát có thể ngẫu hứng hát khi đang lao động, đang nghỉ ngơi. Dù là hát cuộc hay hát lẻ thì nhân dân lao động cũng đều gửi gắm tâm tình của mình qua tiếng hát đó.
Ca dao có nội dung vô cùng phong phú, đa dạng. Ca dao gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, tín ngưỡng, sinh hoạt cộng đồng của từng vùng miền tổ quốc. Trong lao động, ca dao là tiếng hát ca ngợi công việc, sức khỏe của con người, ngợi ca tình yêu quê hương đất nước. Ca dao còn phản ánh những tình cảm cao đẹp, yêu thương tình nghĩa của con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội như tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng, tình yêu đôi lứa,… Bên cạnh đó, ca dao còn là tiếng hát than thân của con người về những nỗi khổ trong cuộc sống mà chủ yếu là nỗi khổ của người phụ nữ; là tiếng nói phản ánh chống lại cường quyền (vua, quan) và những hủ tục gây nhiều nỗi khổ cho con người. Ca dao trào phúng là tiếng cười phê phán những thói hư tật xấu, những tính cách xấu của con người.
Nghệ thuật của ca dao cũng có nhiều điểm đặc sắc. Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca giản dị, đẹp đẽ, trong sáng, được gọt giũa, trau chuốt, chắt lọc qua nhiều thế hệ, là sự kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc và tính địa phương, giữa lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân và ngôn ngữ thơ ca bác học. Để giãi bày tâm tư, tình cảm của con người thơ ca thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…và sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cao. Kết cấu ca dao thường ngắn gọn, thể hiện rõ dấu ấn của lối đối đáp, trò chuyện giữa nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình. Sử dụng nhiều motip có tính chất lặp lại. Thể thơ thường được sử dụng trong ca dao là thể thơ lục bát, ngoài ra còn có các thể song thất lục bát, thơ ba chữ, thơ bốn chữ…
Ca dao có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống mỗi người dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao giá trị của ca dao, Xuân Diệu cho rằng: “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như có đất, như có nước, như có cát, có biển, như có mồ hôi người, chúng ta sẽ cảm thấy dần dần tụ lại nơi khóe mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó là một giọt tinh túy chắt ra từ ruột của non sông”. Xuân Diệu cũng cho rằng trong ca dao có cái chất tâm hồn người mới cày xới lên, còn tươi rói, bốc hơi chảy máu. Có lẽ vì vậy, có thể coi ca dao là cây đàn muôn điệu của tâm hồn dân tộc. Ca dao giúp ta hiểu về tâm hồn, tính cách, lối sống của cha ông ta cũng như con người trong thời đại xa xưa. Ca dao còn là kho tàng kinh nghiệm quý báu để chúng ta ứng dụng trong đời sống với nhiều bài học đạo đức, bài học kinh nghiệm… Ca dao là nguồn tư liệu quý giá để các nhà thơ nhà văn sau này học tập và sử dụng một cách sáng tạo.
Nói chung, ca dao bắt nguồn từ cuộc sống của con người, nuôi dưỡng đời sống con người, cho nên nó sẽ còn tồn tại mãi với thời gian. Mỗi người chúng ta, tùy từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh đều như tìm thấy ở ca dao một phần tâm hồn mình trong đó.
Đoạn văn mẫu số 3
Mỗi nền văn học từ mỗi quốc gia khác nhau lại có những đặc điểm, đặc trưng riêng. Là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời, văn học Việt Nam cũng có nhiều nét đặc trưng không thể trộn lẫn. Nếu như Trung Quốc nổi tiếng với những tác phẩm tiểu thuyết, Nhật Bản nổi tiếng với những bộ truyện tranh thì Việt Nam ta cũng vô cùng tự hào với những bài ca dao đã đi cùng bao thế hệ.
Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam, được kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người Việt Nam. Ca dao còn là một thể loại văn học đơn giản - thể thơ dân gian. Ca dao Việt Nam ra đời từ rất sớm, được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo nhịp điệu nhất định. Trải qua nhiều cải biến và phát triển, cho đến ngày nay, ca dao vẫn là một thể loại văn học đặc trưng của dân tộc.
Ca dao có tên gọi khác là thơ trữ tình, do đó nó cũng có những đặc điểm về nội dung và hình thức của một thể loại văn học. Về nội dung, đề tài, ca dao bao quát và phản ánh phạm vi rất rộng của cuộc sống con người bao gồm cả nghi lễ, phong tục tập quán, đời sống gia đình, cộng đồng, những nét đẹp đạo đức lối sống và cả kinh nghiệm sống quý báu. Đối tượng của ca dao đa dạng và phổ biến ở tất cả lứa tuổi, nhưng trong mỗi đề tài khác nhau thì nhân vật trữ tình lại khác nhau. Ca dao viết về gia đình, nhân vật trữ tình là người mẹ, người vợ... Ca dao viết về tình yêu trai gái, nhân vật trữ tình là chàng trai và cô gái. Ở phạm vi rộng lớn hơn như xã hội, thời đại nhân vật trữ tình mà ca dao lựa chọn lại là người đại diện cho cả tầng lớp hoặc một đối tượng trong xã hội như người phụ nữ, người nông dân.
Về hình thức, ca dao có những đặc điểm nghệ thuật truyền thống. Thể thơ được sử dụng chủ yếu trong ca dao là thể thơ của dân tộc - lục bát và lục bát biến thể. Ngoài ra, ca dao đôi khi còn dùng các thể thơ như song thất lục bát, thơ bốn tiếng, năm tiếng. Ca dao Việt Nam thường ngắn gọn, súc tích nhưng giàu cảm xúc, sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ và các hình ảnh mang tính biểu tượng. Trong ca dao thường xuất hiện hình thức lặp lại: lặp kết cấu, lặp từ, cụm từ, hình ảnh, đôi khi lặp cả dòng thơ. Điều đó yêu cầu chúng ta khi phân tích ca dao phải xuất phát từ yếu tố đó. Cho nên, khi phân tích ca dao, chúng ta phải xuất phát từ những hình thức lặp đó. Ngôn từ sử dụng trong ca dao thường trong sáng, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, đậm đà màu sắc dân tộc và địa phương.
Ca dao Việt Nam có rất nhiều nội dung, mỗi nội dung được phản ánh trong một mảng với đối tượng phản ánh và chủ đề khác biệt. Loại đầu tiên là ca dao với tình cảm yêu thương, tình nghĩa bao gồm tình cảm gia đình cha mẹ, con cái, vợ chồng; tình yêu đôi lứa, yêu quê hương, đất nước, ca ngợi vẻ đẹp dân tộc. Đó là những lời ca về mọi miền của Tổ quốc thân yêu:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh."
Hay thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến:
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này ?!"
Ca dao yêu thương, tình nghĩa dễ khơi gợi nên niềm đồng cảm, niềm tự hào, yêu nước và lòng biết ơn thế hệ cha anh đi trước đã anh dũng chiến đấu hi sinh hay gần gũi nhất là yêu thương, biết ơn những người đã có công sinh thành dưỡng dục. Có một bài ca dao mà ngày nay bao người vẫn thuộc:
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con."
Loại ca dao quen thuộc tiếp theo là ca dao than thân, ra đời từ vất vả, bất công của cuộc sống. Đó là người nông dân trong xã hội cũ và là người phụ nữ với những đè nén, áp bức bất công.
"Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"
Trong xã hội phong kiến xưa kia, chế độ nam quyền gia trưởng đã đẩy bao người phụ nữ vào hoàn cảnh bi kịch bất hạnh. Ca dao giống như những lời than thân trách phận, vang lên từ tận đáy lòng họ. Để rồi mãi mãi về sau, người ta vẫn ghi nhớ mãi.
Ngoài những mảng trên, kho tàng ca dao Việt Nam còn có rất nhiều bài ca dao hài hước, trào phúng, châm biếm. Ca dao mảng này chủ yếu làm nổi bật những nét đặc sắc trong nghệ thuật trào lộng đặc trưng của dân gian Việt Nam. Nó tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu, những con người đáng cười trong xã hội. Ví như một bài ca dao châm biếm thói mê tín dị đoan:
"Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai"
Không biết tự bao giờ, ca dao đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người Việt Nam. Ca dao là giá trị văn hóa tình thần phi vật thể được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ca dao không chỉ ngân vang giai điệu ngọt ngào của yêu thương mà còn là nơi lưu giữ bao kinh nghiệm quý giá mà cha ông ta đúc kết từ cuộc sống thực tế như "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối." Đồng thời, ca dao cũng gửi gắm những bài học đạo lý làm người như lòng hiếu thảo với cha mẹ, sức mạnh của tình yêu. Trong văn học, ca dao cũng tạo nên động lực cho văn học phát triển. Đó là nguồn tư liệu quý giá, phong phú cho các nhà văn, nhà thơ sáng tạo các tác phẩm của mình. Ca dao chính là nét đẹp tâm hồn Việt Nam.
Nhiều năm tháng đã qua đi nhưng ca dao vẫn luôn sống mãi với trái tim triệu triệu con người Việt. Để rồi mỗi lần giai điệu quen thuộc của ca dao vang lên, chúng ta lại bồi hồi nghĩ về quá khứ vàng son của Tổ quốc.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 6 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Cảm nghĩ về nhà văn Nguyên Hồng
Cảm nhận bài ca dao: Đứng bên ni đồng... (6 mẫu) SIÊU HAY
Nghị luận tinh thần yêu nước của nhân dân ta
Suy nghĩ về Tuyên ngôn độc lập
Liệt kê các mốc lịch sử trong Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn độc lập