Đề bài: Phân tích đất nước 9 câu thơ đầu.
Dàn ý: Phân tích đất nước 9 câu thơ đầu.
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn trích
II. Thân bài:
a. Luận điểm 1: Đất nước có từ bao giờ?
- Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi con người từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
- Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lí làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.
b. Luận điểm 2: Quá trình hình thành đất nước?
- Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.
- Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.
- Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ cồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
- Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý:“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
- Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.
=>Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán cảu người Việt Nam, gắn liền với đời sóng gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành linh ồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.
III. Kết bài:
- Khái quát vấn đề
Một số bài văn mẫu:Phân tích đất nước 9 câu thơ đầu.
Đoạn văn mẫu số 1
Đất Nước- hai từ thôi mà sao nó thân thương đến thế! Và đó cũng là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc nhìn riêng để nói về Đất Nước, nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị để miêu tả về Đất Nước. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi cho người đọc những nét đẹp về văn hóa, truyền thống, phong tục đẹp vô ngần, sinh động lạ thường, mang đậm dấu ấn con người Việt. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ đồng thời cũng là nhà chính trị Việt Nam. Ông là một người con của xứ Huế, chính những nét đặc trưng của Huế đã tạo nên hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà sâu lắng, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương hòa mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù, cuộc chiến đấu gian khổ của đồng bào ta...những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Từ những đêm không ngủ, những ngày xuống đường, Nguyễn Khoa Điềm đã tích lũy cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng ấy trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng, được viết năm 1917 gồm 9 chương. Thành công nhất là chương Đất Nước, nó đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm.
Ngay từ những câu thơ đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã trầm ngâm, suy tư về cội nguồn, quá hình thành của Đất Nước bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể chuyện cổ tích:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Mở đầu đoạn thơ như một lời khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì khi lớn lên nó đã có rồi. Đó cũng là một lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Câu chuyện của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức trong người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hóa và lịch sử:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đó là miếng trầu gợi lên sự tích vào loại cổ nhất người Việt "Sự tích trầu cau" từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son đồng thời đánh thức dậy hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung, miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó còn là truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đuổi giặc Ân, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Hình ảnh tre như những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, thuỷ chung, yêu hoà bình, kiên cường bất khuất trong những cuộc chiến tranh. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, trong đời sống tâm hồn của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tác giả còn nhắc đến thuần phong mỹ tục của người Việt, câu ca dao "Tay bưng chén muối đĩa gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" như đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất Nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. Đó là vẻ đẹp giản dị nhưng mang một nét đẹp riêng biệt không thể lẫn lộn với những nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Người ta vẫn thường hay nói gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn nghĩa là con người sống với nhau càng lâu thì tình nghĩa càng đong đầy.
Đất nước gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã, có khi lấy những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ chính mình đang ở "cái kèo", "cái cột". Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người lao động, "một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" phải suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, dầm mưa dãi nắng nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn mồ hôi nhọc nhằn của người nông dân. Chính vì thế khi ăn hạt cơm dẻo, thơm phải nhớ đến người làm ra nó.
Câu cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: "Đất Nước có từ ngày đó..." “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ "Đất Nước đã có", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm lặng lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi con người việt nam ta: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo...
Đoạn văn mẫu số 2
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Muốn hiểu về Đất Nước nhưng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”: lời thơ khẳng định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã cách ta quá xa, đã ” có từ ngày xửa ngày xưa…”: một cụm từ vô cùng quen thuộc, thân thương vì ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên” mẹ thường hay kể”. Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước yêu dấu.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau” mẹ kể con nghe về tình nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng. Đấy chính là nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng chính là bài học đầu tiên về đất nước. Miếng trầu bình thường bà vẫn ăn hàng ngày sao bỗng dưng trở thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ” Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” con đã từng gặp trong “Sự tích Thánh Gióng” khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên vững vàng thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để bảo vệ đất nước với “gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép mới)
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế. Hình ảnh” tóc mẹ thì bới sau đầu” đã nói lên một nét đẹp của phong tục Việt Nam ta từ xưa còn lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá biết bao. Với Nguyễn Khoa Điềm “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để con được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa luôn thuỷ chung, son sắc.
Từ cái nhà con ở khi “cái kèo, cái cột thành tên” đến hạt gạo con ăn”phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” ta hiểu được bao thế hệ mẹ cha đã lao động vất vả, chắt chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần dựng xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình mà là những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hóa thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vừa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm đối với nền Văn học Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số 3
Đất nước là một trong những đề tài muôn thuở gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các thời kỳ, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa thân vào trong “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước đã bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại xâm trong khung cảnh thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, với đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, lại có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại khi đoạn trích Đất nước nằm trong chương năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được nhiều những tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn mà đất nước mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, với ẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc thám hiểm không phải là ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”. Bởi thế mà cũng với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình dáng khác, hiện lên đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cùng cảm hứng về đất nước từ lịch sử đã thông qua các triều đại như:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho bản thân mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị, thân quen mà qua đó đất nước cũng đã hiện lên không kém phần tươi đẹp.
Với cấu trúc tổng phân hợp mang đậm phong cách chính luận, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng với những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc.
Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà cũng đã theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ được mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của chính Đất nước trong nhận thức với chính tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất lên tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với chính “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những con người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của người dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, khi nó giống như một lời khẳng định về nhiều sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử đã dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi đã nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Truy tìm về nơi cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của những hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước cũng được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ và chính người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, khiến người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng… Từ những câu chuyện đó với hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho mỗi người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” với biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến khi những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm của sự chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay và bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử của tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành với khi của đất nước qua quá trình đấu tranh khiến dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì những nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, vẻ đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” với sự gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng khi nói trách nhiệm với quê hương, cho chính tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, đúng nên mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu đưa vào thơ của mình:
Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng không chịu bất khuất của con người Việt Nam:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, một phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, khi yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của chính con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Có phải chăng hình tượng của người mẹ và người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, rất nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của những người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh
Vẻ đẹp của con người Việt còn ở khi chính phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng sự vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm với câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, cả muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của chính tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và với sự không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người là:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì sẽ càng tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ chính câu ca dao:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi lên cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến những sự ấm áp, hạnh phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” ra đời, khi vừa giản dị lại gần gũi và cũng tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.
Không những vậy, khi con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ những sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã” và “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo, qua đó tác giả Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta đã ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng chính là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày đó…
“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, đã có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, với truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, sự nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ với sự trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, cùng những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước để thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất với nền văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cả những lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lý.
Đoạn trích trên cũng đã thể hiện được những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương và đất nước. Qua đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc cùng Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là những niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi khi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá chính một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó bản thân ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của chúng ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Đoạn văn mẫu số 4
Cảm hứng về đất nước, về với tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc của thơ ca hiện đại giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau khi Cách mạng tháng Tám, dân tộc, với tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là những hiện thực, là tiền đề thẩm mỹ cất cánh dành cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của chính con người Việt Nam, với đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, khi trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, cũng nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định lên sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ ở phần mở đầu bài thơ “Đất nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về cả đất nước.
Điểm rất mới của tác giả Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, với nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể và gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu của đất nước này ở nhiều chiều sâu của thời gian, khi chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, nơi ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi và đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính chất khái quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ đã nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết với những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khi khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy những ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ với nhiều suy nghĩ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Đọc đoạn thơ, ta thấy không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tượng của những tác giả về sự hiện hữu của mỗi đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng với sự không trộn lẫn của đất nước này. “Ngày xửa ngày xưa” với một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; khi hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói rằng đất nước này cũng đã tồn tại từ lâu đời, khi tồn tại từ thuở “Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”, ở cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, khi cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân cho đến khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, cũng lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, với đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, và bản sắc quê hương:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, với những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, khi một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có những khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, và cả nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải rũ bùn và đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Cũng trong đoạn thơ trên, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy tình nghĩa máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, cùng với tất cả như những quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, thành một huyết thống Rồng – Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, từ chính dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy nhiều những bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, cả một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, cả con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lý làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về nhiều những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng và rất chung về đất nước.
Có thể khẳng định rằng, với sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với nhiều hơn một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của nhiều hình thức thơ văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mỹ càng lớn. Điều đáng nói là từ chính những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, và vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, cùng với thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hơi hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sử, chiều dài của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại và cả về tương lai. Một vẻ đẹp nói như tac giả Tố Hữu:
Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi mà dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, sự thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, còn linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng cũng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, và cả đất nước và con người Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số 5
Đất nước là một đề tài muôn thuở trong thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước được khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp khác nhau từ đa dạng góc nhìn. Tố Hữu tìm thấy hình hài đất nước qua bóng dáng người anh hùng, người mẹ; Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh kính yêu; Nguyễn Trãi lại tự hào về triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”,... Còn đối với Nguyễn Khoa Điềm vẻ đẹp của đất nước lại nằm trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Đó cũng chính là nét mới trong cách xây dựng hình tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm hướng tới trong tác phẩm “Đất Nước”.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Câu thơ mở đầu, nhà thơ đã hồi đáp cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ? ” bằng cách khẳng định:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”
Đất nước có từ bao giờ? Đất nước bắt đầu từ đâu? - Nguồn gốc của Đất Nước vẫn luôn là một dấu hỏi lớn thử thách những nhà khoa học, lịch sử học, khảo cổ học. Không ai trong chúng ta biết được đất nước có từ bao giờ hay ai là người khởi thủy ra nó. Song, luôn tồn tại một sự thật hiển nhiên rằng: khi ta lớn lên thì “đất nước đã có rồi”.
Nhà thơ khẳng định sự hình thành đất nước qua ba chữ “đã có rồi” khiến hình ảnh đất nước hiện lên sừng sững trước mắt người đọc. Theo Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác”. Nhà thơ tự hào, khẳng định sự lâu đời, trường tồn vĩnh hằng của đất nước “Từ vũ trụ đã có giang san” (Trương Hán Siêu), cách diễn đạt ấy còn mang đến ý niệm: Đất Nước là nguồn cội thiêng liêng, là máu thịt của mỗi con người.
Hai chữ “Đất Nước” vang lên khẳng khái trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Không riêng gì câu thơ mà xuyên suốt cả tác phẩm hai chữ “Đất Nước” đều được viết hoa. Bàn về vấn đề này Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ rằng với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri mà đó là một nhân vật, là sinh thể có linh hồn và với cách viết này nhà thơ mới có thể bộc lộ hết nỗi niềm trân trọng với đất nước thiêng liêng.
Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về yếu tố chính luận nhưng lại mang giọng điệu trữ tình qua cách xưng hô “ta” đầy thắm thiết. “Ta” ở đây vừa là nhân vật trữ tình vừa là chúng ta bao hàm cho cả dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô đã khiến cho vấn đề mang tính trừu tượng, lớn lao như đất nước trở nên thân thuộc, gần gũi. Lời thơ mở đầu thật giản dị mà trang trọng, tự hào biết bao.
Ba câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Điệp ngữ “Đất Nước” nhắc lại liên tiếp trong ba dòng thơ vừa thiêng liêng, trang trọng vừa tạo nên nhạc tính ngân nga, chất chính luận, trữ tình chắp cánh thăng hoa bay bổng diệu kỳ. Từ điệp ngữ này tác giả mở ra chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.
Đầu tiên nhà thơ đã sử dụng chất liệu dân gian để diễn tả sự ra đời của đất nước: đất nước có trong truyện cổ.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” như tấm vé thông hành, như con đò đưa ta quay về vùng đất tuổi thơ, làm sống dậy những kỉ niệm đẹp. Nơi đó có hình ảnh cô Tấm dịu hiền, có chàng Thạch Sanh dũng cảm, những ông bụt bà tiên với phép màu kì diệu sẵn sàng cứu giúp những con người lương thiện,... Những câu chuyện ấy như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng tới những vẻ đẹp “chân- thiện- mĩ” trân quý, để con người ta biết tin vào cái thiện, thêm yêu quê hương đất nước. Bởi truyện cổ nước ta hay lắm, nhân văn lắm mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động viết lên những vần thơ thật đẹp:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
Nhắc tới “ngày xửa ngày xưa” còn là nhắc tới cách lí giải hồn nhiên của nhân dân về sự hình thành và phát triển đất nước, về quá trình dựng nước và giữ nước. Vì “ngày xửa ngày xưa” là một trạng từ chỉ thời gian vô định, đâu ai biết được đó là ngày hôm nào, là năm bao nhiêu, điều duy nhất chúng ta biết là nó đã có từ rất lâu. Và đất nước có từ trong những câu chuyện xa xưa ấy nghĩa là đất nước còn xuất hiện từ xa hơn, lâu hơn. Qua đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống ông cha, về bề dày lịch sử, về kho tàng văn học văn hóa dân gian đặc sắc.
Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa”, Đất Nước trong Nguyễn Khoa Điềm còn được xác định qua một nét sống giản dị mà đậm đà bản sắc dân tộc của những bà, những mẹ với phong tục ăn trầu:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ phi lý nhưng lại cực kỳ hợp lý khi xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhắc về “Sự tích trầu cau” – một câu chuyện nhân văn về tình yêu đôi lứa và tình anh em keo sơn, được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Hai chữ “bây giờ’ chỉ thời điểm hiện tại, cũng là cách lí giải thật bình dị: Lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống không chỉ hiện diện trong chiều dài lịch sử mà cho đến tận bây giờ vẫn còn “miếng trầu bây giờ bà ăn”.
Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu không chỉ mang giá trị vật chất mà còn trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Đối với tuổi trẻ miếng trầu là biểu tượng cho tình yêu: giao duyên, miếng trầu cưới hỏi ... Đối với người già miếng trầu là biểu tượng của nghĩa tình. Và hơn thế nữa miếng trầu còn là nhịp cầu giao cảm giữa cháu con và cha ông, là biểu tượng tâm linh để hậu nhân bày tỏ tấm lòng thành kính với bậc tiền nhân. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Hoàng Cầm)
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Một đất nước không thể thiếu đi những truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước như Bác từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.” Đến với thơ Nguyễn Khoa Điềm truyền thống ấy được gợi nhắc qua hình ảnh cây tre và truyền thuyết Thánh Gióng. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Nguyễn Duy)
Hình ảnh cây tre song hành cùng thời gian, cùng con người Việt Nam trải qua bao thăng trầm từ thuở xa xưa đến nay. Dân tộc Việt Nam tự hào khi mang những phẩm chất đẹp như tre: giàu sức sống, thật thà, chất phác, bất khuất, kiên trung,... Cây tre ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường đánh đuổi giặc Ân khỏi bờ cõi Việt:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”
(Tố Hữu)
Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Việt Nam khỏe khoắn, kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết quản ấm nóng cuộn trào trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Hai chữ “lớn lên” là cách nói gợi hình về quá trình trưởng thành của đất nước và hình ảnh Thánh Gióng lớn vụt lớn lên, là biểu tượng cho một dân tộc bé nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng. Đất nước kì vĩ, tráng lệ, lãng mạn, hào hùng đã được tái hiện như vậy đấy!
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mĩ tục dân tộc Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đầu tiên là nếp sống giản dị trong đời sống người phụ nữ Việt Nam với phong tục búi tóc sau đầu
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Phong tục này bắt nguồn từ công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải búi tóc thành búi sau gáy cho gọn gàng. Trải qua một thời gian dài, điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp mộc mạc, nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”
Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy, sắt son:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Lối sống coi trọng nghĩa tình, sống ân nghĩa thủy chung là vẻ đẹp truyền thống ngàn đời của dân tộc. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Gừng càng già càng cay, muối càng để lâu càng mặn, vợ chồng sống với nhau càng lâu thì nghĩa tình càng đong đầy. Qua gian nan, cơ cực tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc, khăng khít, bền chặt. Có lẽ vì vậy mà đất nước đã ghi lại dấu ấn của cha, của mẹ bằng “Hòn Trống Mái”, “núi Vọng Phu”,... như một cách riêng để khẳng định nghĩa tình son sắt ấy, là suối nguồn yêu thương chảy qua bao thế hệ.
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Câu thơ gợi nhắc truyền thống dựng nhà “kèo-cột” -một đặc trưng văn hóa Việt. Cái kèo có dạng tam giác cân là hệ thống gỗ kết nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc. Cột đẩy mái nhà lên cao còn kèo giữ chặt các cột lại với nhau tạo sự vững chãi cho căn nhà. Và từ ngôi nhà “kèo cột” ấy ngôn ngữ dân gian được hình thành thông qua cách lấy tên các vật dụng đơn giản đặt tên con với quan niệm tên càng xấu càng dễ nuôi. Những quan niệm gần gũi ấy là thành tố cấu tạo nên “Đất Nước”.
Hơn thế là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:
Đất Nước có từ ngày đó
“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Không ai biết chính xác ngày đó là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều đó là ngày có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục, là ngày dân ta có truyền thống đánh giặc giữ nước, có tập quán làm nhà kèo cột và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Tất cả đều là những biểu hiện cao đẹp của bề dày văn hóa. Mà văn hóa truyền thống lại là hiện thân của chiều sâu đất nước. Đúng như nhân xét của tác giả Huy Văn: “Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý”.
“Đất Nước” là một chương thơ hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm mà cũng là đoạn thơ hay nhất viết về đề tài Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. “Đất Nước” không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt “như máu xương của mình”.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT
TOP 10 Bài văn Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (2024) HAY NHẤT