Đề bài: Cảm nhận về đất vị hoàng.
Mẫu số 1
Tú Xương là một nhà thơ lớn, sinh vào thời kì đau thương, khó khăn nhất của đất nước khi dân ta đang một lòng sục sôi đánh giặc. Trước tình cảnh nước mất nhà tan, những rối ren của thời cuộc, ông đã viết lên nhiều vần thơ sâu sắc mà chua xót phản ánh thực trạng đó, một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến bài thơ “ Đất Vị Hoàng”. Bài thơ là tinh thần, lẽ sống của con người đồng thời thể hiện thái độ châm biếm các thói hư tật xấu trong xã hội lúc bấy giờ.
Trước hết, Đất Vị Hoàng được viết ở thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, là bài thơ thể hiện niềm xót xa trước vận mệnh dân tộc. Vị Hoàng là nơi sinh ra của Tú Xương, – một vùng quê đầy bình yên có những thứ đặc sản nổi tiếng. Ngày giặc đến nhà, vùng quê bình yên đó trở nên xơ xác, tiêu điều. Là một người nặng tình với quê hương đất nước, Tú Xương đau đớn cho quê nhà, xót thương trước vận mệnh đất nước bị đảo lộn. Những việc xấu, “ đổi trắng thay đen” cứ thế bày ra trước mắt, nỗi đau chồng chất nỗi đau. Từ đó bài thơ “Đất Vị Hoàng” ra đời để tố cáo cái xã hội lúc bấy giờ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đi thẳng vào vấn đề:
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Câu hỏi tu từ ngay phần mở đầu, “có đất nào như đất ấy không?” gợi cho ta thật nhiều suy nghĩ. Mảnh đất của sự phồn vinh, bình yên, tuyệt đẹp với những bờ sông trải dài nay còn đâu. Giọng thơ trở nên thật chua chát trước cảnh nơi chôn rau cắt rốn của mình ngày càng đổi thay, các câu chuyện ngày càng đau lòng. Phồn vinh thì cũng không còn là của ta nữa, mà trở thành một nơi “ăn chơi sa đọa”, chốn để quân Pháp chơi bời. Còn gì đớn đau thay khi một quê hương phồn vinh hơn nhưng lại chẳng phải của chúng ta. Và cũng thật chua xót biết bao khi đó là nỗi đau không chỉ ở quê hương Tú Xương mà đó còn chính là nỗi đau của toàn dân tộc – một vùng trù phú rộng lớn trở nên tiêu điều xơ xác, một vùng chỉ có xác “phồn vinh” nhưng lại thiếu đi phần hồn. Đất nước bị chiếm đóng, phồn vinh kéo theo những hệ lụy, những đạo lý truyền thống của chúng ta bị đảo lộn.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Giặc chiếm đất, chiếm nhà, chiếm ruộng,… của ta, phố phường cứ thế mọc lên và chúng càng vơ vét, càng bóc lột ta để làm giàu. Những đạo lý truyền thống chữ “ hiếu” luôn đặt lên hàng đầu của ta từ ngàn đời nay còn đâu khi “ con khinh bố”. Bố mẹ là người chăm lo cho ta, vậy lý do nào đã khiến cho tình cảm thiêng liêng ấy bị coi thường. Đó còn là “mụ vợ chanh chua”, người con gái nước Nam dịu dàng, nữ tính đi đâu mất rồi, thay vào đó lại là “ mụ vợ chửi chồng”. Lí do gì đã khiến mọi trật tự, mọi đạo lí truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bị đảo lộn, bị xáo trộn như vậy? Phải chăng đồng tiền đã làm cho con người ta mờ mắt, chỉ ham đến vinh hoa phú quý mà bỏ quên những điều xưa cũ, những đạo lí ân nghĩa thủy chung, những chuẩn mực đạo đức của ta. Ta thật sợ, ghê tởm cái xã hội nhem nhuốc, dơ bẩn lúc bấy giờ. Một gia đình không tốt, “hỏng” từ vợ - chồng đến con cái, vậy xã hội làm sao tốt đẹp đây?
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Hai câu thơ sau là cảnh vẽ về con người đối nhau, một tứ thơ đầy hoàn thiện nhưng cũng đầy chua xót. Những kẻ tham lam, keo cú trên đất nước ta nhiều vô kể. Họ bần tiện, ghê gớm đến nỗi “như cứt sắt”- một chất thải ra từ đất nung không còn thể đẽo gặm gì nữa. Đó còn là những con người tham lam, vơ vét cho bản thân mà quên đi cái giá trị của con người, mở miệng ra là thấy nói chuyện tiền, lấy tiền làm chuẩn mực của đạo đức, đánh giá một con người. Thối tha thay cái xã hội lúc bấy giờ, đớn đau thay cho những con người bị tha hóa. Nhà thơ Tú Xương thật tài tình khi vận dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với biện pháp đảo ngữ làm cho các câu thơ trở nên có giá trị thẩm mĩ cao. Giọng thơ trở nên dữ dội, khinh bỉ hơn bao giờ hết. Đó là một bản cáo trạng mà nhà thơ viết lên để tố cáo những kẻ tham lam, vì tiền mà đánh mất đạo đức con người.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?
Tú Xương kịch liệt lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của con người lúc bấy giờ, hiện thực thối nát, cái xấu, cái ác, trắng đen lẫn lộn… Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn như một tiếng khóc tỉ tê, thương thay cho vận mệnh đất nước. Mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi “Có đất nào như đất ấy không?” vừa xót xa, đay nghiến cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.
Nói tóm lại, bằng nghệ thuật châm biếm, câu hỏi tu từ đầu cuối tương ứng, bài thơ Đất Vị Hoàng đã vạch trần được bộ mặt thật của xã hội nửa phong kiến đồng thời qua đây nhà thơ Tú Xương cũng bày tỏ thái độ tố cáo, đả kích sâu cay với những con người vì đồng tiền mà đánh mất giá trị bản thân, giá trị đạo đức xã hội. Đó là nỗi đau của người trong cuộc, đớn đau trước vận mệnh đất nước.
Mẫu số 2
Bài "Đất Vị Hoàng" được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật, thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ "Có đất nào như đất ấy không?"', nhà thơ hỏi để mà nguyền rủa, giọng thơ trở nên đau đớn, chua xót. Nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và "nhớ":
"Anh đi anh nhớ non Côi
Nhớ sông Vị Thuỷ, nhớ người tình chung".
Trong bài "Sông Lấp", Tú Xương viết "Sông kia rày đã nên đồng - Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.." Cảnh ấy có khác gì ở đây: "Phố phường tiếp giáp với bờ sông". Tây và bọn tay sai chiếm ruộng, chiếm bãi, chiếm đất, chiếm phố, chiếm nhà. Phố xá càng mọc lên thì bọn bất lương càng ra sức vơ vét làm giàu. Trong nhà ngoài phố, kẻ chợ làng quê, nơi gần chốn xa, nhất là ở Vị Hoàng nhỡn tiến đó. "Nhà kia... mụ nọ..." vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà "lỗi phép", con cái bất hiếu "Con khinh bố". Có cảnh đời, đảo điên tình nghĩa "chanh chua" như mụ nọ "Vợ chửi chồng". Có lẽ chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực thế! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí: tình phụ tử, nghĩa phu — thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ gia đình hỏng ra. Không còn là hiện tượng cá biệt nữa.
Thời bấy giờ nhan nhản phố phường những "tiết hạnh khả phong" như mụ Phó Đoan, những gái tân thời như cô Hoàng Hôn, cô Tuyết (Sốđỏ) những me Tây như mụ Tư Hồng "Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, lẫy lừng hăm sáu tỉnh" (câu đối của Nguyễn Khuyến). Những "em chã" những trưởng giả, thượng lưu rởm đang "Âu hoá" sống phè phỡn, nhố nhăng!
Hai câu thơ 3,4 trong phần thực như bức biếm hoạ nhị bình đăng đối, với bao vết ố, nét nhơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lí:
"Nhà kia tôi phép, con khỉnh bố
Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng".
Hai câu trong phần luận mở rộng ý thơ trong phần thực, làm cho bức tranh "Đất Vị Hoàng" được tô đậm sắc màu hiện thực. Không còn ước lô nữa. Hai nét vẽ về cảnh đời đáng buồn, đáng thương hại đối nhau. Một bộ tứ bình biếm hoạ hoàn chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng ấy nhan nhản những loại người "tham lam" và "keo cú". "Keo cú" đến bán tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh: "người đâu như cứt sắt" sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người "tham lam" đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là "chuyện thở rặt hơi đống", "Thở" là nhãn tự; rất linh diệu; nếu thay bằng chữ "nói" hay là một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loại người tham lam đê tiện này. Vì đã "thở" nên phải đi liền với "hơi" - "hơi đồng", tiền bạc. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, và trước hết trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. "Rặt" là từ cổ, nghía là "toàn là", "đều là". Phép đảo ngữ rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc lên án loại người tham lam, keo cú mất hết nhân tính:
"Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng".
Hai câu kết đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án. Không còn là chuyện riêng, chuyện cá biệt ở cái làng Vị Hoàng nhỏ bé nữa, mà là hiện thực thối nát, đồi bại xấu xa, đạo lí suy đồi, đảo điên... trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến của một nước bị mất chủ quyền. Cái xấu cái ác đã trở thành nỗi đau nỗi nhục của nhiều người, trên một không gian rộng lớn "Bắc, Nam" và "người bao tỉnh". Nghệ thuật thủ — vĩ ngâm dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn, vừa căm giận khinh bỉ cái xã hội kim tiền, cái xã hội chó đểu mà 30 năm sau Vũ Trọng Phụng phải nguyền rủa!
"Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?".
"Đất Vị Hoàng" là bài thơ trào phúng độc đáo của Tú Xương. Muốn yêu quê, muốn tự hào về quê hương mà không được nữa. Nhà thơ sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Bốn câu trong phần thực và luận là bộ tứ bình biếm hoạ về bốn loại người trong xã hội dở Tây dở ta buổi đầu. Trong gia đình, con thì bất hiếu, "lỗi phép", vợ thì "chanh chua" lăng loàn; ngoài xã hội, đâu đâu cũng chỉ có hạng người "tham lam" và "keo cú" vênh váo. Đạo lí suy đồi mà nguyên nhân sâu xa là nước mất chủ quyển, là sự tác oai tác quái của mặt trái đồng tiền. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ. Đúng là Tú Xương "đã đi bằng hai chân" hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riêng hiếm thấy.
Bài thơ toàn Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo. Bốn câu hỏi xuất hiện trong bài thơ làm cho ngữ điệu thêm dữ dội, đầy ám ảnh. Thơ liền mạch, đúng là Tú Xương đã xuất khẩu thành thơ. Bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên, nhất khí mà bình dị. Trong thơ ca dân tộc ít có bài thơ thủ vĩ ngâm hay như bài thơ "Đất Vị Hoàng" này. Tú Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc.
"Vị Hoàng" là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưa có sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắc xuất hiện thì sông Vị Thuỷ lấp dần. Vị Hoàng vốn là một miền quê có thứ chuối ngự ngon nổi tiếng, cùng với thơ Tú Xương đã trở thành thổ ngơi, đặc sản quê nhà, một trăm năm về trước, được truyền tụng trong dân gian: "Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương". Vị Hoàng cũng vốn là "nơi sang trọng, chốn nhiều quan". Nhưng rồi biển dâu biến đổi, trong buổi giao thời hổ lốn dở Tây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lí sa sút, suy đổi. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đã có bài "Vị Hoàng hoài cổ" man mác buồn thương, lại thêm bài thơ "Đất Vị Hoàng" này để nói lên những chuyện xấu xa đồi bại ờ Vị Hoàng, ở thành Nam.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT
TOP 10 Bài văn Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (2024) HAY NHẤT