Đề bài: Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích.
Dàn ý: Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích.
Mở bài:
– Nguyễn Du là một danh nhân văn hoá, đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
– “Truyện Kiều” là tác phẩm nổi tiếng của ông, có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật.
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc biệt là 8 câu thơ giữa khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều.
Thân bài:
a. Khái quát về đoạn trích:
– Vị trí: nằm ở phần hai Gia biến và lưu lạc.
– Nội dung:
+ Sau khi Kiều bán mình chuộc cha thì bị lừa bán vào lầu xanh.
+ Nàng tự vẫn nhưng không thành.
+ Tú Bà hứa khi nàng bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế, rồi giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích.
+ Giữa khung cảnh vắng lặng, cô quạnh của lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ đến Kim Trọng, cha mẹ rồi tự thấy xót thương cho số phận mình.
b. Phân tích 8 câu giữa:
* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu):
– Kiều nhớ về những kỉ niệm hạnh phúc của mình và Kim Trọng.
+ Chữ “tưởng” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự hồi tưởng lại những kí ức của Kiều.
+ Ánh trăng vằng vặc trên đầu nhắc nàng nhớ về lời thề nguyền cùng chén rượu thề dưới trăng: “Vầng trăng vằng vặc trên trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
+ Nàng càng đau đớn hơn khi nghĩ về Kim Trọng ở Liêu Dương đang mong ngóng tin của nàng trong vô vọng “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
– Càng nhớ tình lang, nàng càng xót xa cho thân phận mình “Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
+ “Tấm son”: tấm lòng thuỷ chung của Kiều với Kim Trọng sẽ không bao giờ phai.
+ Giữa lúc cô đơn, lạc lõng nhất, Kiều vẫn hướng về Kim Trọng với một lòng thuỷ chung.
* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu sau):
– Chữ “xót” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự xót xa khi nghĩ tới cha mẹ ở quê nhà.
– Nàng thương xót cha mẹ già yếu ngày ngày “tựa cửa” mong tin con.
– Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển tích “sân Lai gốc tử”: chỉ sự xót xa của Kiều khi không được kề bên chăm sóc cha mẹ già.
– Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: chỉ thời gian qua nhanh, cảnh vật biến đổi, Kiều đau đáu nỗi nhớ mẹ cha, day dứt khi phụ công sinh thành.
* Nỗi nhớ người yêu đặt trước nỗi nhớ cha mẹ vì:
– Kiều đã bán mình cứu cha và em: coi như đã báo đáp một phần ơn nghĩa sinh thành với cha mẹ.
– Đối với Kim Trọng: Chàng chưa hề biết tin Kiều gặp gia biến, vẫn đang mong ngóng tin của nàng. Nàng đã phụ tình với chàng nên nỗi nhớ chàng trước cha mẹ cũng là hợp tình hợp lý.
c. Đặc sắc nghệ thuật:
– Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc.
– Sử dụng các thành ngữ, điển tích điển cố chính xác và tinh tế.
Kết bài:
– Tám câu giữa của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, cha mẹ của Kiều.
– Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.
Một số bài văn mẫu: Cảm nghĩ của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích.
Bài văn mẫu số 1
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn", còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: "Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn". Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kì, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với "tấm gương oan khổ" Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công "nỗi lòng tê tái" của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.
Hai tiếng "buồn trông" được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều "trước lầu Ngưng Bích", vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi "khoá xuân", Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian "chiều hôm" - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
"Thuyền" chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ "thấp thoáng", "xa xa". Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về "ngọn nước" gần mình hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng "về đâu" cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: "rầu rầu". Đâu còn là "cỏ non" xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng "Êm đềm trướng rủ màn che". Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi "rầu rầu" ấy tràn ngập, lan toả khắp không gian:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cái nhìn bao quát từ "chân mây" xa xăm đến "mặt đất" gần gũi, tất cả đều "một màu xanh xanh". Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:
Tuyết in sắt ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận "Bên trời góc bể bơ vơ" của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng "ầm ầm" "kêu quanh ghế ngồi". Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia "tấm lòng'' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.
Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Du đã nói lên mối quan hệ gắn bó, hoà nhập, đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Điều này được thể hiện rõ nét trong kiệt tác bất hủ Truyện Kiều. Ở đó, thiên nhiên và con người luôn hiện hữu trong sự đối sánh, giao hoà tuyệt đối, giữa cái vô tri và cái tâm thức, để hiện lên những bức tranh cảnh – tình đặc sắc nhất của văn học Việt Nam. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của thi hào Nguyễn Du.
Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lưu lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”.
Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần tuý thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thoả sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc.
Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ"
Hình ảnh "người tựa cửa" đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều tưởng tượng đang đứng trông chờ nàng trở về. Hình ảnh "quạt nồng, ấp lạnh" và câu hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát cho bố mẹ vào mùa hè nữa. Hai câu thơ "Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm" có sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" cho thấy tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh "cách mấy nắng mưa" cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của Kiều. Ở nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình. Tóm lại, tám câu thơ giữa bài thơ đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở nơi đất khách quê người.
Bài văn mẫu số 3
Mộng liên Đường đã từng nói: "Nguyễn Du có com mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời". Và với con mắt tinh rế nhạy cảm nhất, Nguyễn Du đã nhìn thấu tâm hồn Thúy Kiều để rồi thấu hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của nàng bằng cả trái tim yêu thương và trân trọng. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã rất thành công trong việc miêu tả tâm trạng Thúy Kiều với những diễn biến tâm lí đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.Điều đó được thể hiện tập chung ở 8 câu thơ cuối trong đoạn trích
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồiBức tranh phong cảnh nhuốm màu buồn tê tái. Nguyễn Du đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tam của nhân vật trữ tình. Cảnh vật đượm một vẻ thê lương chai lìa tan tác bởi nó được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía, nỗi buồn vời vợi mênh mông giờ đã dọng thành khối trong lòng Kiều. "Buồn trông" là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi cuộc sống hiện tại. Nhưng trông mà vô vọng.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Thúy Kiều trông về "cửa bể chiều hôm". Lúc ấy, mặt trời đang sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nơi đó có gì ngoài mênh mông khoảng không trống vắng? Bầu trời đã dần tối, tối như chính cuộc đời nàng Kiều: tối tăm, u ám, không lối thoát. Trên cái nền trống vắng ấy xuất hiện một chiếc thuyền "thấp thoáng", "xa xa", lạc lõng, cô đơn. Cánh buồm mờ mờ, ảo ảo, chợt ẩn, chợt hiện không rõ, mơ hồ như ảo ảnh ở phía cưới trân trời. Con thuyền ấy cũng cô don, cũng lưu lạc một mình, lạc lõng giữa đất trời mênh mông. Con thuyền có khác chi cuộc đời Kiều đơn độc, vô định, lặng lẽ trôi giữa dòng đời trôi nổi...
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là vế đâu?
Trước mắt Kiều là dòng nước chảy trôi vô định. Nước chảy làm cánh hoa "trôi man mác", bồng bềnh, lặng lẽ, buồn bã, không phương hướng...Cuộc đời Kiều nào có khác thế? Cuộc đời của Kiều giờ đây cũng mỏng manh tan tác, vô định như cánh hoa kia, không biết phiêu bạt đến phương trời xa xăm nào nữa...Lòng đã buồn, cảnh lại quá đỗi buồn thương...
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Bầu trời mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng..."nội cỏ dầu dầu" ấy dàn trải tít tắp tới tận chân trời xa. Vẫn không một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá bớt cái màu xanh đơn điệu ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà "dầu dầu" buồn bã, heo hắt không chút sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ trải rộng ra mãi nối tiếp với vùng trời mênh mang mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt nhạt, xa xôi làm gợi lên một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô cùng. Và có lẽ, màu xanh ấy là màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau của Thúy Kiều. Tương lai của nàng cũng mờ mịt, ủ ê như chính sắc cỏ vậy...không sức sống, không niềm tin, vô vọng và dầy ngao ngán...
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng mạnh mẽ như vỡ ra trong lòng Kiều. Gió biển hun hút chạy vào duyenh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầu sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng gào thét ầm ầm như chực nuốt phăng đi tất cả mọi thứ hiện hữu, kể cả Kiều. Nàng cảm nhận thấy tiếng sóng đang bủa vây xung quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết chặt, gào thét trong tâm hồn nàng. Thúy Kiều dường như không còn lối thoát. Từng lớp sóng như muồn nhấn chìm nàng suống vực sâu đáng sợ! Chi tiết này đã dự báo cuộc đời nàng vẫn còn nhiều sóng gió, hiểm họa phía trước. Kiều đã gánh chịu quá nhiều đau thương, mất mát vậy mà vẫn chưa đủ, dòng đời vẫn cuốn nàng đi, xô đẩy, vùi dập số phận mong manh bé nhỏ của nàng...
Một lần nữa, Nguyễn Du đã chạm ngòi bút đền đáy sâu tâm hồn Thúy Kiều. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn từ miêu tả ngoại cảnh đều mang ý nghĩa và già trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và bất hạnh của một người con gái tài sắc. Nguyễn Du Đã sử dụng nột loạt những từ láy "thấp thoáng", "xa xa", "man mác", "dầu dầu", "xanh xanh", "ầm ầm" tạo nên âm điệu trầm buồn ghê sợ. Buồn trông được lặp lại 4 làn ở đầu câu như cất lên tiếng ai oán, đau thương lão lề.
Tám câu thơ khổ cuối như một bài ca buồn cất lên thổn thức khiến người đọc rưng rưng xúc động. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du vô cùng tinh tế và đặc sắc đã khac họa nên bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn du rất điêu luyện. Cảnh mang hồn người, cảnh và tình hòa hợp, sống động giàu giá trị biểu cảm. Tàm câu thơ cuối là linh hồn của đoạn thơ, để lại trong lòng người đọc những âm vang mạnh mẽ nhất!
Bài văn mẫu số 4
Nói đến thơ nôm bác học chúng ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là tác phẩm thơ nôm bac học lên một tầm cao mới với trình độ mẫu mực, bậc thầy về nghệ thuật. Đặc biệt, trích đoạn “Kiều ở lầu ngưng bích” là một trong những trích đoạn tiêu biểu, hay, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tuyệt vời khiến người đọc như thấu hiểu tâm can người con gái phải xa gia đình, lênh đênh giữa dòng đời và không biết phiêu dạt về đâu. Đây cũng chính là cảnh đầu tiên trong suốt 15 năm lưu lạc, truân chuyên của Kiều. Vì vậy, tâm trạng Kiều lúc này vô cùng ngổn ngang, sợ hãi và vô định. Đặc biệt 8 câu thơ cuối trong trích đoạn càng làm dấy lên tâm trạng của Kiều, đọc những câu thơ cuối người đọc cũng cảm thấy thương xót, đau đáu cho cuộc đời phía trước của Kiều.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Điệp từ “Buồn” liên tục được nhắc lại chứng tỏ tâm trạng Thúy Kiều vô cùng rầu rĩ. Người ta thường nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nó rất đúng trong hoàn cảnh này của Kiều. Đối với nàng cảnh vật xung quanh đều là màu u tối giống như tâm trạng của nàng. Nỗi buồn như xoáy vào tâm can, tạo thành từng lớp sóng trào.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Phân tích 8 câu thơ cuối bài kiều ở lầu ngưng bích – Chiều hôm chính là cảnh hoàng hôn. Tâm trạng buồn cùng với cảnh chiều tàn càng làm cho nỗi lòng người con gái thêm buồn tan nát. Hình ảnh cánh buồm xa xa với cửa bể chiều hôm dường như đối lập với nhau. Cửa bể rộng lớn bao la giữa đất trời là hình ảnh một chiếc thuyền nhỏ thấp thoáng giống như chính cuộc đời của nàng. Nàng cũng như chiếc thuyền kia lênh đênh ngoài biển khơi, không biết cuộc đời sẽ ra sao. Trong buổi chiều hôm ấy nỗi nhớ cha mẹ lại càng dâng lên xót xa biết nhường nào. Cảnh buổi chiều thường khiến cho người ta liên tưởng đến cảnh đoàn tụ, được trở về bên quê hương gia đình. Nhưng với Kiều đó chỉ là nỗi khao khát, nhớ nhung cha mẹ mà thôi. Còn nàng vẫn đang lênh đênh như chiếc thuyền nhỏ biết bao giờ mới “cập bến”.
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu tượng cho thân phận của nàng. Nàng đẹp như một đóa hoa chớm nở đầy sắc xuân thì. Vậy mà giờ đây lại trôi vô định giữa dòng đời và không biêt sẽ đi về đâu. “Buồn trong ngọn nước mới sa” – hay chính là những phong ba bão tố của cuộc đời vùi dập nàng không thương tiếc như cánh hoa tàn theo gió bay. Câu hỏi “biết trôi về đâu” cũng chỉ là câu hỏi tu từ, một lời than thân trách phận, ai oán. Qua câu hỏi càng nhấn mạnh về thân phận cuộc đời mình sao quá bèo bọt. Ngay cả trong ca dao xưa cũng đã viết: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Dường như, Nguyễn Du quá thấu hiểu và đồng cảm với thân phận người phụ nữ, câu hỏi ông đặt ra cho Thúy Kiều hay chính là sự thấu hiểu của ông dành cho nàng. Một người phụ nữ biết được giá trị của mình, khao khát hạnh phúc nhưng lại không biết làm thế nào để hạnh phúc, không biết cuộc đời sẽ xô mình đi đâu.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Màu xanh của Nguyễn Du trong hoàn cảnh này không phải là màu xanh của mùa xuân, của sự sống. Mà nó là một màu xanh nhợt nhạt đơn sắc. Nếu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân’, màu xanh được Nguyễn Du khắc họa lên với vẻ đẹp tươi tốt, mởn mởn bao nhiêu thì trong đoạn trích này nó lại rầu bấy nhiêu. Đáng lẽ ra, màu xanh của cỏ hòa với màu xanh trời đất tạo nên sự sống, mãnh liệt thì giờ đây qua ngòi bút của Nguyễn Du hay đúng ra qua ánh nhìn của Thúy Kiều, màu của cỏ là màu của sự héo úa lụi tàn hòa với màu xanh nhợt nhạt của đất trời tạo nên bức tranh u ám đúng với tâm trạng mà Kiều đang mang. Ở lầu ngưng bích chỉ có Kiều với thiên nhiên vậy mà thiên nhiên cũng không khiến cho nàng vui hơn, thậm chí trong mắt nàng cảnh sắc thiên nhiên chỉ là một màu úa tàn, u ám, sầu não. Điều này càng khẳng định “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đây cũng là hình ảnh cho thấy sự thảm thương của cuộc đời Kiều. Nàng vốn là một cánh hoa mới nở sớm đã lụi tàn, đường đời sóng gió khiến nàng tàn úa đến thảm thương.
Đặc biệt ở hai câu thơ cuối, nỗi buồn của nàng như được nhân lên gấp bội. Giờ đây nó không chỉ là buồn mà còn là sợ hãi:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Phân tích 8 câu thơ cuối bài kiều ở lầu ngưng bích – Nếu những câu thơ trên đều là tĩnh thì hai câu cuối lại là động. Đó không phải là tiếng gió nhẹ nhàng thổi qua hay tiếng hát thiên thai mà đó là tiếng sóng. Tiếng sóng vồ vập nghe đầy sợ hãi. Tiếng sóng ồn ào náo nhiệt ầm ầm khiến con người ta chao đảo và bế tắc giữa cuộc đời. Đây không phải là tiếng sóng ngoài biển khơi, đây là tiếng sóng lòng. Tiếng sóng lòng của Kiều đang dồn dập vỗ về đầy sợ hãi. Nó chính là những phong ba bão táp mà Kiều phải đối mặt suốt chặng đường 15 năm – chặng đường mà nàng Kiều chưa bao giờ và không bao giờ nghĩ tới. Nàng đâu biết rằng, nỗi sợ hãi này sẽ đeo bám nàng suốt 15 năm sau và nó còn đeo bám nàng mãi về sau. Nó chính là dự báo cho những tai ương, những đau đớn mà Kiều sắp đi qua. Có lẽ Kiều đã phần nào dự đoán được tương lai của mình chỉ là sóng gió, truân chuyên, lênh đênh giữa biển đời. Nhưng bao giờ kết thúc thì nàng không thể biết.
Với điệp từ Buồn liên tục sử dụng trong 8 câu cuối, tác giả đã khắc họa lên được tâm trạng đau đớn, buồn xé lòng và đầy sợ hãi của Kiều trước hiện tại và tương lai. Đặc biệt với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cho thấy tài năng bút pháp của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Với những hình ảnh thiên nhiên hết đỗi thân thuộc, nhưng lai khiến người đọc hiểu, thấu cảm với cuộc đời nàng Kiều. Không cần những hình ảnh hoa mỹ, đẫm lệ, chỉ là ngọn cỏ rầu rầu, cánh thuyền xa xa hay sống gập ghềnh quanh chân ghế cũng khiến độc giả hiểu được phần nào sự sợ hãi và dự báo về một tương lai đầy sóng gió của Kiều.
Tám câu thơ cuối chính là kiệt tác nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã khắc họa lên một bức tranh với nhiều trạng thái cảm xúc cô đơn, sợ hãi về tương lai mù mịt của nàng Kiều. Qua bức tranh đấy, ông cũng gửi gắm tâm trạng cảm thông sâu sắc đến cuộc đời nàng và lên án xã hội phong kiến hà khắc đã đẩy cuộc đời người phụ nữ đến bước đường cùng. Cảm thương thay, thân phận người phụ nữ xã hội xưa chỉ như cánh hoa mỏng trôi lênh đênh giữa dòng đời.
Bài văn mẫu số 5
Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ ấy không chỉ thể hiện được cái tài hoa của người tác giả mà nó còn cho thấy cái hồn của tiếng Việt. Nhà thơ Nguyễn Du chọn thể thơ lục bát khi viết Truyện Kiều là ông đã làm được cả 2 điều trên. Truyện Kiều trở thành áng thi ca bất hủ của mọi thời đại. 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng đủ cho ta thấy được cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh ngụ tình. Cho đến nay, có lẽ chưa ai làm được điều này tốt như ông.
Thúy Kiều được miêu tả ở là người “sắc đành đòi một tài đành họa hai” nhưng “chữ tài đi với chữ tai một vần”. Những năm tháng “êm đềm chiếu rủ màn che” nhanh chóng kết thúc, thay vào đó là những năm tháng bi thương mà mở đầu là chuỗi ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đây có lẽ là giai đoạn khó khăn với Thúy Kiều khi mà cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn. Những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường, Kiều thương mình, thương gia đình, thương cả mối tình vừa mới chớm nỏ nhưng đã vội chia lìa. Lòng nàng đau như cắt và nó khiến cho khung cảnh xung quanh cũng trở nên ảm đạm theo. Trong 8 câu cuối này, hai tiếng “buồn trông” được nhắc lại tới 4 lần. Có thể thấy lúc này, Kiều không còn ai để dựa vào ngoài chính mình. Nàng mong chờ thiên nhiên tươi đẹp mang đến cho nàng chút gì đó làm niềm vui nhưng không, với đôi mắt “buồn trông” thì nàng không thể nhìn thấy những điều tốt đẹp.
Thúy Kiều hướng đôi mắt của mình về phía xa, nơi có nhà của nàng, có một người nàng thương yêu nhưng chưa kịp nói lời từ biệt:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buổi chiều hôm là lúc mà khung cảnh trở nên ảm đạm. Cộng thêm cái nhìn của Thúy Kiều về nơi cửa bể quạnh hiu càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Xót xa thay cho người con gái bé nhỏ. Nàng tìm kiếm cho mình một chút hiện diện của sự sống như mong muốn vơi đi nỗi cô đơn của mình:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Có thuyền, ắt hẳn phải có người. Nhưng sự sống ấy ở xa quá, chẳng đủ làm khỏa lấp nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Hai chữ “thấp thoáng”, “xa xa” chỉ làm tăng thêm cảm giác cô liêu. Bấu víu vào cánh buồm xa không được, Thúy Kiều hướng ánh mắt buồn trông về phía ngọn nước:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cụm từ hoa trôi man mác khiến ta liên tưởng đến cánh bèo trôi. Cánh bèo thường được ví như thân phận của người phụ nữ. Hoa trôi về đâu? Cuộc đời của Thúy Kiều sau này sẽ đi về đâu? Thúy Kiều đặt ra câu hỏi cho cánh hoa nhưng cũng là đặt câu hỏi cho chính cuộc đời mình. Câu hỏi không có câu trả lời. Về đâu? Thúy Kiều cũng không biết được. Một cánh hoa trôi trên dòng nước lạnh lẽo, cô độc như Thúy Kiều của thực tại. Kiều lại đưa mắt về với mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cỏ xanh không còn rợn chân trời như ngày tết thanh minh nữa mà giờ đã trở nên rầu rầu như tâm trạng của con người. Phải chăng, ngọn cỏ cũng hiểu cho tâm trạng của Kiều? Tâm trạng buồn rầu ấy phủ ngập lấy không gian xung quanh. Kiều nhìn xa về phía chân mây rồi lại nhìn gần xuống mặt đất nhưng nơi đâu cũng chỉ thấy một màu xanh xanh. Đó là một màu xanh xám ảm đạm của buổi chiều tà chứ không còn là màu xanh của sự sống trong tiết trời mùa xuân nữa. Chính nỗi buồn của Thúy Kiều đã nhuộm buồn màu xanh của cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh ấy, chỉ có Thúy Kiều với nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng. Nàng tha thiết tìm một tiếng vọng của sự sống nhưng không, những gì nàng nhận về chỉ có âm thanh của tự nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cách lựa chọn từ ngữ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tất cả đều nhằm nói lên thân phận bèo trôi của Thúy Kiều. Tiếng sóng ầm ầm ở đây là tiếng sóng lòng của Thúy Kiều. Điều đó đủ cho ta thấy trong lòng nàng tâm trạng giằng xé dữ dội như thế nào. Tiếng sóng không làm phá vỡ không gian yên tĩnh của không gian mà nó càng làm khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn của Kiều. Đau đớn lắm chứ bởi lúc cần có người bên cạnh nhất thì Kiều chỉ tìm thấy được sự an ủi nơi thiên nhiên.
Đoạn thơ 8 câu đã nói lên được hết nỗi lòng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bên cạnh đó, đoạn thơ cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, ngụ tình. Khép lại đoạn thơ nhưng hình ảnh, âm thanh của nó vẫn sẽ còn lưu lại mãi trong tâm trí người đọc.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 đoạn văn cảm nhận 6 câu thơ đầu bài kiều ở lầu ngưng bích
TOP 15 bài Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy 2024 SIÊU HAY
TOP 8 bài văn Phân tích một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong “Truyện Kiều” (2024) HAY NHẤT