Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà
I. Dàn ý phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng: Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam, tác giả của nhiều tác phẩm văn chương và kịch bản phim nổi tiếng.
- Giới thiệu khái quát tác phẩm: Chiếc lược ngà (1966) là tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cảm gia đình, tình cảm cha con cảm động và sâu sắc trong chiến tranh.
2. Thân bài
* Khái quát về hoàn cảnh sáng tác:
- Chiếc lược ngà được viết vào năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
- Hoàn cảnh viết truyện theo lời kể của tác giả Nguyễn Quang Sáng: Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.
* Tình huống truyện
- Ông Sáu nóng lòng muốn nhận con sau 8 năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo trên má mãi tới khi mọi người chuẩn bị trở lại chiến trường miền Đông thì bé Thu mới chịu nhận ba.
- Bé Thu đã lâu ngày không gặp cha, hình ảnh của cha trong tâm trí nó chỉ được khắc ghi qua tấm ảnh cũ của mẹ.
- Còn ông Sáu, với vết thẹo dữ dằn kia, khác người đàn ông trong ảnh nhiều. Vì vậy phản ứng không nhận cha của Thu cũng rất tự nhiên, hợp với tâm lí, tình cảm của một đứa trẻ thơ.
- Ở chiến trường vì thương nhớ con ông Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh.
=> Tình huống truyện giàu kịch tính, gây bất ngờ, tò mò cho người đọc giúp nhà văn thể hiện rõ nét tình thương con sâu sắc của anh Sáu và nét tính cách đặc biệt của bé Thu.
* Phân tích nội dung truyện
Ở đây, các em có thể chọn phân tích theo 2 hướng: dựa theo diễn biến tình huống truyện hoặc phân tích theo từng nhân vật.
Cách 1: Phân tích theo diễn biến tình huống truyện:
- Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau bảy năm xa cách.
- Anh Sáu thoát li gia đình đi hoạt động cách mạng lúc con gái mới được một tuổi. Bảy năm sau, anh mới có dịp ghé thăm nhà, bé Thu đã lên tám tuổi.
- Anh Sáu quá đỗi vui mừng, muốn bày tỏ tình cảm yêu thương, âu yếm đối với con.
- Ngược lại, bé Thu đối với anh như người xa lạ: sợ hãi, xa lánh, dù má giải thích thế nào đi nữa, bé vẫn dứt khoát không nhận ba.
- Bữa cơm đoàn tụ, anh Sáu gắp cho con miếng trứng cá, bé Thu vùng vằng hất xuống đất. Anh Sáu đã nổi giận, đánh con một cái vào mông. Bé Thu giận lắm nên em đã chèo xuồng sang sông với bà ngoại ngay lúc đó.
- Cảnh chia tay đầy cảm động.
- Trong phút chia tay bịn rịn, tình yêu thương và nỗi khát khao được gặp cha bùng dậy trong lòng bé Thu khiến bé hối hả, cuống quýt bày tỏ tình cảm của minh.
- Bé bật kêu lên tiếng gọi “Ba!”, chạy lại ôm ghì lấy cổ ba không rời, khóc nức nở, không cho ba đi nữa.
- Chứng kiến cảnh này, hẳn ai ai cũng xúc động, xót xa. Bác Ba (bạn của anh Sáu) bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm chặt lấy trái tim đến nghẹn ngào.
Cách 2: Phân tích chân dung từng nhân vật
- Nhân vật bé Thu
- Ban đầu, khi ông Sáu mới về, bé Thu không chịu thừa nhận cha: không chịu vâng lời ông Sáu nói, không gọi “ba”, nói trống không, hất miếng trứng cá mà ông Sáu gắp cho nó ra khỏi bát, bỏ sang nhà ngoại khi giận ông Sáu…
- Sau khi được bà ngoại giải thích cặn kẽ, bé Thu mới hiểu ra đó là ba mình. Tiếng thét của bé Thu “Ba…a…a…ba!” chứa đựng tất cả tình yêu thương, nỗi nhớ và sự ân hận. Cô bé nhất định “không cho ba đi nữa”,“hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”…
- Lớn lên, Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, cùng tham gia kháng chiến, tiếp bước con đường của cha cô, để lí tưởng của cha còn sáng mãi. Hai cha con quả “đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
- Nhân vật ông Sáu
+ Những ngày ở nhà:
- Tâm trạng háo hức, niềm xúc động khi được gặp con: cái thẹo trên má anh đỏ ửng lên, giần giật; giọng run run.
- Nỗi đau khổ khi bị con gái cự tuyệt: mặt sầm lại trông rất đáng thương, hai tay buông xuống như bị gãy.
- Cố gắng tìm mọi cách để chuyện trò, vỗ về con: gắp trứng cá cho con.
- Cơn giận và việc đánh con cũng xuất phát từ nỗi đau khổ của một người cha bị con cự tuyệt.
- Phút chia tay, niềm hạnh phúc khi được bé Thu gọi “ba” khiến anh bật khóc.
+ Khi ở chiến khu:
Bao nhiêu tình cảm yêu thương, nhớ nhung ông dồn vào việc làm chiếc lược ngà, món quà kỉ niệm ông đã hứa tặng con gái ngày ra đi: “Lúc rảnh rỗi anh ngồi cưa từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành, những đêm nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía”.
Chiếc lược ngà đối với ông là vật kỉ niệm, vật mang tâm hồn, chứa đựng biết bao tình thương, nỗi nhớ của ông đối với con gái yêu. Chiếc lược là niềm an ủi, động viên ông trong những ngày tháng gian khổ. Có thể nói, chiếc lược ngà là biểu tượng tình cảm cha con - một tình cảm thiêng liêng, sâu nặng và bất diệt.
Bị thương nặng, chỉ đến khi gửi lại chiếc lược ngà lại cho bạn với lời nhắn nhủ sẽ trao tận tay bé Thu, ông mới yên lòng nhắm mắt.
3. Kết bài
- Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Giá trị nội dung: Truyện thể hiện sâu sắc tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, đó là khẳng định ngợi ca tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân văn sâu sắc, là cội nguồn, sức mạnh vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh.
- Đặc sắc nghệ thuật: Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp; xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính mà vẫn tự nhiên, hợp lí; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là bé Thu; ngôn ngữ kể dung dị mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
- Nêu cảm nghĩ của em về tác phẩm.
II. Một số bài văn mẫu hay phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà
Bài mẫu số 1
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được sáng tác năm 1966. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: Ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu - đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.
Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình.
Trước hết về bé Thu, em là con của ông Sáu nhưng từ nhỏ đã phải xa cha do ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại ba, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên đầy hạnh phúc, nhưng trái ngược với ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu dửng dưng, thậm chí hốt hoảng gọi Má. Má . Những ngày sau đó, dù ông Sáu hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh cự tuyệt ông Sáu. Dù ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu chỉ gọi trống không, không nhận được sự trợ giúp của ông Sáu, nó cũng loay hoay tự làm một mình. Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, Thu gạt ra, bị ông Sáu đánh, cô bé lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thật chính xác thái độ, hành động khác thường của bé Thu. Bởi trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt em không hiểu những éo le mà chiến tranh gây ra, nên chỉ vì một vết thẹo trên mặt ông Sáu em kiên quyết không nhận ba. Điều đó cũng cho thấy Thu là đứa trẻ bướng bỉnh, cá tính nhưng đằng sau sự từ chối đến cứng đầu đó là tình yêu thương thắm thiết Thu dành cho ba mình.
Bé Thu cứng đầu chối từ sự ân cần của cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu lên đường về đơn vị. Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người, tiếng gọi ba của Thu là tiếng gọi kìm nén suốt tám năm, tám năm yêu thương, đợi chờ ngày ba về. Không chỉ gọi, con bé con lao tới, nhảy lên người ba và hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo đã khiến con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu ôm chặt anh, quàng cả chân vào người anh Sáu, bởi nó sợ buông lơi anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy còn như muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho ba. Trong khoảnh khắc đó, ai cũng như lặng người đi vì xúc động. Với lối miêu tả chân thực, giàu cảm xúc tác giả đã cho thấy tình yêu thương sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc gan góc, bướng bỉnh nhưng em rất giàu tình cảm và dễ xúc động.
Về phía ông Sáu, trong ba ngày về nghỉ phép, ông dành trọn yêu thương cho đứa con gái bé bỏng. Thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, chạy về phía con, đôi bàn tay sẵn sàng dang ra chờ đợi đứa con sà vào lòng. Nhưng trái ngược với điều ông tưởng tượng, bé Thu cự tuyệt, lảng tránh, điều đó làm ông hết sức đau lòng, hai tay ông buông thõng như bị gãy. Khuôn mặt ấy thật đáng thương biết bao, ông không biết làm thế nào để có thể xóa nhòa khoảng cách thời gian và không gian ấy. Để bù đắp cho con, ba ngày nghỉ phép ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, yêu thương, ân cần bên con mong Thu sẽ thay đổi. Trước sự cứng đầu của Thu, ông chỉ khẽ lắc đầu, chứ không hề trách mắng con. Chỉ đến khi ông gắp thức ăn cho nó bị Thu bỏ ra, bao nhiêu buồn đau dồn nén bấy lâu ông đã đánh Thu, điều ấy đã làm ông ân hận mãi về sau. Khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cũng đau lòng nhất của ông chính là được nghe tiếng gọi ba thiêng liêng, nhưng đó cũng là lúc ông phải chia tay con trở về đơn vị. Một người lính từng trải, gan góc trên chiến trường lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế, cứ thế trào ra. Trong những ngày ở chiến trường ông ân hận vì đánh con, không quên lời hứa, ông dồn tâm huyết vào làm chiếc lược ngà. Ông chi chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược cho nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt đầy yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội trao lại cho bé Thu. Tình cha con đã không chết, nâng đỡ cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương mất mát. Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.
Câu chuyện đã tái hiện thành công tình cha con sâu nặng của bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh; những bi kịch cùng tình cảm gia đình đẹp đẽ trong thời chiến. Đồng thời tác phẩm cũng ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Bài mẫu số 2
Nguyễn Quang Sáng viết tác phẩm “Chiếc lược ngà” khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà, nhiều gia đình vì thế mà ly biệt.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người vợ xa chồng.
Truyện ngắn kể về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của anh Sáu một chiến sĩ cách mạng với ba ngày nghỉ phép về thăm nhà, được gặp cô con gái đầu lòng chưa từng nhìn thấy mặt. Con bé Thu không nhận ra ba mình, bởi nó chỉ nhìn thấy hình ảnh anh Sáu qua bức ảnh chụp ngày ba mẹ cưới nhau. Còn anh Sáu hiện tại thì già hơn, sương gió hơn, đặc biệt là vết sẹo do chiến tranh để lại làm khuôn mặt anh có nhiều biến dạng.
Thu là một có bé cá tính, có chút ngang ngạnh, gai góc. Nhưng cũng là người sống vô cùng nội tâm, sâu sắc. Những ngày anh Sáu về phép nó nhất quyết không chịu nhận anh làm ba. Nói năng với anh chỉ trống không. Nhưng khi anh sắp phải lên đường đi công tác nhận nhiệm vụ mới, thì nó òa khóc. Ôm chầm lấy ba mà nói “Không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con”. Tình cảm cha con thật thiêng liêng, xúc động khiến nhiều người đọc phải nghẹn ngào bật khóc.
Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã vô cùng tinh tế khi khắc họa cô bé Thu láu lỉnh, gai góc nhưng có cá tính riêng, nội tâm sâu sắc. Anh Sáu là người cha thương con, nhẫn nhịn thể hiện tình cảm cha con bền chặt, ruột thịt gắn bó không gì có thể chia cắt được.
Những ngày ở khu căn cứ, anh Sáu đã dành thời gian tình cảm của mình làm tặng cho con gái một chiếc lược ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, không may anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh chỉ biết trao cây lược ngà cho người bạn thân, đồng đội chiến đấu của mình để mang về tặng cô con gái giúp mình.
Món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng chứa đựng biết bao tình cảm sâu sắc, thiêng liêng của người cha dành cho con. Tình huống truyện vô cùng độc đáo, thể hiện nỗi đau của chiến tranh khi đã làm tan nát nhiều gia đình hạnh phúc, yên ấm.
Tình huống truyện được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện vô cùng khéo léo, tinh tế: Cuộc gặp gỡ định mệnh của hai cha sau bao năm xa cách. Bé Thu là một cô bé mong muốn có cha, luôn khao khát gặp ba. Nhưng khi gặp ba thì em lại không nhận ra. Sự lạnh nhạt của em dành cho ba ông Sáu trong những ngày nghỉ phép thể hiện sự trẻ con của một cô bé tám tuổi.
Anh Sáu khi được nghỉ phép về nhà nhìn thấy con gái anh vui mừng ôm chầm lấy con bằng tình cảm nồng nàn của người cha phải xa đứa con gái bé bỏng lâu ngày. Nhưng đáp lại tình cảm của anh con bé Thu chỉ hững hờ tránh né, tỏ vẻ xa lánh và coi anh như người lạ.
Khi má bảo gọi bà vào ăn cơm con bé chỉ ra ngoài và đáp trống không “Vô ăn cơm”. Kể cả khi má không có nhà nó muốn nhờ anh Sáu bỏ bớt nước nồi cơm cho mình nhưng không biết xưng hô như thế nào. Nó cũng nói trống không nhất quyết không gọi anh Sáu bằng ba. Không nhờ anh Sáu. Anh Sáu im lặng chú ý xem con định làm như thế nào thì con bé nhanh nhẹn lấy muôi múc từng ít nước bỏ đi cho cơm khỏi nhão.
Trong bữa ăn cơm anh Sáu thương con gắp thức ăn cho nó nhưng nó hất tay anh ra làm cho miếng thức ăn rơi xuống đất, hành động của nó khiến anh giận dữ và đánh cho con bé một cái vào mông. Con bé bỏ cơm rồi chèo thuyền sang nhà bà ngoại.
Diễn biến tâm lý của cô bé Thu được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sinh động chi tiết, khiến người đọc cảm nhận được cô bé là người cá tính, gai góc giống như một con nhím nhỏ luôn xù lông của mình ra để bảo vệ lớp thịt mềm yếu bên trong. Nội tâm của con bé Thu vô cùng sâu sắc, tình cảm.
Trong thái độ cứng đầu của bé Thu thể hiện tình cảm thiêng liêng mãnh liệt của cô bé dành cho cha mình, bởi cô bé không biết ông Sáu mặt có vết sẹo kia chính là ông Sáu trong bức hình chụp cùng mẹ ngày cưới. Nên cô bé mới có thái độ chống đối như vậy mà thôi.
Ba ngày phép ngắn ngủi rồi cũng qua, ngày ông Sáu chuẩn bị lên đường đang bịn rịn chia tay người nhà thì bất chợt cô bé Thu cất tiếng gọi rồi nó lao vào ôm ba “không cho ba đi” vừa nói nó vừa khóc, nghe thật cảm động xót xa, thể hiện tình cảm của một người con không muốn ba mình đi xa. Tiếng ba mà cô bé Thu gọi thể hiện sự dồn nén bao lâu trong tâm hồn cô bé. Nó là tiếng gọi tha thiết từ đáy lòng của người con dành cho ba của mình.
Tác phẩm Chiếc lược ngà hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật vô cùng tinh tế, thể hiện sự chuyển đổi tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc, khắc họa thành công nhân vật bé Thu vừa trẻ con ngây thơ, vừa người lớn gan góc cứng đầu. Nhưng dù ở hướng nào thì cô bé Thu cũng là người con vô cùng đáng yêu.
Sự hy sinh của anh Sáu và kỷ vật mà anh để lại cho con gái mình khiến cho nhiều người đọc cảm thấy xót xa, nghẹn ngào, tội ác của chiến tranh là vô cùng to lớn. Chính chiến tranh đã làm cho những người con không được gần cha, nhiều người vợ không được gần chồng. Nhiều gia đình ly tán.
Truyện ngắn "Chiếc lược ngà” đã miêu tả thành công, xúc động sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật bé Thu và tình cảm sâu sắc của người cha anh Sáu dành cho cô con gái bé bỏng của mình.
Bài mẫu số 3
Người xưa vẫn hay nói “tình phụ tử không thể đẹp đẽ và ấm áp như tình mẫu tử” và có lẽ cũng chính vì nhận định đó nên hiếm có nhà văn nào viết về tình cha con. Trong số ít đó có thể kể đến Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966. Đây có thể được coi là một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện ngắn chắc hẳn đã lấy đi khá nhiều nước mắt của bạn đọc và cũng đã khắc sâu vào trong lòng những ai đã đọc truyện tình phụ tử sâu nặng.
Truyện kể về ông Sáu - 1 người chiến sĩ cách mạng. Ông xa nhà đi kháng chiến đã được 8 năm. Lần này được về phép ba ngày nên ông vô cùng phấn khởi khi nhận ra con gái của mình. Ông mừng rỡ chạy đến nhưng bé Thu Đã bỏ chạy vì sợ. Trong suốt 3 ngày ở nhà ông không dám đi đâu, suốt ngày bên con an ủi vỗ về mong con gọi một tiếng ba nhưng bé Thu luôn tìm cách lảng tránh ông. Nó nói trống không, hỗn xược với ông. Thậm chí trong bữa cơm tức giận quá ông đã đánh con bé. Thu liền chạy sang nhà bà ngoại. Ngày hôm sau trước khi ông Sáu lên đường bé Thu đã cất tiếng gọi ba. Cả ông Sáu và bé Thu đều bật khóc. Em đã cố níu giữ không cho ba đi nhưng vì công việc vì nhiệm vụ ông Sáu vẫn phải lên đường. Trước khi đi ông đã đồng ý với lời dặn của con là mua cho nó một cây lược. Ở chiến khu ông Sáu không nguôi nỗi nhớ về con, ân hận vì đã lỡ đánh con và nhớ tới lời dặn của con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông ra sức làm cho con cây lược, ông khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu - con của ba”. Trong một trận càn ông Sáu bị thương nặng, trước lúc hi sinh ông đã trao lại cây lược ngà cho bác Ba với ánh mắt như muốn trao gửi lại tất cả cho người đồng đội của mình.
Hiện lên trong truyện ngắn là hình ảnh của bé Thu - một em bé miền Nam đã chịu nhiều thiệt thòi vì chiến tranh, là một đứa bé ương ngạnh, bướng bỉnh nhưng cũng rất yêu mến cha của mình. Khi bé Thu đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà cùng với các bạn của em thì chiếc xuồng của ông Sáu cập bến. Khi nghe có người gọi “Thu! Con”, con bé giật mình, nó tròn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng, tái mặt đi, vụt chạy và thét lên “Má! Má!”. Đó là sự bất ngờ, ngạc nhiên và hoảng sợ của một đứa bé khi lần đầu tiên nghe có người gọi là con và xưng là ba của nó. Phản ứng ấy rất tự nhiên và phù hợp. Trong ba ngày ngắn ngủi, em nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm nó lại nói “Thì má cứ kêu đi” đến khi mẹ nó nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh thì nó gọi trống không “Vô ăn cơm” rồi lại “Cơm chín rồi”. Trong lần mẹ em phải đi ra chợ mua thức ăn, em ở nhà phải trông nồi cơm. Khi nghe nồi cơm sôi, em giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua. Vì nồi cơm hơi to không thể nhấc xuống nhưng vẫn không chịu nhờ ông Sáu. Lúc nồi cơm sôi lên sùng sục, em hơi sợ “nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại nhìn lên” và cuối cùng nó cũng đã tự mình múc nước ở nồi cơm “miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá để vào chén nó đã hất cái trứng cá ra làm cơm văng tung tóe ra cả mâm. Bị ông Sáu đánh nó không khóc mà chạy ngay sang nhà bà ngoại khoe với bà và khóc. Cả đêm nó nằm im, lăn lộn và thở dài khi nghe bà ngoại lí giải mọi chuyện. Ngày hôm sau, khi ông Sáu lên đường nó cũng theo bà về, nó lặng lẽ đứng ở góc nhà, đôi mắt buồn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, “cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Lúc ông Sáu chuẩn bị lên đường, nó bỗng kêu thét lên “Ba..a..a..ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người nghe thật xót xa”. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ tận sâu trong đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tất cả cảm xúc dồn nén đến vỡ òa ra trong giây phút đỉnh điểm của sự xúc động, cảm xúc lần đầu tiên chạm đến thứ quý báu nhất trên đời, đó là tiếng gọi ba lần đầu tiên trong suốt 8 năm tuổi thơ chịu nhiều thiệt thòi. Rồi tình cảm của nó được biểu hiện bằng những nụ hôn “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Nó hôn lên vết thẹo dài bên má ba nó không chỉ là sự chuộc lỗi mà còn thể hiện tình cảm lớn lao mà nó dành cho ba. Vì vết thẹo đó mà nó ba nó đã phải chịu nhiều sự đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Người đọc nhận ra thái độ của em thay đổi đột ngột: em đã nhận ông Sáu là ba. Lúc này tình yêu ba của em dâng lên đầy mãnh liệt.
Còn về ông Sáu, trước sự ương bướng, ngang ngạnh của Thu ông Sáu vẫn là một người cha yêu con hết mực, vẫn cố gắng an ủi, vỗ về con. Sau 8 năm đi kháng chiến xa nhà, lần này được nghỉ phép ba ngày “cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”. Xuồng vào bến, chợt nhận ra bé Thu, không thể chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra” và ông gọi to “Thu! Con” giọng lắp bắp run run “Ba đây con! Ba đây con! “.Khi bé Thu chạy đi vì hoảng sợ cũng là lúc ông Sáu “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày nghỉ phép ông chẳng đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở nhà vỗ về, an ủi bé Thu mong em gọi một tiếng ba nhưng nó nhất quyết không chịu gọi. Bực mình trước sự ngang ngạnh và thái độ của Thu, không kìm nổi cảm xúc ông đã đánh con “giận quá, không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông con bé và hét lên: Sao mày cứng đầu quá vậy hả? “. Đang trong lúc tuyệt vọng nhất, ngỡ như bé Thu sẽ mãi mãi không bao giờ gọi là ba thì ông đã hạnh phúc tột cùng khi Thu nhận ông là ba, ông “vứt khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Nước mắt của ông Sáu chính là niềm vui sướng khi cuối cùng bé Thu đã chịu nhận ông là ba - niềm mong mỏi bấy lâu nay của ông Sáu. Rồi trước khi lên đường ông đã hứa sẽ mua cho nó một cây lược ngà.
Ở chiến khu, lúc nào ông cũng cảm thấy ân hận và day dứt vì đã đánh con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông Sáu vui lên hẳn. Ngày nào cũng cần mẫn, tỉ mỉ đẽo, gọt thành một chiếc lược ngà thật đẹp cho con gái yêu dấu. Ông còn khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu - con của ba”. Từ ngày làm xong chiếc lược ông cũng bớt đi phần nào ân hận vì đã đánh con. Những lúc rảnh rỗi ông thường lôi chiếc lược ra mà ngắm rồi chải lên mái tóc cho chiếc lược thêm bóng mượt và ông càng mong được gặp con hơn. Không may mắn trong một trận càn của địch ông Sáu bị thương, trước khi nhắm mắt ông đã cố sức lấy chiếc lược ngà nhờ bác Ba gửi lại cho con gái. Đến giây phút cuối của cuộc đời người cha ấy vẫn luôn nghĩ tới con, dành trọn tình yêu cho đứa con gái bé bỏng.
Bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, đậm chất Nam Bộ Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng rất thành công hình ảnh bé Thu và ông Sáu. Hai nhân vật chính cùng các tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn đã làm nổi bật lên tình cảm cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, trong bom đạn khốc liệt. Tình cảm ấy là cội nguồn sức mạnh giúp con người Việt Nam vượt lên sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù.
Bài mẫu số 4
“Khi con tát cạn biển Đông
Thì con mới hiểu tấm lòng của cha”
Tình cảm cha con mãi mãi là đề tài sâu sắc và ý nghĩa. Nguyễn Quang Sáng thấu hiểu được vấn đề ấy nên đã có những bài văn viết về tình cha con rất đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông bắt đầu viết văn sau năm 1954 và đề tài chủ yếu là cuộc sống con người Nam Bộ. Ông sáng tác nhiều truyện ngắn nhưng tác phẩm tạo được tiếng vang nhất là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong tình cảnh éo le của chiến tranh.
Chiến tranh đi qua nhưng mãi mãi để lại trong lòng mọi người một nỗi khiếm khuyết, một nỗi đau rất khó lành. Nó đã chia cắt con người ta rất nhiều thứ, như tình cảm gia đình, tình cha con hay tình mẫu tử. Thấu hiểu được nỗi đau khổ ấy, Nguyễn Quang Sáng đã viết nên một câu chuyện ngắn “Chiếc lược ngà” là câu chuyện về tình cha con gây xót xa người đọc. Tình huống chuyện được Nguyễn Quang Sáng xây dựng rất tinh tế. Tình huống thứ nhất là anh Sáu được về thăm nhà 3 ngày sau mấy năm trời xa cách. Thế nhưng éo le thay là bé Thu lại không chấp nhận anh Sáu là ba vì một số hiểu lầm của cô bé. Nhưng đến khi anh Sáu sắp quay lại chiến khu thì cô bé mới chịu nhận anh Sáu là ba. Tình huống thứ hai là khi quay lại chiến khu anh Sáu đã làm tặng con gái một chiếc lược ngà, nhưng chưa kịp trao tặng tay cho con thì anh Sáu đã hi sinh. Tình huống truyện có phần éo le, bi kịch, nhưng tình tiết diễn ra đều rất tự nhiên như đúng ý tưởng mà nhà văn sáng tác nên.
Thu - một nhân vật được Nguyễn Quang Sáng xây dựng đặc sắc với ngôn ngữ thoại và tính cách nổi bật. Đầu tiên, là thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là ba. Một cô bé sống với mẹ sau mấy năm trời ròng rã xa bố. Thu chỉ biết nhìn bố qua tấm ảnh mẹ đưa. Đến khi thuyền anh Sáu cập bến anh cất tiếng gọi “Thu!Con” đã làm cô bé giật mình. Một cô bé chừng tám tuổi, “tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi”. Với cái độ tuổi và sự hồn nhiên ấy sẽ dễ bị hoảng sợ khi gặp một người lạ mà có cách kêu thân mật với mình. Bé Thu “giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”. Một cảm giác hoảng hốt và đầy nỗi sợ hãi của Bé Thu. Với việc miêu tả tâm lí nhân vật qua tài tình Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện lại y như thật với cách viết rất tinh tế. Sau đó con bé “vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má”. Tiếng kêu ấy như xé lòng, cho thấy bé Thu thật sự rất sợ hãi. Bé chỉ biết dựa vào mẹ của mình, vì nhiều năm trời chỉ biết mỗi có mẹ. Một sự thiếu thốn tình cảm ấy khiến cô bé trở nên rất đáng thương. Những nỗi đau khổ ấy đều cho chiến tranh mà ra.
Khi anh Sáu ở nhà ba ngày đã có những lần anh Sáu và bé Thu giao tiếp với nhau nhưng tất cả con bé đều trả lời trống rỗng không đầu không đuối khiến anh Sáu đau lòng. Như gọi anh Sáu ăn cơm bé Thu nói rỗng: “Vô ăn cơm” hay “cơm chín rồi”. Với cách miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và am hiểu tính cách trẻ con nên tác giả đã xây dựng những câu thoại rất tự nhiên và hợp tình hợp lí. Từ đó, khiến không ít đọc giả đau lòng thay anh Sáu biết bao. Xa con bao nhiêu năm ròng rã, ngày trở về chỉ mong con gái nhận ba. Nhưng hoàn cảnh đã đi ngược lại mọi dự tính của anh Sáu, tất cả đều khiến anh đau lòng. Ngoài ra cô bé này còn nhiều lần nói rỗng khi chưa chịu nhận anh Sáu là ba như: “Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái!” hay “Cơm sôi rồi nhão bây giờ”.
Những lời nói trống không ấy không thể nào trách cứ được bé Thu vì đó cũng là tâm lí của bao đứa trẻ con trong hoàn cảnh ấy. Ngay cả khi lên ăn cơm anh Sáu gắp cá cho mà cô bé còn hất văng ra đất. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Bé Thu mãi mãi là cô bé đáng yêu nhất trong việc xây dựng nhân vật trong truyện ngắn này của tác giả Nguyễn Quang Sáng. Sau tất cả tác giả cũng để cho nhân vật mình nhận ra ba của mình, một chuỗi chi tiết lấy đi không ít nước mắt của người đọc, người nghe. Bé Thu nhận ra ba khi được bà ngoại dạy và kể câu chuyện cảm động: Thu không nhận anh Sáu là ba vì trên mặt anh Sáu có vết sẹo dài không giống như lúc mẹ cho Thu coi. Bà đã kể đó là vết sẹo đó do anh Sáu đi đánh Tây để lại. Cô bé hiểu chuyện nên đã biết mình nên làm gì vào sáng hôm sau khi anh Sáu chuẩn bị quay lại chiến trường. Thu đã nhận ba: con bé kêu thét lên: “Ba…a…a…! Ba!”.
Tiếng kêu ấy thật xé lòng cả anh Sáu và lẫn bé Thu và biết bao những người chứng kiến lúc ấy. Những điều ấy cho thấy nghệ thuật tài hoa trong việc miêu tả tâm lí và diễn biến cốt truyện của Nguyễn Quang Sáng. Cô bé Thu đã ôm chầm lấy ba của mình và nhất định không cho ba đi: “Con bé hét lên, hai tay ôm chặt lấy cổ…”. Chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất chân thật và lấy đi không ít nước mắt của độc giả. Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
“Người ba nào mà chẳng thương con-chỉ là cách thể hiện tình cảm của mỗi người mỗi khác”. Câu nói ấy thật đúng! Anh Sáu khi quay lại chiến trường đã luôn thương nhớ về đứa con gái bé bỏng của mình. Lúc chuẩn bị ra đi anh Sáu “Hai tay buông lỏng xuống như bị gãy…” Anh Sáu lúc ấy rất đau khổ, đau hơn cả trăm mũi tên cùng bắn vào tim anh. Cảm giác ấy có lẽ ai đã làm ba sẽ hiểu, nhưng với lối viết và ngôn ngữ gợi tả tinh tế chi tiết đã làm mọi người đều cảm nhận sự đau khổ tột cùng của anh Sáu. Anh thương con! Thương hơn cả sinh mệnh của bản thân anh. Nhưng vẫn còn chuyện làm anh ray rứt mãi là đã đánh bé Thu trong lúc con bé ương ngạnh không nhận tình cảm của anh.
Về chiến khu anh đã làm ngay một chiếc lược ngà bằng tất cả tình yêu và tâm huyết. Anh vui mừng khi tìm được “khúc ngà” và “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”! “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Những chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả tỉ mỉ và rất chân thực. Điều đó làm người đọc cảm nhận được nhiều hơn tình cảm và tâm huyết của anh Sáu vào chiếc lược ngà. Anh hi vọng với chiếc lược này sẽ chảy lên mái tóc óng ánh của con gái, chảy đi bao muộn phiền uẩn khúc của hai cha con. Để mai này con gái anh lớn lên nó sẽ luôn nhớ về người ba từng yêu con bé rất sâu sắc!
Với việc xây dựng tính cách và tâm lí nhân vật rất tinh tế, sâu sắc, tình huống truyện tự nhiên hợp lí. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện chân thật và sâu sắc về tình cảm cha con sâu nặng. Qua đó, tố cáo tội ác chiến tranh đã gây ra biết bao nghịch cảnh éo le, ngang trái mà điển hình là câu chuyện của cha con bé Thu và anh Sáu. Nhưng sau tất cả “ba vẫn mãi là ba của con” đúng như câu nói ấy. Bé Thu, anh Sáu đã trao yêu thương cho nhau qua “Chiếc lược ngà” mà anh Sáu dành tặng cho con gái-đó là tài sản quý báu nhất của bé Thu! Từ đó, tác giả đã cho ta thấy một triết lí sống rất nhân văn:
“Cha là tất cả cha ơi
Ngàn năm con vẫn trọn đời yêu thương”
Xem thêm những bài văn mẫu 9 hay khác:
TOP 10 Bài phân tích bài thơ Chiều tối (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Bài phân tích nhân vật Thị Nở (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Bài phân tích bức tranh phố huyện (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Bài văn phân tích 2 khổ cuối Tràng Giang (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Bài phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện (2024) SIÊU HAY