TOP 10 Bài phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới (2024) SIÊU HAY

Dưới đây là TOP 10 Bài phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới hay nhất sẽ giúp các em học sinh ôn tập và học tốt môn Ngữ Văn hơn. Mời bạn đọc tham khảo:

Dàn ý phân tích bài Bảo kính cảnh giới

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài:

2.1. Bức tranh thiên nhiên ngày hè:

* Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ:

- Hình ảnh: "hòe lục", "thạch lựu hiên", "hồng liên trì" => hình ảnh gắn liền với cuộc sống thường ngày, giản dị, mộc mạc.

- Động từ "đùn", "phun" thể hiện:

+ "đùn đùn": diễn tả sự phát triển mạnh mẽ của những tán hòe => gợi ra hình ảnh những tán hòe xòe rộng, không ngừng vươn mình, tỏa rộng, bao phủ một không gian lớn.

+ "phun": sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhựa sống của hoa lựu => hình ảnh hoa lựu đỏ rực trước hiên nhà, đang liên tiếp bung nở nơi đầu cành lá.

- "Hồng liên trì đã tịn mùi hương": sen hồng trong ao nhà đã tỏa ngát hương thơm => hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết.

* Bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng: nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy tượng thanh để miêu tả âm thanh cuộc sống:

- Từ láy "lao xao": thanh âm xôn xao từ chợ cá vọng lại.

- "Dắng dỏi": tiếng kêu liên tục, không dứt, "cầm ve": âm thanh sôi nổi, vui vẻ của đàn ve giống như tiếng đàn.

2.2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình.

- "Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có, mong được có.

- "Ngu cầm": điển cố về vua Ngu Thuấn.

-> Ước mơ có cây đàn của vua Thuấn để gảy lên khúc "Nam Phong" -> thể hiện khát vọng được đem đến cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho nhân dân.

- "Dân giàu đủ khắp đòi phương": hi vọng dân chúng ở khắp mọi nơi đều sống êm ấm, đủ đầy.

=> Cốt cách cao cả của người anh hùng Nguyễn Trãi.

2.3. Đặc sắc nghệ thuật:

- Ngôn ngữ mộc mạc, dân dã; hình ảnh đời thường quen thuộc.

- Hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn.

- Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy "lao xao", "dắng dỏi" và các động từ mạnh "đùn đùn", "phun".

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị bài thơ.

Một số bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới

Bài mẫu số 1

Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong "Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. "Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.

Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

"Rồi bóng mát thuở ngày trường”

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng" đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào ”, vòng "danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường" là ngày dài. "Rồi" là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.

Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá "đùn đùn " lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

"Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”

Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.

Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:

“Lại có hoa hoè chen bóng lục”

("Cảnh hè" – Ức Trai)

“Có thuở ngày hè trương tán lục,

Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”

("Hoè" – Ức Trai)

"Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,

Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè ”

("Vịnh cảnh mùa hè" – "Hồng Đức quốc âm thi tập").

“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây,

Choi chói hoa vàng đưa gió

Đùn đùn tán lục gương mây’’.

("Màn hoè" – Lê Thánh Tông)

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, "phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:

“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ”

("Mùa hè")

“Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, "lửa lựu luống thè be" đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ "Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.

Câu 4 nói về sen: "Hồng liên trì đã rịn mùi hương". “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịch mùi hương” tức là đã cuối hè.

Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:

“Tá lòng thanh vị núc nác,

Vun đất ải lãnh mồng tơi”

(Ngôn chí – số 9)

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen”

("Thuật hứng" – số 24)

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói "lao xao " của đời thường:

“Lao xao chợ cá làng ngư phù,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".

Sau khi tả hoè màu "lục”, lựu "phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. "Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. "Dắng Dỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương”

Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:

“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,

Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve

(Vịnh cảnh mùa hè).

Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành "cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.

Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

"Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương’’.

"Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.

Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:

"Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào "

(Mạn thuật – số 13)

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

("Thuật hứng" – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

Bài mẫu số 2

Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến vơi những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.

Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên CÔn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trải trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.

Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. àm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiển ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở manh mẽ trong mùa hè.

Bức họa đồn quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.

Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luô giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân tram họ.

Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nối khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.

Bài mẫu số 3

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương"

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

Bài mẫu số 4

“Cảnh ngày hè” là tập thơ được ông viết vào khoảng thời gian về nghỉ ngơi ở Côn Sơn. Tại đây Nguyễn Trãi được hoà với cảnh tươi đẹp của thiên nhiên cùng con vật ở vùng thôn quê và sống một cuộc sống nhẹ nhàng bình dị, tạm lánh nơi kinh thành đông đúc xe cộ, mỏi mệt trước các thủ đoạn đua tiền quyền thế. Trong suốt thời gian nghỉ ngơi nhàn nhã “bất đắc dĩ” đó, nhà thơ tận hưởng từng khoảnh khắc yên bình của cuộc sống và âm thầm gửi gắm bao tâm tư của mình vào thi ca, ước vọng xây dựng một đất nước bình yên, dân giàu, nước thịnh, tâm hồn tràn ngập tình yêu thiên nhiên, con người, yêu quê hương, đất nước.

Với kỹ thuật dùng phép đối từ ta đặt các âm thanh “lao xao” và “dắng dỏi” lên đầu mỗi câu gợi ra không khí sôi động của bức tranh ngày hè. Âm thanh rộn ràng, tươi vui cho ta biết một đất nước đã trở nên phồn vinh hơn nữa. Vì tại sao phải nói như thế? Đây cũng là tiếng “Lao xao” tiếng người, rộn rã tiếng nói nụ cười. Là tiếng lao xao của lớp người dân việt nam chăm chỉ làm ăn và cuộc sống của họ đang không ngừng thay đổi. “Lao xao” cùng với tiếng ve nghe rộn ràng mà vui tươi.

Tiếng ve lúc chiều tà với tiếng trống rộn ràng khiến tâm trạng thi nhân cũng phấn chấn dần lên. Cùng với âm thanh của cuộc sống ấm no, tròn đầy là tiếng ve giữa khoảnh khắc chiều tà. Lúc tịch dương, cho dù là miền núi hay nơi tịnh đài người ta vẫn nghĩ về không khí ảm đạm bao trùm và sự vui đang sắp tàn. Nhưng buổi chiều “tịch dương” trong thơ Nguyễn Trãi không như vậy. Không gian lạnh lẽo ấy đã bị bao phủ bằng tiếng ve “dắng dỏi”. Tiếng ve to hơn một bản đàn làm hoàng hôn cũng trở nên rộn rã. Ta thấy Nguyễn Trãi một con người có tình yêu cuộc sống, tình yêu con người đến nồng nàn cháy bỏng, khao khát giao cảm với thiên nhiên với cuộc đời đã khơi gợi nên trong ông nhiều cảm xúc và sự rung động xao lòng nhất, một tâm hồn thiết tha cuộc sống.

Nội dung chủ yếu của ý thơ là tình yêu của Nguyễn Trãi với thiên nhiên kỳ vĩ. Nhân vật trữ tình xuất hiện tại vào khoảng không gian lộng lẫy đó giống như một nét mực tô điểm trên trang tuyên thành. Nguyễn Trãi là một người yêu mến thiên nhiên, ông chìm đắm giữa sự bao la và mở rộng tình cảm với cái đẹp đó trong mọi trường hợp. Nhưng với đặc điểm thơ lúc bấy giờ thiên về tả, thì Nguyễn Trãi đã dùng thủ pháp này hết sức tài tình. Bức hoạ thiên nhiên hiện nên với tất cả các vẻ đẹp đều qua mấy câu:

Hình ảnh khúc Nam Phong ca của vua Thuấn khi chơi đàn Ngu Cầm được đưa vào 2 câu thơ cuối. Đây là hình ảnh của những ngày thịnh vượng và giàu sang vua Thuấn đem đàn đến chơi. Hình ảnh càng làm nổi bật tâm tư của ông, luôn nghĩ về đất nước. Ông mong muốn cuộc sống của nhân dân sẽ được bình yên và thịnh vượng như vậy. 3 câu kết có tiết tấu chậm rãi hơn nữa, cũng là nỗi niềm khó bày tỏ. Thiên nhiên và cảnh sắc làm nền tảng, nỗi sợ đất nước lại càng xa xôi.

Tình yêu đất nước, con người giao hoà với cái đẹp của thiên nhiên vẽ lên một bức tranh đẹp và ý nghĩa. Là một thi sĩ, Nguyễn Trãi cũng là một người của thiên nhiên. Cuối mọi tình huống, lý tưởng về việc gần gũi với nhân dân của ông cũng được làm sáng tỏ. Vậy là, thiên nhiên đã làm nền tảng cho tình yêu đất nước của Nguyễn Trãi ngày càng thêm sâu đậm.

“Cảnh ngày hè” đã trở thành tác phẩm kinh điển có sức ảnh hưởng đối với người xem đến mãi hôm nay. Đọc sách ta như nhận thức rõ ràng hơn nữa được một tấm lòng yêu đất nước trong sáng mãi không phai của nguyễn trãi, làm nóng lên ngọn lửa tình yêu tổ quốc với mình – các học giả. Vì thế mới nói, Nguyễn Trãi thực xứng với danh vua Lê Thánh Tông đã cho: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Bài mẫu số 5

Nguyễn Trãi không chỉ là một người anh hùng của dân tộc, ông còn là một thi nhân, là tác giả của rất nhiều áng văn thiên cổ bất hủ. Với lập luận sắc bén, ngồi bút tài hoa nổi danh trong triều chính, ông còn thể hiện phong cách thoải mái trong những tựa thơ thường ngày. Sự nhàn nhã ấy được thể hiện rõ trong Bảo kính cảnh giới, tác phẩm trữ tình tâm đặc hiếm có của ông.

Nội dung chính của bài thơ là tình yêu của con người đối với thiên nhiên hùng vĩ. Nhân vật trữ tình xuất hiện tại khoảng không gian tráng lệ ấy, như một nét mực điểm xuyết trên trang tuyên thành. Nguyễn Trãi là một người yêu thích thiên nhiên, đằm chìm vào sự rộng lớn và mở lòng với vẻ đẹp ấy trong mọi hoàn cảnh. Trái ngược với đặc điểm thơ lúc đó nghiêng về vịnh, thì Nguyễn Trãi lại dùng bút pháp tả thực vô cùng chân thật. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với đầy đủ những nét đẹp chỉ qua vài câu thơ:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Hai câu thơ đầu tiên, cảnh vật đã có sự giao hoà của cả màu sắc và cảnh vật. Màu lục của tán cây hoè, màu đỏ của hoa hoa thạch lựu đan vào nhau tạo nên những dải màu sắc sặc sỡ nhất. Những từ mang đậm tính chất gợi tả như rợp, phun, rợp rợp đã gợi lên sự trần trề cả về sức sống và vẻ đẹp. Khôgn tập trung vào khắc hoạ những cảnh vật ấy, tác giả nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của muôn loài trong một ngày mát mẻ. Góc nhìn tinh tế ấy đã khiến cho những câu thơ thêm sức sống phù hợp với ngữ cảnh, cũng làm rõ được sự tài hoa của Nguyễn Trãi. Không những vậy, chỉ tỏng 4 câu thơ, tác giả đã vận dụng nhiều giác quan khác nhau để cảm nhận thiên nhiên. Đó là xúc giác trong câu thơ đầu, thị giác trong câu 2 và 3, khứu giác trong câu thơ cuối. Chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ, người đọc đã thấy được bức tranh toàn cảnh thông qua đôi mắt của thi sĩ đa tài.

Trong khung cảnh đất trời, thiên nhiên tưởng chừng tĩnh lặng ấy bất chợt xuất hiện hình bóng của con người. Đó là người anh hùng vĩ đại hết lòng vì dân, vì nước. Hiếm hoi có được thời gian nghỉ ngơi, nhưng không chìm đắm hoàn toàn vào thiên nhiên, tác giả vẫn luôn quan sát cuộc sống của muôn dân.

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Hình ảnh mà người thấy được là một bức tranh sinh hoạt tuy bình dị nhưng lại đầy ắp âm thanh vui tươi. Chợ cá của làng chài đang độ “lao xao” nhất, tiếng dắng dỏi của cầm ve vang lên khắp chốn. Đây là bức tranh người dân no đủ, cuộc sống sung túc dưới sự bảo hộ của những người đứng đầu như Nguyễn Trãi. Qua hình ảnh này, người đọc có thể thấy vị tướng quân từng chinh chiến không những biết tận hưởng vẻ đẹp đất trời, mà còn tinh tế đến mức theo dõi cả những hoạt động bình thường của con dân.

"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương"

Hình ảnh khúc Nam Phong ca của vua Thuấn khi dùng đàn Ngu Cầm được lồng vào 2 câu thơ cuối. Đây là điển tích về những ngày thịnh vượng, giàu sang vua Thuấn mang đàn ra gảy. Hình ảnh này làm rõ ước mơ của tác giả, một lòng lo nghĩ cho đất nước. Ông mong muốn cuộc sống của người dân sẽ được hoà bình và sung túc như vậy. 3 câu kết có nhịp điệu dồn nén hơn, cũng là nỗi lòng khó nói. Thiên nhiên và cảnh vật làm nền, nỗi lo nước nhà càng thêm đặc biệt.

Tình yêu đất nước, muôn dân giao hoà với vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một bức tranh đẹp và ý nghĩa. Là một thi sĩ, Nguyễn Trãi cũng là một người của nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh, lý tưởng và sự quan tâm với người dân của ông cũng được làm nổi bật. Vậy nên, thiên nhiên đã làm nền cho tình yêu đất nước của Nguyễn Trãi càng thêm sâu sắc.

Bài mẫu số 6

"Quốc Âm thi tập" - Nguyễn Trãi được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, mang đến nhiều đóng góp nổi bật cho nền thơ ca trung đại. Hầu hết, những sáng tác thuộc tập thơ này đều hướng tới chủ đề quen thuộc như: tình cảm đời thường, tình yêu thiên nhiên hay tấm lòng yêu nước, thương dân. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể bỏ qua thi phẩm "Bảo kính cảnh giới" (bài 43). Với những đặc sắc về nội dung và độc đáo về hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Nguyễn Trãi vốn là một nhà quân sự, chính trị, ngoại giao. Ông dành cả một đời canh cánh nỗi lo việc nước, vì thế, thời khắc tìm về thiên nhiên chính là giây phút thư nhàn hiếm hoi. Câu thơ mở đầu đã gợi ra hoàn cảnh của thi nhân:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường."

Câu thơ là sự phá cách táo bạo ít thấy trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Phần đề hai câu nhưng chỉ có một câu là lục ngôn. Nhịp điệu thong thả với cách ngắt nhịp 1/2/3 đã gợi lên phong thái thư thái, an nhàn của con người. Từ "rồi" được đặt ở đầu câu nhấn mạnh vào hoàn cảnh sống rỗi rãi, thảnh thơi. Như vậy, trong thời khắc nhàn rỗi ấy, thi sĩ tìm về với thú vui tao nhã của các Nho sĩ khi xưa: "hóng mát thuở ngày trường".

Nhàn nhã ngồi ngắm cảnh, Nguyễn Trãi không khỏi rung động, xao xuyến trước bức tranh ngày hè đẹp đẽ, tươi tắn:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"

Không còn là hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng "tùng, cúc, trúc, mai" như trong thơ cổ, Nguyễn Trãi miêu tả khung cảnh thiên nhiên bằng các hình ảnh hết sức bình dị, gần gũi. Trước hết, đó là cây hòe có hoa vàng, lá xanh đang ở độ tràn đầy sức sống. Nhà thơ cảm nhận thấy sự vận động âm thầm, mãnh liệt của cây và thể hiện điều đó qua động từ "đùn đùn". Những tán hòe không ngừng vươn mình, tạo nên tầng tầng lớp lớp, che rợp mặt đất. Cụm từ "tán rợp trương" đã gợi ra một không gian rộng lớn được bao phủ bởi sắc xanh thẫm, tươi mát của tán hòe. Tiếp đến, nhà thơ khéo léo khắc họa hình ảnh cây lựu trước hiên nhà. Bằng quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã bắt trúng được thần thái riêng có của hoa lựu mùa hè. Động từ "phun" diễn tả sự sống căng tràn, không thể kìm lại của hoa. Những bông hoa đỏ rực liên tục bung nở. Bức tranh càng thêm đằm thắm, tươi đẹp nhờ sự điểm tô của sen hồng. Ngoài ao, sen đã nở rộ và tỏa ngát hương thơm. Vạn vật như đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ, thuần khiết của loài hoa thanh cao.

Như vậy, thiên nhiên không chỉ được gợi nên từ những hình ảnh, màu sắc rực rỡ mà còn được khắc họa qua sức sống cuộn trào bên trong mỗi cảnh vật. Bức tranh ngày hè càng thêm rộn ràng nhờ bản hòa tấu âm thanh:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."

Phía xa, tiếng "lao xao" của phiên chợ ở làng nghề chài lưới như vọng tới tâm hồn thi nhân. Từ láy tượng thanh "lao xao" gợi tả âm thanh rộn rã và bầu không khí tấp nập, đông vui của người dân. Trong buổi chiều tà, đàn ve cũng dạo lên bản nhạc "cầm ve". Nhà thơ tiếp tục sử dụng nghệ thuật đảo trật tự ngữ pháp cùng từ láy "dắng dỏi" để làm nổi bật thanh âm inh ỏi, trong, cao của tiếng ve. Từ đây, bức tranh thiên nhiên đã có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình ảnh và âm thanh.

Đến với hai câu thơ cuối, ta lại thấy được tấm lòng cao cả của thi sĩ:

"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương."

"Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có, mong được có. Đặt từ này ở đầu câu thơ kết hợp với điển tích "Ngu cầm", Ức Trai kín đáo thể hiện ước mơ về cuộc sống thái bình, ấm no. Ông ao ước có cây đàn của vua Ngu Thuấn, từ đó gẩy lên khúc Nam Phong để "dân ta bớt ưu phiền", "dân ta ngày thêm nhiều của cải". Câu thơ cuối với 6 tiếng ngắn gọn chính là bao tâm tư, cảm xúc dồn nén của nhà thơ. Ông tha thiết hi vọng quần chúng nhân dân ở khắp nơi đều sống êm ấm, hạnh phúc. Tưởng như tâm hồn thi sĩ chỉ lắng đọng trong cảnh sắc thiên nhiên mà không phải vậy. Sau tất cả, tấm lòng cao đẹp ấy vẫn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đây, ta càng thêm kính phục, ngưỡng mộ người anh hùng "trung quân ái quốc", thấu hiểu thế sự, có tư tưởng tiến bộ "thân dân", "lấy dân làm gốc".

Bên cạnh chủ đề đặc sắc, bài thơ còn gây ấn tượng với độc giả bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, bằng ngôn ngữ mộc mạc, dân dã, hình ảnh đời thường quen thuộc cùng hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn, nhà thơ đã sáng tạo nên một tác phẩm mang đặc trưng của "lối thơ Việt Nam" (Đặng Thai Mai). Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy "lao xao", "dắng dỏi" và các động từ mạnh "đùn đùn", "phun" cũng góp phần tô đậm vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống.

"Bảo kính cảnh giới" (bài 43) đã vẽ nên một bức tranh ngày hè tươi tắn, rạng ngời, đậm đà hồn quê Việt. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi cũng khéo léo bộc lộ tấm lòng, tình yêu thiên nhiên cuộc sống và đất nước tha thiết. Theo thời gian, những giá trị, ý nghĩa nhân văn của tác phẩm sẽ luôn tỏa sáng và khắc sâu trong tâm trí bạn đọc.

Bài mẫu số 7

Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, thi sĩ kiệt xuất của việt nam, ông cũng là nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba – một danh nhân văn hoá thế giới. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử dân tộc và thế giới một con người đã có đóng góp vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và phát triển đất nước nhưng đã phải chịu hoạ tàn khốc nhất lịch sử. Cuộc đời đầy gian nan, là con người am hiểu sâu rộng và có nhiều sáng tạo trong văn học những điều này đã đưa Nguyễn Trãi thành một thi sĩ tài ba. Trong tập thơ ta thấy một thi sĩ với một tâm thế thảnh thơi:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện thiên hạ, giờ lại rảnh ngồi hóng mát phải chăng ông đã biết gạt việc triều chính và sự ồn ào qua một bên, tạm thời lánh xa về ở ẩn để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi. Người thi sĩ với tinh thần ung dung, tự tại có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận. Ở đây ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã giảm xuống sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự thong dong, thư thái sẵn có của thi nhân, nhàn nhã và dường như không vướng chuyện chi. Ông chỉ biết mà hưởng thụ các thú vui của bản thân, ông ao ước được hoà vào thiên nhiên, được sống trong khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa ngã ngũ, sau cuộc chiến còn thiếu lắm thứ, việc nhà việc nước bộn bề mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thật đúng là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi phải tình cảnh thân nhàn mà tâm không yên. Đằng dưới câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi trước cảnh éo le đó. Tiếp đến ở ba câu cuối cùng ta thấy một bức tranh quê nổi nên với sự tươi sáng và hoà hợp.

Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện triều chính, giờ đang nhàn rỗi ngồi hóng gió phải chăng ông đã biết gạt việc thiên hạ, sự thị phi qua một bên, tạm thời ẩn mình sang trong để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi. Người thi sĩ với tinh thần thảnh thơi, thư thái có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận. Ở đây đó ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã xuống còn sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự an nhiên, bình thản sẵn có của ông, ung dung, dường như không ràng buộc điều gì. Ông chỉ biết tự do hưởng thụ các nhu cầu của bản thân, ông muốn được hoà vào thiên nhiên, để đắm chìm những khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa thể yên ổn, cuộc chiến đấu đang cần nhiều cải tiến, việc nhà việc nước bộn bề vậy mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thì thật là tréo ngoe. Bởi vậy, ông rơi vào tình cảnh thân thảnh thơi mà tâm không yên. Đằng sau câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi với hoàn cảnh éo le đó. Tiếp nữa ở ba câu cuối ta thấy một bức tranh quê nổi nên với màu sắc tươi sáng, rực rỡ.

Người sử dụng điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn để miêu tả lại cảnh đời sống của nhân dân no đủ, đất nước bình yên. Nguyễn Trãi vẫn đau đáu trong lòng một niềm mong ước làm sao để dân chúng khắp nước đều hạnh phúc và ấm no. Ẩn giấu đằng sau niềm mong ước đó là lời nguyền rủa dịu dàng mà khắc nghiệt đám đại thần tham sắc ở triều đình đương thời không thèm quan tâm đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non đẹp đẽ và nhân dân cần cù, chăm chỉ thì cuộc sống đáng ra phải sớm được no ấm, sung túc đã rồi. Chính ước mơ đó đã góp phần giúp ông thấu hiểu thêm được tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông thường nghĩ về cuộc sống của nhân dân và quan tâm hơn cuộc sống của họ. Khát vọng rất cao đẹp nhưng càng đẹp hơn khi khát vọng đó là ước mơ chung với tất thảy mọi người. Đó là ước mơ chung, khát vọng rất cao đẹp và thật đáng kinh ngạc.

Bài thơ đã dựng lên bức hoạ thiên nhiên nhiều sắc màu, hùng vĩ, thơ mộng cùng quang cảnh của cuộc sống thường nhật bình an và hạnh phúc. Điều ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phát triển, nhân dân no ấm, đất nước phồn vinh của người nghệ sỹ hết mình vì nước, vì đời. Đồng thời, bài thơ cũng khắc hoạ tài năng cùng nhân cách cao đẹp và giàu lòng yêu dân, yêu đất nước của Nguyễn Trãi. Ngay kể cả khi đang bị o ép, ngờ vực, Nguyễn Trãi cũng luôn lo lắng đến nhân dân, với khát vọng muốn đóng góp trí tuệ và sức lực của bản thân vì đời, cho nước. Tác giả đã vận dụng cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự kết hợp của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Thể thơ giản dị, mộc mạc, gắn bó với đời sống song cũng thật nhiều xúc cảm và đầy tính gợi mở. Bút pháp tả cảnh ngụ tình điển hình của văn chương hiện đại: Miêu tả thiên nhiên, trời đất và cảnh cuộc sống thường nhật của con người để từ đấy bày tỏ một cách tinh tế tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả đối với con người, về cuộc đời.

Bài mẫu số 8

Nói về văn thơ Nguyễn Trãi, Phạm Văn Đồng nhận định rằng "Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường". Thật vậy, Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là thể thơ Nôm Đường luật. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, không thể không nhắc đến thi phẩm "Bảo kính cảnh giới" (bài 43). Với những đặc sắc, độc đáo về nội dung và hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại cho độc giả những ấn tượng sâu đậm.

Đoạn thơ mở đầu đã gợi mở bức tranh thiên nhiên ngày hè với đầy đủ những nét đẹp:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường.

……

Hồng liên trì đã tịn mùi hương"

Câu thơ đầu là sự phá cách táo bạo, nhịp điệu từ tốn, thong thả với cách ngắt nhịp 1/2/3 qua đó gợi phong thái, an nhàn, chẳng bận bịu của con người. Từ "rồi" được đặt ngay ở đầu câu nhằm nhấn mạnh vào cuộc sống rỗi rãi, thảnh thơi. Và trong thời khắc nhàn nhã ấy, người thi sĩ đã tìm về với thú vui tao nhã khi xưa: "hóng mát thuở ngày trường". Khung cảnh thiên nhiên ngày hè được nhà thơ thể hiện bằng các hình ảnh hết sức giản dị và gần gũi. Cây hoa vàng lá xanh tràn đầy sức sống, những tán hòe không ngừng phát triển, tạo nên những tập lá rậm rạp che rợp mặt đất. Cụm từ "tán rợp trương" gợi cho người đọc thấy một không gian rộng lớn được bao quanh bởi sắc xanh tươi tắn của những tán hòe. Bằng cái nhìn tinh tế, nhà thơ đã khéo léo khắc họa hình ảnh cây lựu trước hiên nhà. Động từ "phun" diễn nhựa sống căng tràn, mạnh mẽ không thể kìm lại. Từng bông hoa đỏ rực đua nhau bung nở. Ngoài ao, sen hồng cũng đang nở rộ và tỏa hương thơm ngát. Như vậy, chỉ vỏn vẹn với bốn câu thơ, Nguyễn Trãi đã thành công vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đằm thắm, tươi đẹp.

Trong khung cảnh tĩnh lặng yên bình, bỗng chợt xuất hiện hình bóng cao người lao động:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."

Hình ảnh sinh hoạt quen thuộc của phiên chợ nơi làng nghề chài lưới tuy bình dị nhưng lại đầy ắp niềm vui tươi. Từ láy tượng thanh "lao xao" đã thể hiện âm thanh nhộn nhịp, rộn rã, tấp nập, đông vui của người dân. Trong buổi chiều tà, đàn ve cũng ngang qua góp vui với những bản nhạc "cầm ve" vang rộn ràng. Từ đây, bức tranh thiên nhiên ngày hè đã có sự kết hợi hài hòa giữa sắc màu, hình ảnh và âm thanh.

Với hai câu thơ cuối, ta đã được chiêm ngưỡng tấm lòng cao cả của người thi sĩ:

"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương."

"Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có kết hợp cùng điển tích "Ngu cầm", Nguyễn Trãi kín đáo thể hiện ước mong về cuộc sống thái bình, ấm no, hạnh phúc. Ông thầm ao ước có cây đàn của vua Ngu Thuấn, để gẩy lên khúc Nam Phong mong cho "dân ta bớt ưu phiền", ngày càng giàu mạnh, no đủ. Câu thơ cuối chỉ với 6 tiếng ngắn gọn nhưng đã bao trọn tâm tư, cảm xúc dồn nén của Nguyễn Trãi. Ông tha thiết hy vọng và khát khao quần chúng nhân dân ở khắp nơi trên mọi mọi miền tổ quốc ta đều được hưởng đời sống êm ấm, hạnh phúc. Qua đó có thể thấy tấm lòng cao đẹp của Nguyễn Trãi vẫn luôn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đó ta càng thêm nể phục, kính trọng và ngưỡng mộ người anh hùng "trung quân ái quốc", thấu hiểu thế sự, có tư tưởng tiến bộ "thân dân" luôn "lấy dân làm gốc".

Chủ đề đặc sắc cùng nghệ thuật độc đáo, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc với độc giả. Bảo kính cảnh giới bài 43 là một bức tranh ngày hè rạng rỡ, tươi xinh, sống động. Qua tác phẩm, Nguyễn Trãi cũng khéo léo bộ lộ tâm tư, tình cảm yêu thiên nhiên, yêu đất nước thiết tha.

Bài mẫu số 9

“Bảo Kính cảnh giới” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Tác phẩm được nhà thơ sáng tác khi đã cáo quan, lui về ở ẩn. Trong đó, bức tranh thiên nhiên ngày hè được miêu tả thật sinh động.

Trước hết, Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tình yêu thiên nhiên tha thiết. Bức tranh thiên nhiên Bảo Kính cảnh giới được ông khắc họa thật sinh động. Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” - một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.

Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh Bảo Kính cảnh giới nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên được nhà thơ cảm nhận qua màu sắc, hương thơm. Phải là người có tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc thì Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến vậy.

Nhà thơ còn cảm nhận bức tranh thiên nhiên qua những âm thanh:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Thế mới thấy được một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê của Nguyễn Trãi.

Bài thơ “Bảo Kính cảnh giới” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn về nghệ thuật. Từ đó, người đọc cảm nhận được tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Trãi.

Xem thêm các bài văn mẫu 10 hay khác:

TOP 10 Cảm nhận câu cá mùa thu ngắn gọn lớp 10 (2024) SIÊU HAY

TOP 10 bài phân tích tâm trạng nhân vật Thanh (2024) HAY NHẤT

TOP 10 bài Phân tích Con khướu sổ lồng (2024) HAY NHẤT

TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay

TOP 10 mẫu phân tích Dưới bóng hoàng lan (Thạch Lam) 2024 CỰC CHI TIẾT

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!