Soạn Văn 12 CTST Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện / kí hoặc kịch có đáp án
Soạn Văn 12 CTST Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện / kí hoặc kịch có đáp án
-
23 lượt thi
-
7 câu hỏi
-
0 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Phân tích ngữ liệu tham khảo: Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – những điểm tương đồng, khác biệt nhìn từ thể loại và phong cách.
- Giới thiệu tác phẩm, tác giả, thể loại và vấn đề nghị luận.
- Luận điểm làm rõ sự tương đồng giữa hai tác phẩm.
- Tương đồng giưa hai tác phẩm.
+ Tương đồng trong lựa chọn thể loại, đề tài
+ Tương đồng trong cái nhìn phát hiện nét độc đáo của dòng sông
- Luận điểm chỉ ra sự khác biệt giữa hai tác phẩm
+ Khác biệt trong cách quan sát, miêu tả đối tượng
+ Khác biệt trong cách huy động kiến thức, sử dụng ngôn từ
+ Khác biệt trong cách thể hiện cái tôi của tác giả tùy bút
- Đánh giá chung giá trị của hai tác phẩm; gợi mở thêm vấn đề nghị luận
- Khẳng định lại giá trị chung về cách viết tùy bút của hai tác giả
Câu 2:
Cụm từ nào trong nhan đề và các đoạn mở bài, kết bài cho thấy đề tài của bài viết đã được xác định rõ ràng, cụ thể?
Nhan đề: những điểm tương đồng, khác biệt
Mở bài: Sự tương đồng và khác biệt trong lối viết giữa hai tác giả
Kết bài: Hai tác phẩm cũng cho thấy … dù…
Câu 3:
Tác giả bài viết so sánh, đánh giá hai tác phẩm trên những tiêu chí nào?
- Thể loại
- Đề tài
- Cách quan sát miêu tả đối tượng
- Cách huy động kiến thức đời sống
- Sử dụng ngôn từ
- Cái “tôi” trữ tình
Câu 4:
Nhận xét về cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng của tác giả bài viết khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm.
Khi đưa ra luận điểm, người viết luôn đưa kèm lí lẽ và bằng chứng trong văn bản
VD Khi nhận xét về sự khác biệt trong việc quan sát, miêu tả dòng sông:
- Nguyễn Tuân chú ý đến vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ của sông Đà: “hung bạo", cuộc sống kịch tính…
- Hoàng Phủ Ngọc Tường quan sát vẻ đẹp văn hoá giàu màu sắc trữ tình: “thiên tính nữ”, nữ tính man dại của cô gái Di gan…
Câu 5:
Nêu một số mẫu câu mà người viết thường dùng nhằm làm rõ sự tương đồng/ khác biệt giữa hai tác phẩm.
- Sự tương đồng trong cách lựa chọn thể loại, đề tài…
- Tuy nhiên, hai thiên tuỳ bút mang hai phong cách khác nhau.
- Nét khác biệt trong cách quan sát, miêu tả
- Nét riêng trong cách huy động kiến thức đời sống và sử dụng ngôn từ
Câu 6:
Từ bài viết trên đây, bạn rút ra những lưu ý gì khi viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn học?
- Làm rõ những điểm tương đồng, khác biệt giữa hai tác phẩm bằng cách dùng một số mẫu câu so sánh như: “nếu… thì…”, “tác phẩm A đã cho thấy… còn tác phẩm B…”, “trong khi tác phẩm A… thì tác phẩm B…”...
- Có thái độ khách quan, tránh lối diễn đạt cảm tính, chủ quan trong so sánh, đánh giá.
Câu 7:
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện, kí hoặc kịch mà theo bạn là có những điểm tương đồng/ khác biệt.
Bước 1: Chuẩn bị viết
Bạn thực hiện bước chuẩn bị viết như với các bài viết trước. Riêng với khâu xác định đề tài, do đề bài trên có độ mở rất rộng, cần làm rõ mục đích của việc so sánh nhằm xác định được đề tài cụ thể. Chẳng hạn:
- Tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – những điểm tương đồng/ khác biệt nhìn từ thể loại và phong cách.
- Vai trò, tác dụng của yếu tố kì ảo trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) và Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân).
- …
Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý
- Câu hỏi cần đặt ra và trả lời trước hết để tìm ý là: Việc so sánh khi thực hiện bài viết nhằm mục đích gì? (chỉ ra những điểm tương đồng/ khác biệt; đúc kết đặc trưng, quy luật của một vài thể loại; chỉ ra sự thay đổi, phát triển trong sáng tác của một tác giả; chỉ ra điểm kế thừa và những điểm sáng tạo trong tác phẩm tiếp nhận, cải biên,…).
- Tiếp theo, trả lời câu hỏi: Giữa hai tác phẩm có những điểm tương đồng và khác biệt đáng lưu ý nào về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật? Sự tương đồng/ khác biệt đó là do đâu và có ý nghĩa, giá trị như thế nào?
Chẳng hạn, để tìm ý cho bài viết ở phần Đọc ngữ liệu tham khảo trên, từ câu hỏi trên, người viết đã chỉ ra một số điểm tương đồng/ khác biệt trong cách chọn đề tài sử dụng thể loại, cách quan sát miêu tả, huy động kiến thức vốn sống, sử dụng ngôn từ, thể hiện cái tôi chữ tình,… Trên cơ sở đó, đánh giá đóng góp của từng tác giả, lí giải bằng đặc điểm của thể loại và nét độc đáo trong lối viết (phong cách) của mỗi tác giả.
Có nhiều cách tổ chức, sắp xếp các ý đã tìm được thành một dàn ý. Nhưng dù theo cách nào thì cũng phải đáp ứng được yêu cầu của đề bài, sơ đồ dàn ý chung của kiểu bài. Trong đó, cần bám sát yêu cầu của đề bài, mục đích so sánh, đánh giá đã được định hướng để tập trung lập dàn ý cho phần thân bài. Ví dụ: có thể sắp xếp các ý đã tìm theo hai cách:
+ Cách 1: nêu các điểm tương đồng (luận điểm 1); nêu các điểm khác biệt (luận điểm 2)
+ Cách 2: kết hợp nêu sự tương đồng, khác biệt trong từng khía cạnh của hai văn bản như đề tài, chủ đề (luận điểm 1); bút pháp nghệ thuật (luận điểm 2),…
Bước 3: Viết bài
Khi viết bài, cần lưu ý:
- Làm rõ những điểm tương đồng, khác biệt giữa hai tác phẩm bằng cách dùng một số mẫu câu so sánh như: “nếu… thì…”; “tác phẩm A đã cho thấy… còn tác phẩm B…”; “trong khi tác phẩm A… thì tác phẩm B…”;…
- Có thái độ khách quan, tránh lỗi diễn đạt cảm tính, chủ quan trong so sánh, đánh giá (ví dụ lập luận theo lối hạ thấp tác phẩm này để đề cao tác phẩm kia,…)
Bài viết tham khảo:
Nơi nghệ thuật ta kiếm tìm hiện thực ở những góc nhìn khác. Những góc nhìn mà ở nơi ấy hiện thực được toàn vẹn là chính nó với những góc khuất, những niềm đau và cũng là chính nó với những điều đẹp đẽ và cao cả. Để rồi giữa những hiện thực được nhìn nhận ấy, ta nuôi dưỡng nơi mình một khát vọng được sống và được yêu thương, một niềm tin vào chính mình và cuộc đời. Nếu dưới ngòi bút của Thạch Lam giữa những ngày đất nước chưa tìm lại được độc lập, hiện thực hiện lên tựa như cảnh phố huyện nghèo chỉ sáng chói lúc con tàu vụt qua thì dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu giữa những ngày đất nước vẫn chìm đắm sau ánh hào quang mà cuộc chiến để lại, những điều ta ngỡ là tất cả lại đổ vỡ trước ánh nhìn cận cảnh.
Có người từng nói, nhà văn là những nhà thư ký trung thành của thời đại. Hai bức tranh về hiện thực được dựng xây bởi Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu có lẽ cũng đem theo hiện thực lịch sử ấy.
Thạch Lam khắc họa lên khung cảnh phố huyện nghèo, nơi con người khó khăn kiếm lấy cho mình chút gì đó để sống qua ngày. Câu truyện bắt đầu với ánh chiều dần tắt, những cửa hàng nhỏ lên đèn, những ánh sáng leo lắt khiến cho con dường một bên sáng một bên tối, tất cả tựa như bị nuốt chửng trước khoảnh khắc ngày tàn. Cảm nhận về ánh sáng mong manh hơn trước sự rệu rã nơi con người. Có lẽ nỗi đói khổ, sự tuần hoàn yên ả nơi phố huyện đã lấy đi nơi họ những khát vọng về một ánh sáng. Những kiếp đời sống mòn trước ngưỡng cửa của hiện thực. Tiếng cười dài của bà cụ Thi vang vọng khắp phố huyện. Tiếng cười của những cơn say, tiếng cười của những nỗi ám ảnh về kiếp sống rệu rã mỏi mệt. Sự chán nản của chị Tý dẫu dọn hàng sớm hay muộn thì có khác gì, sự im lặng của nhà bác hát sẩm khi khác chưa bước tới, cái bóng của bác phở Siêu đổ dài trước ánh lửa. Bức tranh về hiện thực phố huyện ở những năm đất nước chưa lấy được lại độc lập hiện lên trước mắt người đọc, một bức tranh buồn, mỏi mệt, rệu rã.
Bức tranh đầu tiên Nguyễn Minh Châu đem tới trước mắt người đọc lại là một bức tranh rất đẹp. Bức tranh khiến Phùng ngỡ đó là mục đích của cả chuyến đi dài, là điều mà nghệ thuật hướng tới. Con thuyền nơi ngoài xa đẹp và yên bình trên mặt biển mờ sương. Cả gia đình ngồi im lặng trên chiếc thuyền nhỏ. Tất cả khắc tạc lên một vẻ đẹp toàn bích. Có lẽ đó cũng là bức tranh của đất nước sau những năm giành lại được độc lập. Chúng ta sống giữa những hào quang sau cuộc chiến, những hạnh phúc sau khi nhận được chiến thắng, tựa như phùng khoảnh khắc nhìn thấy con tàu giữa bóng sương mờ, anh cả thấy trái tim mình tự như bị bóp chặt.
Nhưng hiện thực không chỉ nằm nơi những bề nổi dễ thấy. Hiện thực nằm nơi chúng được đổ bóng. Nơi chúng được cho một khoảng không để trọn vẹn là chính chúng.
Phố huyện nghèo nơi những áng văn của Thạch Lam như được thắp lên một niềm hi vọng khi đoàn tàu đến. Đoàn tàu tựa như một Hà Nội đã xa trong chị em Liên, đoàn tàu tựa như thứ ánh sáng có thể xua đi bóng đêm nơi phố huyện nghèo. Cảm thức về một Hà Nội, về một cuộc sống đa sắc màu dường như nuôi dưỡng trong chị em Liên và những người đợi chờ con tàu ấy một khát vọng. Một khát vọng hướng tới ánh sáng, một khát vọng chấm dứt những rệu rã và mỏi mệt. Tiềm ẩn sau bức tranh phố huyện nghèo là một khát vọng, một khát vọng được hướng tới ánh sáng, thoát khỏi sự bao trùm của bóng đêm.
Con thuyền ngoài xa nơi áng văn của Nguyễn Minh Châu hiện lên rõ nét trước ánh nhìn cận cảnh. Phùng chứng kiến cảnh từng người trên chiếc thuyền ấy cố gắng đánh đập thậm chí lấy đi mạng sống của nhau. Người chồng đánh vợ mình và người đàn bà không làm gì ngoài chịu đựng trong khi đứa trẻ có gắng giết cha của mình. Một hiện thực trần trụi, một hiện thực không được giải quyết sau hai chữ độc lập một hiện thực không được nhìn nhận dưới hai chữ dân chủ bình đẳng. Một hiện thực trái ngược với bức ảnh anh đã định nghĩa nó là nghệ thuật. Nghệ thuật là gì nếu khi đối diện với hiện thực, chúng đổ nát và méo mó. Độc lập là gì nếu chúng chỉ là cái cớ để ta chìm đắm trong những gì đã qua.
Khắc họa hai bức tranh về hiện thực, hai tác phẩm đem đến cho người đọc những điểm nhìn mới và đem đến những thông điệp lịch sử. Có lẽ chỉ dưới cái nhìn của nghệ thuật, những ngày tháng đã qua mới có thể hiện lên toàn vẹn là chính nó với những hiện thực bề nổi và những tiềm lực.
Bước 4: Xem lại và chỉnh sửa
Bạn có thể sử dụng Bảng kiểm kĩ năng so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (Bài 1) để tự đánh giá bài viết của mình sau khi đã làm hoàn chỉnh.