Tác giả, tác phẩm Chái bếp
Dưới đây là tác giả tác phẩm Chái bếp
I. Tác giả Lý Hữu Lương
- Tên: Lý Hữu Lương
- Sinh năm 1988
- Quê quán: là người dân tộc Dao, sinh ra ở bản Khe Rộng - bản của người Dao quần chẹt trên núi Bàn Mai (xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái).
- Ông tốt nghiệp Trường Sĩ quan Chính trị Bắc Ninh, anh về công tác tại Quân khu 2.
- Ông từng là học viên Trường Sĩ quan Chính trị (Bắc Ninh), là lính vùng biên thuộc Quân khu 2, hiện đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Vừa công tác nhưng cũng rất đam mê sáng tác, Lý Hữu Lương trở thành hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam và hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 2014 đến nay, anh là Biên tập viên thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Phong cách sáng tác:
+ Sử dụng ngôn ngữ hết sức mộc mạc, nhiều phương ngữ, thổ ngữ, cho ta thấy tâm hồn anh thấm đẫm tình yêu cội nguồn.
+ Thơ Lý Hữu Lương giàu hình tượng, truyền thuyết nhưng đi kèm đó cũng là tính thực tại đời sống của người Dao.
+ Đọc và hiểu thơ anh không dễ, bởi phong thái rắn rỏi, giàu chất liệu vùng cao, nhất là về đời sống tộc người, thổ ngữ, phong tục, sinh hoạt văn hóa và canh tác… vậy nên đòi hỏi người đọc cần phải có sự trải nghiệm.
- Các tác phẩm tiêu biểu: “Người đàn bà cõng trăng trên đỉnh Cô San” (2013), trường ca “Bình nguyên đỏ” (2016) và tập bút ký “Mùa biển lặng” (2020)…
II. Tìm hiểu tác phẩm Chái bếp
1. Thể loại: Thơ 7 chữ
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Chái bếp in trong Yao, NXB Hội nhà văn, 2021.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Chái bếp có phương thức biểu đạt là biểu cảm
4. Tóm tắt Chái bếp
Những kỷ niệm tuổi thơ luôn là những kỷ niệm không quên, sâu sắc nhất trong lòng của tác giả. Tác giả tha thiết muốn được trở về căn chái bếp, muốn một lần nữa cùng trải qua các hoạt động gắn liền với những người dân quê bên căn chái. Đó là thứ tình cảm trân trọng, lưu luyến qua mỗi hình ảnh, ký ức về con người được thể hiện qua từng câu chữ. Căn chái bếp là một gian nhỏ trong một căn nhà có ba gian, là nơi đun nấu và sinh hoạt của những người dân tộc Dao. Nơi đó có lúc thì bùng lên ngọn lên qua nồi cám mẹ đang đun, lúc thì lại nằm yên trong đêm tối. Căn chái bếp lúc nào cũng sẽ làn khói nghi ngút tỏa ra, đêm đông thì lại sưởi ấm cho cả gia đình. Ngoài ra, căn chái bếp như là một điều kỳ diệu, là nơi chứa đựng những cánh cung, chứng kiến quá trình lớn lên của một đứa trẻ. Xung quanh chái là âm thanh những đứa trẻ đang vui đùa trên nôi, là âm thanh của những người mẹ đang ru con ngủ. Căn chái bếp lúc nào cũng sôi động như thế, không lúc nào vắng bóng âm thanh. Trải qua bao thời gian, con người cũng theo đó về với tổ tiên, nhưng căn chái bếp vẫn nằm đó chứng kiến sinh hoạt của con người. Căn chái bếp được gia đình tu sửa bằng những lá cọ và còn được dẫn nước về máng. Tất cả những kỷ niệm đó thôi thúc tác giả quay về nơi mà mình sinh ra, nơi có mẹ cha đang tần tảo quanh nơi chái bếp.
5. Bố cục bài Chái bếp
Gồm 3 phần:
+ Phần 1 (Khổ 1): Hình ảnh “chái bếp” hiện ra trong tâm tưởng của tác giả
+ Phần 2 (Khổ 2, 3, 4): Nhắc nhớ hình ảnh quê nhà với hình ảnh thân thuộc, gắn bó
+ Phần 3 (Khổ 5): Khao khát trở về nơi “chái bếp” những người thân yêu.
6. Giá trị nội dung
+ Bài thơ nói về kỉ niệm tuổi thơ cùng cha mẹ bên chái bếp thân thương.
7. Giá trị nghệ thuật
- Tác giả sắp xếp các hình ảnh, sự vật theo bố cục mở rộng, từ những thứ gần gũi giản dị đến những hình ảnh, sự vật rộng lớn hơn.
- Sử dụng điệp từ nhấn mạnh nỗi nhớ thương da diết của tác giả, kỉ niệm tuổi thơ.
- Sử dụng nhiều hình ảnh nhân hóa độc đáo: ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình”
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Chái bếp
1. Hình ảnh “chái bếp” hiện ra trong tâm tưởng của tác giả
- Hình ảnh chái bếp hiện lên với ngọn khói lập lờ qua nồi cám của mẹ “nồi cám bao năm mẹ đun dở”.
- Chái bếp hiện lên với nhiều hình ảnh và âm thanh sống động:
+ Hình ảnh: cánh nỏ cong hình lưỡi hái, chái bếp thõng mình, …
+ Âm thanh: “cha gọi tên”, “xình xịch mưa” …
= > Những hình ảnh chái bếp hiện lên như luôn nằm trong tâm trí tác giả.
+ Nhân hóa: những ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình” giống như một đứa trẻ đang được mẹ ru ngủ.
= > Khiến người đọc cảm nhận được cái ngộ nghĩnh, đáng yêu mà tác giả dành cho căn chái bếp thân thương này.
- Điệp ngữ “Cho tôi về” được lặp lại ở khổ một, ba như là một lời tha thiết, một tình cảm đặc biệt của tác giả với khung cảnh quen thuộc về căn chái bếp.
= > Tác giả muốn được quay về để lại được thấy những hình ảnh, những âm thanh đặc biệt này.
= > Hình ảnh về ngọn khói bên nồi cám của mẹ, thần bếp trong than củi, có cả hình ảnh con người dầm nắng sương hiện lên vừa chân thật vừa sinh động. Thêm những tình cảm đó, tác giả còn cảm nhận được qua những âm thanh quen thuộc xung quanh chái bếp. Làm sao có thể vắng bóng tiếng cười khóc của những đứa trẻ, được các bà các mẹ ru trên nôi, tiếng bếp lửa tí tách, những âm thanh như hòa cùng hình ảnh như bức tranh sống động khiến tác giả nhớ mãi không quên.
2. Khao khát trở về nơi “chái bếp” những người thân yêu
- Tác giả miêu tả cái chái bếp, từ trong ra ngoài trong không gian và thời gian, khiến cho mọi hình ảnh hiện lên rất mộc mạc và giản dị.
+ Điệp từ “cho” xuất hiện như nhấn mạnh cái hoài niệm, cái nhớ nhung da diết mà tác giả đã từng trải qua trong chái bếp thân thuộc này.
= > “Cho” cũng như là những kỉ niệm tuổi thơ thật đẹp mà căn chái bếp đã mang lại cho kí ức tuổi thơ của chính tác giả. Cả bài thơ là những tình cảm thắm thiết nhất mà tác giả dành cho cái chái bếp nhà mình. Tác giả yêu, nhớ từng hình ảnh về ngọn khói lập lờ, có thần bếp, có hình ảnh tiếng khóc tiếng cười và có cả bầu trời kí ức tuổi thơ của thơ tác giả.
Xem thêm tác giả tác phẩm Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Tác giả tác phẩm: Những chiếc lá thơm tho
Tác giả tác phẩm: Bạn đã biết gì về sóng thần?
Tác giả tác phẩm: Sao băng là gì và những điều bạn cần biết về sao băng?