Văn bản Người đàn ông cô độc giữa rừng (Đoàn Giỏi)- Nội dung, Tác giả tác phẩm

Người đàn ông cô độc giữa rừng (Đoàn Giỏi) - Ngữ văn 7 bộ kết nối tri thức đầy đủ, chi tiết giúp các học sinh đọc lại văn bản và tìm hiểu chung về tác giả tác phẩm. Dưới đây là nội dung văn bản đọc Người đàn ông cô độc giữa rừng (Đoàn Giỏi) lớp 7 mời các bạn cùng tham khảo.

Đọc văn bản

Người đàn ông cô độc giữa rừng

(Đoàn Giỏi)​

    Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam ra đời năm 1957. Tác phẩm kể về hành trình lưu lạc của một cậu bé giữa đất rừng phương Nam trong kháng chiến chống Pháp. Qua hành trình của cậu bé, nhà văn Đoàn Giỏi đã tái hiện không gian rộng lớn, hoang vu, khắc nghiệt nhưng vô cùng kì thú của mảnh đất phương Nam.   

    Không những vậy, qua sự quan sát tinh tế, lời văn mộc mạc, bình dị, chi tiết, cụ thể, ...những con người phương Nam mộc mạc, chất phác, dũng cảm và giàu tình người cũng được khắc họa chân thật, sống động.   

    Tác phẩm hấp dẫn, lôi cuốn không chỉ với lứa tuổi thiếu nhi mà đối với cả những người đã trưởng thành. Say sưa trong từng câu chữ, cuốn sách đưa ta tới vùng đất, vùng trời phương Nam hoang sơ, kì vĩ. Từ đó ta thêm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu đất nước và con người Việt Nam.[​IMG]    Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, giụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: "Thằng bé của anh nó lên đấy!"   

- Vào đây An! - Tía nuôi tôi gọi.   

    Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt veo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà-ràng lửa cháy riu riu, trên cà - ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.   

    Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt chéo lên nhau.   

- Ngồi xuống đây, chú em! - Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa..    Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần linh Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh – tuya -rông nữa chứ!Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên. Ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.   

- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!   

- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà! - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.   

    Con vượn bạc má lại kêu "ché... ét, ché.... ét..." phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi "ục ục" trên bếp cà -ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài nguời mới tìm ra lửa vậy.   

    Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... Thì số mày tới rồi!" Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc, bó tay chịu tội.   

    Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng, mặc dầu, cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...   

    Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe "tưng... tưng..."rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:   

- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm thẳng cẳng để đợi tôi đến lột hộ bộ quần áo ka-ki.. Hê.. Hê.. Hê! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì chết như thế ấy.. Cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu cho anh em lính đằng mình.   

    Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nói buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.   

- Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.       

    Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi xổm xuống cạnh bếp, tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì đang sôi cuồn cuộn, đen nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một làn khói mỏng xanh xanh, mùi hăng hắc. Võ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón lấy mấy hạt muối trong lọ tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen nhánh đang sôi, hạt muối nổ tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi.   

- Được rồi đấy? - Chú Võ Tòng nói xong, bỏ nốt những hạt muối còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.   

    Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung quanh nồi thuốc. Bây giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn, cầm từng chiếc tên nhúng đầu nhọn vào nồi thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn nhiều lớp vào đầu mũi tên. Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú tiếp tục cầm một chiếc tên khác, đua lên nheo mắt ngắm, nắn nắn lại cho thật ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người thợ săn áo thuốc, tẩm thuốc độc vào đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám thở mạnh.   

    Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi mũi tên tre đã tẩm thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn thấy không còn dính tay, chú Võ Tòng chọn ra hai mươi chiếc, giắt vào một bao tên làm bằng ống nứa khô.   

- Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ! Nhưng thuốc này có thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi ngay lập tức đấy. Đau mấy cũng khỏi!

Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không thể nín được buột miệng nói:   

- Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột bị lở loét gì mà nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ!Chú Võ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi cười lớn:   

- Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà.. Những người nghèo, những người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dày lắm!Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:   

- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.Tía nuôi tôi vội đỡ lời: 

  - Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín, tin có Trời có Phật. Nhưng về cái gan dạ thì.. chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.   

- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.   

    Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa, nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!   

- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:   

- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!   

- Ờ thể nào cũng có chứ! Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy!

- Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.

Trích Đất rừng phương Nam - Đoàn Giỏi

Tác giả tác phẩm: Người đàn ông cô độc giữa rừng - Ngữ văn 7

Tác giả

- Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), ông sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang. Xuất thân trong một gia đình địa chỉ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.

- Là một nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.

- Các tác phẩm của Đoàn Giỏi thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người ở Nam Bộ.

- Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn bao gồm: 

+ Tập truyện dài: Đất rừng phương Nam (1957), Đất rừng phương Nam (1957), Cá bống mú (1956), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962);

+ Truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960), Chú bé Hà Nội và chú ó lửa trên, Đồng Tháp Mười (1987), Người tù chính trị năm tuổi (1973);

+ Truyện ký: Ngọn tầm vông (1956), Trần Văn Ơn (1955), Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày, Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh,…

+ Thơ: Giữ vững niềm tin (1954), Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi;

Người đàn ông cô độc giữa rừng - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

 Tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

1. Thể loại

Tiểu thuyết

2. Xuất xứ

Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4. Tóm tắt tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

An và tía nuôi của mình cùng đến thăm chú Võ Tòng ở một căn lều giữa rừng U Minh. Tại đây cậu bé đã được nghe kể về cuộc đời đầy bất hạnh nhưng vô cùng mạnh mẽ của chú Võ Tòng. Chú bàn về việc dùng con dao và chiếc nỏ để giết giặc, sau đó chú trao lại chiếc nỏ cho cha của An. Hai cha con chia tay chú và hẹn ngày sẽ gặp lại.

5. Bố cục tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

Chia văn bản làm 3 đoạn

- Đoạn 1: từ đầu … “mới tìm ra lửa vậy.”: Hoàn cảnh gặp gỡ chú Võ Tòng và hai cha con An

- Đoạn 2: tiếp … “nói một cách chắc chắn như vậy.”: Câu chuyện về cuộc đời của chú Võ Tòng.

- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc chia tay giữa hai cha con An và chú Võ Tòng.

6. Giá trị nội dung tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

- Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ của tía con An với chú Võ Tòng – người đàn ông cô độc giữa rừng.

-  Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó cho người đọc thấy được tính cách, tinh thần kiên cường dũng cảm của những con người trong thời kì đất nước bị xâm chiếm.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

- Ngôi kể: kết hợp ngôi kể thứ nhất với ngôi kể thứ ba → Ngôi kể thứ nhất giúp thể hiện rõ suy nghĩ, tình cảm của nhân vật, qua đó ta hiểu rõ nhân vật hơn. Tuy nhiên ở đây, khi kể lại lai lịch, xuất thân của chú Võ Tòng, tác giả đã kết hợp ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ ba giúp chúng ta hình dung được lai lịch của chú Võ Tòng, làm câu chuyện logic hơn.

- Ngôn ngữ: đậm chất Nam Bộ

- Từ ngữ Nam Bộ.

- Cách miêu tả phong cảnh, tính cách, nếp sinh hoạt của người Nam Bộ.

- Kết hợp giữa tự sự với miêu tả và biểu cảm.

Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!