Đọc văn bản
Ghe xuồng Nam Bộ
(Minh Nguyên)
Ghe xuồng ở Nam Bộ có vị trí rất quan trọng trong việc giao thông đường thuỷ, ở một địa bàn mà mạng lưới sông ngòi, kênh rach chằng chịt. Việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện đi lại, vận chuyển đã trở thành nét độc đáo trong đời sống của cư dân vùng này. Có thể nói, cư dân miệt sông nước ra đến ngõ là gần như phải đi xuồng. Ngay từ thưở đi khai hoang của cha ông ta, việc đi lại bằng đường thuỷ vẫn tiện lợi và an toàn nhất.
Sách Gia Định thành thông chí mô tả:”Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông ngày đêm qua lại, sỏng xuồng liên tiếp”
1.Đặc điểm phân loại
Ghe xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động ta có thể tạm phân chia thành những loại khác nhau.
Huỳnh Tịnh Của định nghĩa về xuồng như sau:”Ghe nhỏ, ghe làm chơn, thường dòng theo ghe lớn”. Về xuồng, ta thấy có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng chèo, xuồng máy…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng 5 lá.
Xuồng tam bản giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5, 7, hoặc 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch.
Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm, câu rổi hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá.
Tam bản xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan”.
Ghe tam bản, xuồng bơi, xuồng chèo ở Cần Thơ đều là hai chèo, ba chèo, bốn chèo. Không phải một một chèo lái, một chèo mũi như ở các vùng khác.
Xuồng vở gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản (giàn đà, cong và ván be), kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campu chia và Lào.
Xuồng câu tôm: giống kiểu kiểu ghe độc mộc của người Khơme dùng giăng câu thả lưới ở ven sông cạn rạch nhỏ.
Xuồng bơi (2 mái chèo) lớn hơn xuồng tam bản.
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
Về ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày.thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà.Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm.Trước năm 1945, hàng năm các lái buôn lớn từ miền Trung chở cá, mắm cá mòi, chủ yếu là nước mắm cá cơm của vùng Phan Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở ra bằng loại ghe này.
Ghe cửa: nhỏ, mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có thể ra vào các cửa sông dễ dàng, hay chở hàng đi men theo bờ biển.
Ghe lồng (hay ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển.
Ghe hàng bo là loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe giàn : có kích thước khá lớn, hai bên hông trổ cánh cao để chở được nhiều hàng hóa
Ghe be không mui hoặc có mui nhỏ chệch về phần lái khoảng 1/4 chiều dài của ghe, có thêm hai ghe bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe.
Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150-200 tấn, loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi.
“Chài” xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều Châu, Pok: nhiều, chài: tải, ghe chài là loại ghe có sức tải lớn.
Theo Vương Hồng Sển, ghe chài gọi đầy đủ là ghe bốc chài, gốc từ tiếng Khơme “tuk pokchay”, tuk: ghe, thuyền (Khơme); pokchay: chở nhiều (Triều Châu)
Ghe cà vom: nhỏ, dài, có mui nhỏ nhưng khác ghe lườn và ghe ngo.
Ghe cá, hay còn gọi là ghe rỗi ,chuyên chở sá đồng từ miền Tây về Sài Gòn. Đặc biệt mực nước trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để giữ cá luôn sống và ghe cũng luôn vững. “Anh đi ghe cá mũi son, để em đan đệm cho mòn mười ngón tay”
Ghe bè to và sâu, giống như chiếc xà lan, có mái che, tải trọng lớn, người chèo có thể đi lại trên mui, dùng chuyên chở hàng hóa trên sông. Loại ghe to, mau bán tận Campuchia.
Ghe lưới :giống như chiếc thuyền độc mộc, thân dài, thon, mũi nhọn. Đây là loại ghe của người Khơme.
Ghe cào tôm: đầu mũi lài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm.
Ghe mỏ vạch: mũi vớt cao lên như cái vạch của thợ may.
Ghe cui: ngắn, mũi và lái tương đối bằng, không nhọn như các ghe khác. Dùng chở củi, lá lợp nhà.
Ghe ngo (tuk ngua): loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khơme, thường dùng trong bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m trở lên. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở từ 20 đến 40 tay chèo, xếp thành hàng đôi, một người cầm lái và một người cầm mũi.
Ghe điệu: mũi lái chạm trổ, kèo mui thường sơn son thếp vàng, bên trong lót ván trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Ghe hầu: sang hơn ghe điệu, dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. Một đoạn trích của Huỳnh Minh cho ta thấy hình ảnh của chiếc ghe hầu ngày xưa: “Khác với những ghe thường, ghe hầu được đóng vẻ đẹp đẽ, sang trọng hơn: sơn son thếp vàng, đầu rồng đuôi phụng, trước mũi hai chèo, mui ghe lộng lẫy, bên trong trang trí rất đẹp như một phòng khách trên nhà, nào chiếu bông nẹp điều, gối dựa vải màu sặc sỡ, đồ lệ bộ, ống điếu bình, văn án thấpv.v…Ban đầu chỉ có loại quan chức mới đi loại ghe này, về sau các nhà giàu có, dư dả cũng đua nhau sắm ghe hầu, như kiểu đổi Citroen con cóc để sắm Dodge hay Mercédes đi cho oai”
Ghe sai: còn gọi là ghe khoái, nhỏ, chèo nhẹ, dùng vào việc quan.
Ghe quyển: có mui che từ đầu đến cuối ghe, dùng để chở quân lính.
Ghe lệ hoặc ghe ô: dùng vận chuyển lính hay quân cụ. Những chiếc dành cho chỉ huy thường được chạm trổ toàn thân rất tinh xảo. Loại này thường được sơn đỏ nên cũng gọi là ghe son hay ghe vẹm.
Ghe trẹt (trẹt): không mui, đáy bằng, hai đầu ghe đều bằng để chở trâu bò.
Ghe vợi: ghe nhỏ, cột theo sau những chiếc ghe lớn để chuyển hàng hóa vào bờ.
Vỏ lãi: mũi ghe bằng, dài khoảng 9m, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Tắc ráng: thường dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn, chạy rất nhanh (chiếc Speedo do Kiên Giang Composite chế tạo có thể chạy đến 60km/giờ). Chiếc ghe đặc biệt xuất hiện từ năm cuối 1959 ở địa danh mà cả xóm, ấp, chợ và con rạch đều mang tên Tắc Ráng (nay là khóm Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cần Thơ: lớn, dài, tiện cho việc đi sông.
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại: dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hóa đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe có đặc trưng riêng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. Ngày xưa, vùng này có mối giao lưu mua bán với Mỹ Tho, Sài Gòn, Gò Công, Vũng Tàu, Bà Rịa, Phan Thiết. “Khác với ghe Cần Đước mũi ngắn, lườn rộng, ghe Vàm Láng (Gò Công) mũi nhọn mà cao, lườn dẹt, ghe Hòn (Phú Quốc) của miền tây mũi đứng, lườn rộng, thân dài, ghe của Bình Đại- thường được giới sông nước gọi là ghe số 14 mũi đen- cao vừa phải, lườn rộng, thân vững, đi biển hoặc chuyên chở trên sông đều tốt, chịu nhảy sóng, mạnh sức chở. Ghe cửa Bình Đại bánh lái đẹp và dài, có hai buồm, có trục cuốn, buồm đánh bằng lá buôn đan( tức một loại lá cọ, người ta quen gọi là đệm buồm) “
Ghe Cần Đước (Long An) dùng đánh bắt cá(đóng đáy, chài cá), chuyên chở hàng hóa trên các tuyến sông. Loại ghe lớn, chạy nhanh, chở khoẻ, có dáng đẹp, nhưng chỉ sử dụng tiện lợ tròn sông rạch vì lườn tròn, nhảy sóng kém. Mũi và lái đều nhọn và nhô cao, chậu mũi vàchậu lái cong tròn, bánh lái to và cao, cần lái nằm ngang quá mũi ghe. Ghe Cần Đước mũi sơn màu đỏ tươi, lườn màu xanh, hai mắt tròn xoe, tròn đen và to, thường gọi là “đôi mắt đảo mèo”
Ghe ai đỏ mũi trảng lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?
Ngoài ra, tuỳ vào mục đích sử dụng mà ghe xuồng ở Nam Bộ có những tên gọi khác nhau, như dùng để giăng câu thì gọi là xuồng câu; đánh bắt thì có ghe lưới, ghe đáy; đưa khách trên sông thì gọi ghe đò (đò ngang, đò dọc; đò chèo, đò đạp, đò máy) ; dùng buôn bán hàng hóa thì có ghe hàng…
Tác giả tác phẩm: Ghe xuồng Nam Bộ - Ngữ văn 7
Tác giả
Minh Nguyên
Tác phẩm Ghe xuồng Nam Bộ
1. Thể loại
Văn bản thông tin
2. Xuất xứ
theo MINH NGUYEN, chonoicantho.vn
3. Phương thức biểu đạt
Nghị luận
4. Tóm tắt tác phẩm Ghe xuồng Nam Bộ
Văn bản đề cập đến sự đa dạng của các loại ghe xuồng ở Nam Bộ, tác gải chỉ ra các đặc điểm và tác dụng cụ thể của các loại ghe, xuồng Nam Bộ
5. Bố cục tác phẩm Ghe xuồng Nam Bộ
Chia văn bản làm 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Từ đầu đến “chia thành nhiều loại”: Sự đa dạng của các loại ghe xuồng ở Nam Bộ
+ Đoạn 2: Tiếp theo đến “trong giới thương hồ”: Tác giả giới thiệu các loại xuồng và đặc điểm của từng loại
+ Đoạn 3: Tiếp theo đến “Bình Đại (Bến Tre) đóng: Tác giả giới thiệu các loại ghe và đặc điểm của từng loại
+ Đoạn 4: Còn lại: Giá trị của các loại ghe, xuồng đối với kinh tế và văn hóa của người dân Nam Bộ.
6. Giá trị nội dung tác phẩm Ghe xuồng Nam Bộ
- Văn bản đề cập đến những giá trị và kinh tế và văn hóa của ghe xuồng với người dân Nam Bộ, ghe xuồng không còn chỉ là một phương tiện di chuyển, vận tải mà nó trở thành một nét văn hóa nơi đây.
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Ghe xuồng Nam Bộ
- Nội dung được trình bày logic, cô đọng, dễ hiểu, cung cấp đầy đủ thông tin.
- Ngôn ngữ phổ thông, trong sáng