Tình cảm, cảm xúc là một trong những phẩm chất quan trọng hàng đầu của thơ. Để thể hiện tình cảm, cảm xúc, các nhà thơ đã chọn nhiều cách khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhiều khi các yếu tố tự sự và miêu tả đã được đưa vào thơ một cách đầy nghệ thuật, cho phép tác giả ẩn mình, nhường chỗ cho câu chuyện, sự việc, cảnh vật tự nói lên những điều cần thiết. Em hãy viết đoạn văn ghi lại cảm xúc, ấn tượng của mình về một bài thơ thuộc loại này để hiểu thêm về một hình thức nghệ thuật độc đáo của thơ ca nói chung.
Hướng dẫn Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả
* Phân tích bài viết tham khảo
- Văn bản: Cảm xúc khi đọc bài thơ “Mây và sóng” của Ta-go
+ Giới thiệu nhan đề bài thơ và tên tác giả: “Nhan đề bài thơ... thiêng liêng bất diệt.”
+ Thể hiện cảm xúc chung về bài thơ: “Đi theo câu chuyện... cho mẹ của mình.”
+ Nêu các chi tiết mang tính tự sự, miêu tả trong bài thơ và đánh giá ý nghĩa của chúng: “Em bé được mời gọi đến... bình yên vĩnh cửu.”
+ Chỉ ra nét độc đáo trong cách tự sự và miêu tả của nhà thơ: “Qua những lời thoại... dành cho mẹ của mình.”
+ Khái quát lại cảm xúc chung của người viết về bài thơ trong hình thức kể chuyện độc đáo của nó: “Nói chung, bài thơ... yêu thương của mẹ.”
* Thực hành viết theo các bước
1. Trước khi viết
a. Lựa chọn bài thơ
Bài thơ được em chọn phải là bài thơ có yếu tố kể chuyện (xuất hiện câu chuyện, nhân vật, dù nhân vật có thể chỉ mang một cái tên chung chung), có các chi tiết miêu tả bối cảnh không gian, con người,...
Ví dụ: Chọn bài thơ “Trường hoa” của Ta-go
“Khi mây dông ù ù và mưa hè rào rào đổ xuống.
Gió đông thổi tới lững thững trên dải đất hoang khổi kèn trong rặng tre.
Khi ấy, từng bầy hoa không ai biết từ đâu chợt nảy sinh, đến nhảy múa say vui trên thảm cỏ.
Mẹ ạ, thực bụng con nghĩ rằng hoa đi học trong lòng đất.
Lớp của chúng kín cửa, và bông nào muốn ra sân chơi sớm thì thầy giáo bắt đứng một xó.
Mùa mưa tới là kì nghỉ hè của chúng.
Cành chen nhau trong rừng, lá xào xạc trong gió dại, sấm vỗ tay reo mừng, và những hoa con ùa ra với áo hồng, vàng hay trắng toát.
Mẹ có biết không, nhà chúng ở trên trời cùng với muôn sao.
Mẹ có thấy không, chúng hăm hở về trời xiết bao? Mẹ có biết tại sao chúng vội vã thế không?
Hẳn là con cũng đoán ngay được chúng giơ tay đón ai; chúng cũng có mẹ như con có vậy.”
b. Tìm ý
Để tìm ý, em hãy nêu các câu hỏi và tự trả lời:
- Bài thơ gợi lên câu chuyện gì?
+ Em bé đang nói chuyện với mẹ và kể cho mẹ một câu chuyện tưởng tượng thú vị về các loài hoa.
- Đâu là các chi tiết tự sự và miêu tả nổi bật?
+ Khi ấy từng bầy hoa không ai biết từ đâu chợt nawyr sinh, đến nhảy múa say vui trên thảm cỏ.
+ Mẹ ạ, thực bụng con nghĩ rằng hoa đi học trong lòng đất.
+ Lớp của chúng kín cửa, và bông nào muốn ra sân chơi sớm thì thầy giáo bắt đứng một xó.
+ Mùa mưa tới là kì nghỉ hè của chúng.
+ Cành chen nhau trong rừng, lá xào xạc trong gió dại, sấm vỗ tay reo mừng và những hoa con ùa ra với áo hồng, vàng hay trắng toát.
+ Mẹ có biết không, nhà chúng ở trên trời cùng với muôn sao.
+ Mẹ có thấy không, chúng hăm hở về trời xiết bao? Mẹ có biết tại sao chúng vội vã thế không?
+ Hẳn là con cũng đoán ngay được chúng giơ tay đón ai; chúng cũng có mẹ như con có vậy.
- Các chi tiết ấy sống động, thú vị như thế nào?
+ Các chi tiết đó đều sử dụng nghệ thuật nhân hóa độc đáo.
- Chúng đã góp phần thể hiện ấn tượng điều nhà thơ muốn bày tỏ ra sao?...
+ Nhấn mạnh vẻ đáng yêu và dễ thương của cả hoa và các em bé.
c. Lập dàn ý
Từ các ý đã được hình thành qua cách nêu và trả lời câu hỏi, em hãy sắp xếp thành một dàn ý:
- Mở đoạn: Giới thiệu tác giả Ta-go và bài thơ “Trường hoa”; nêu khái quát ấn tượng, cảm xúc về bài thơ.
- Thân đoạn:
+ Nêu ấn tượng, cảm xúc của em về câu chuyện được kể hoặc các chi tiết miêu tả có trong bài thơ:
Trong bài thơ, em bé đang nói chuyện với mẹ và kể cho mẹ một câu chuyện tưởng tượng thú vị về các loài hoa.
+ Làm rõ nghệ thuật kể chuyện và miêu tả của tác giả:
Nhà thơ đã dùng biện pháp tu từ nhân hóa khiến người đọc liên tưởng những bông hoa với các em bé, cánh đồng hoa với trường học của các em bé.
→ Nghệ thuật nhân hóa nhấn mạnh vẻ đáng yêu và dễ thương của cả hoa và các em bé.
+ Đánh giá tác dụng của việc kể lại câu chuyện kết hợp với các chi tiết miêu tả trong đoạn thơ:
Với bài thơ “Trường hoa” có thể thấy nhà thơ Ta-go rất yêu trẻ thơ, ông nâng niu, trân trọng những gì đẹp đẽ trong các em với một tấm lòng bao dung, độ lượng và cái nhìn thiết tha trìu mến.
- Kết đoạn: Nêu khái quát điều em tâm đắc về bài thơ (trong đó có nói tới đặc điểm nghệ thuật riêng của bài thơ đã được phân tích ở trên).
Trẻ em hiện lên với tất cả sự ngây thơ, trong sáng, giàu tình cảm, thông minh và sáng tạo, như là những thiên sứ mang thông điệp yêu thương đến với mặt đất này.
2. Viết bài
Khi viết bài, các em cần lưu ý:
- Bám sát dàn ý đề viết đoạn.
- Thể hiện được cảm xúc chân thành của em về nội dung và hình thức trữ tình độc đáo của bài thơ.
- Trình bày đúng hình thức của đoạn văn: viết lùi đầu dòng từ đầu tiên của đoạn văn và chữ cái đầu của từ đó phải viết hoa; kết thúc đoạn văn bằng một dấu chấm câu. Các câu trong đoạn cần tập trung vào chủ đề chung, giữa các câu có sự liên kết. Đoạn văn khoảng 7 - 10 câu.
Đoạn văn mẫu tham khảo:
Ngay khi đọc nhan đề bài thơ “Trường hoa”, Ta-go đã mở ra cho chúng ta những liên tưởng thú vị. Đó là một trường học có nhiều hoa rất đẹp; ngôi trường của các loài hoa; ngôi trường đẹp như hoa hay cũng có thể hiểu là ngôi trường của các em bé đẹp như hoa vậy. Trong bài thơ, em bé đang nói chuyện với mẹ và kể cho mẹ một câu chuyện tưởng tượng thú vị về các loài hoa. Đó là một ngôi trường hoa trong lòng đất. Ở đó, hoa cũng đi học. Mùa mưa là mùa nghỉ hè, các loài hoa đột nhiên ùa ra sân chơi, ấy là mặt đất. Các loài hoa mặc áo rực rỡ đủ sắc màu, nhảy múa, chơi đùa vui vẻ như các em học sinh. Buổi chiều hoa tàn, các cánh hoa theo gió bay lên không trung nên em bé tưởng tượng rằng, hoa cũng như em, tan học, hoa vội về nhà của hoa ở trên trời. Chúng đi rất vội vã vì biết rằng có vòng tay mẹ đang mở rộng chờ đón ở nhà. Em bé trong bài thơ mượn câu chuyện của hoa để nói lên tình yêu đối với mẹ của các em bé nói chung và của em nói riêng. Trong những dòng thơ kể về hoa, nhà thơ đã dùng biện pháp tu từ nhân hóa khiến người đọc liên tưởng những bông hoa với các em bé, cánh đồng hoa với trường học của các em bé. Giữa các em bé và những bông hoa có nhiều điểm tương đồng nên không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi tuổi thơ là “tuổi hoa”, “hoa niên”,… Trẻ em tươi đẹp, rực rỡ, sinh động như hoa. Hoa rung rinh trong gió như các em vui say ca múa. Hoa xuất hiện trên mặt đất theo mùa như các em được nghỉ ngơi, vui chơi theo kì (nghỉ hè). Những cánh hoa tàn theo gió bay lên không trung như các em bé hăm hở về nhà với mẹ sau một ngày đi học ở trường. Nghệ thuật nhân hóa nhấn mạnh vẻ đáng yêu và dễ thương của cả hoa và các em bé. Với bài thơ “Trường hoa” có thể thấy nhà thơ Ta-go rất yêu trẻ thơ, ông nâng niu, trân trọng những gì đẹp đẽ trong các em với một tấm lòng bao dung, độ lượng và cái nhìn thiết tha trìu mến. Qua cái nhìn ấy, trẻ em hiện lên với tất cả sự ngây thơ, trong sáng, giàu tình cảm, thông minh và sáng tạo, như là những thiên sứ mang thông điệp yêu thương đến với mặt đất này.
3. Chỉnh sửa bài viết
Rà soát, chỉnh sửa bài viết theo những gợi ý trong bảng sau:
Yêu cầu |
Gợi ý chỉnh sửa |
Giới thiệu được nhan đề bài thơ, tên tác giả (nếu có) và cảm nhận chung của người viết. |
Nếu còn thiếu so với yêu cầu, hãy bổ sung. |
Nêu được cảm xúc và ý kiến đánh giá về nét đặc sắc của bài thơ có sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả. |
Sử dụng lại các câu hỏi ở mục tìm ý để biết được nội dung đoạn văn của em còn thiếu ý gì. Hãy bổ sung nếu có câu hỏi bị bỏ quên, chưa được trả lời. |
Bảo đảm yêu cầu về chính tả và diễn đạt. |
Rà soát lỗi chính tả và diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng từ ngữ liên kết câu,...). Chỉnh sửa nếu phát hiện lỗi. |
Dàn ý Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả
- Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và bài thơ
- Nêu khái quát ấn tượng, cảm xúc về bài thơ
- Thân bài:
- Nêu ấn tượng, cảm xúc của em về câu chuyện được kể hoặc các chi tiết miêu tả có trong bài thơ
- Làm rõ nghệ thuật kể chuyện và miêu tả của tác giả
- Đánh giá tác dụng của việc kể lại câu chuyện kết hợp với các chi tiết miêu tả trong bài thơ
- Kết bài:
Nêu khái quát điều em tâm đắc về bài thơ (trong đó có nói tới đặc điểm nghệ thuật riêng của bài thơ đã được phân tích ở thân đoạn)
Sơ đồ tư duy Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả chi tiết nhất
Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Của Em Sau Khi Đọc Bài Thơ "Mây Và Sóng" Của Ta-Go.
I. Dàn ý tham khảo:
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ.
2. Thân đoạn:
- Nêu cảm xúc về bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả.
- Chỉ ra yếu tố tự sự và miêu tả có trong bài thơ:
+ Yếu tố tự sự: Em bé kể lại câu chuyện tưởng tượng về cuộc hội thoại giữa mình với mây và sóng.
+ Yếu tố miêu tả: từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính chất của sự vật: "bình minh vàng", "vầng trăng bạc", "bầu trời xanh thẳm".
- Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự và miêu tả:
+ Mô tả một cách sinh động, gần gũi những sự vật, hiện tượng, gợi cho người đọc những liên tưởng độc đáo.
+ Mở ra thế giới của trẻ thơ với sự thơ ngây, đáng yêu.
+ Em bé trong bài thơ mượn câu chuyện tưởng tượng về cuộc trò chuyện giữa mây và sóng để thể hiện tình yêu thương dành cho mẹ của mình.
3. Kết đoạn:
- Khái quát được cảm xúc về bài thơ.
Bài văn mẫu số 1
Đọc bài thơ "Mây và sóng" của Ta-go, em không khỏi ấn tượng với tình yêu hồn nhiên của trẻ thơ. Hình tượng trung tâm là nhân vật em bé đã kể lại câu chuyện tưởng tượng của mình qua cuộc hội thoại với mây và sóng. Đứng trước lời mời hấp dẫn của mây và sóng về những trò vui, em vô cùng băn khoăn, ngẫm nghĩ. Đến cuối cùng, em đều từ chối và nói rằng mình cần quay trở về với mẹ. Để mở ra thế giới của trẻ thơ, bên cạnh việc xây dựng một câu chuyện hấp dẫn, ông còn sử dụng rất nhiều những từ ngữ miêu tả: "bình minh vàng", "vầng trăng bạc", "bầu trời xanh thẳm",... Những từ ngữ này không chỉ thể hiện sinh động hiện tượng tự nhiên mà còn làm nổi bật tình cảm em bé dành cho mẹ. Có thể thấy, Ta-go là một nhà thơ của trẻ nhỏ và dùng ngôn ngữ mộc mạc để bộc lộ, bày tỏ những tình cảm chân thành, thuần khiết đến người mẹ kính yêu.
Bài văn mẫu số 2
“Mây và sóng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ta-go. Bài thơ đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “ Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ giàu tính tự sự và miêu tả nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật trong bài thơ. Ta-go đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Bài văn mẫu số 3
Bài thơ “Mây và sóng” của Ta-go đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Với hình thức là một bài thơ, nhưng giàu tính tự sự giúp cho bài thơ giống như một câu chuyện kể. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “ Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ miêu tả hình ảnh sóng, mây thật độc đáo giúp bài thơ trở nên sinh động hơn.
Bài văn mẫu số 4
Bài thơ “Mây và sóng” của Ta-go đã giúp người đọc hiểu thêm về tình mẫu tử thiêng liêng. Bên cạnh việc bộc lộ cảm xúc, những yếu tố tự sự và miêu tả cũng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Ta-go đã gửi gắm vào bài thơ một câu chuyện mà người kể chuyện là em bé, người nghe là mẹ. Con kể cho mẹ về cuộc trò chuyện với người trong mây và trong sóng. Em bé trong bài đã được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “ Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Tình yêu thương của đứa con dành cho mẹ đã được thể hiện qua những câu hỏi tưởng chừng ngây thơ mà rất sâu sắc. Em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Hình ảnh thơ được miêu tả tuy ngắn gọn nhưng cũng giúp chúng ta hình dung về thiên nhiên kỳ diệu, đẹp đẽ trong mắt của em bé. Nhà thơ cũng đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Có thể khẳng định rằng bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Bài văn mẫu số 5
Đến với “Mây và sóng”, Ta-go đã giúp người đọc hiểu thêm về tình mẫu tử thiêng liêng. Bài thơ được sáng tác với thể loại là thơ, nhưng lại sử dụng cả yếu tố tự sự và miêu tả. Tác giả đã gửi gắm vào bài thơ một câu chuyện mà người kể chuyện là em bé, người nghe là mẹ. Đứa trẻ trong bài đã kể cho mẹ về cuộc trò chuyện với người trong mây và trong sóng. Em đã được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Đến khi nghe câu trả lời, em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ ở nhà và từ chối đầy kiên quyết: “ Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Tình yêu thương của đứa trẻ dành cho người mẹ đã được thể hiện qua những câu hỏi tưởng chừng ngây thơ mà rất sâu sắc. Để rồi sau đó, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Hình ảnh thơ được miêu tả tuy ngắn gọn nhưng cũng giúp chúng ta hình dung về thiên nhiên kỳ diệu, đẹp đẽ trong mắt của em bé. Nhà thơ cũng đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Của Em Sau Khi Đọc Bài Thơ "Chuyện Cổ Tích Về Loài Người" Của Xuân Quỳnh.
I. Dàn ý tham khảo:
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ.
2. Thân đoạn:
- Nêu cảm xúc về bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả.
- Chỉ ra yếu tố tự sự và miêu tả có trong bài thơ:
+ Yếu tố tự sự: Tác giả đã kể lại câu chuyện về sự hình thành và phát triển của con người theo dòng thời gian (từ lúc trẻ em được sinh ra chưa có cành cây ngọn cỏ cho đến khi đạt đến sự tiến bộ, văn minh với sự xuất hiện của bàn ghế, trường lớp,...).
+ Yếu tố miêu tả: từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính chất của sự vật, hiện tượng: "trái đất trụi trần", "không dáng cây ngọn cỏ", "chỉ toàn là bóng đêm", "không khí chỉ màu đen", "Mắt trẻ con sáng lắm",...
- Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự và miêu tả:
+ Mô tả một cách sinh động, gần gũi những sự vật, hiện tượng.
+ Gợi cho người đọc những liên tưởng độc đáo về sự sinh sôi, nảy nở để phục vụ cho sự phát triển của trẻ em.
+ Thông qua câu chuyện cổ tích về loài người, nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện thái độ thương yêu đối với trẻ em.
3. Kết đoạn:
- Khái quát được cảm xúc về bài thơ.
Bài văn mẫu số 1
Trong bài thơ "Chuyện cổ tích về loài người", nhà thơ Xuân Quỳnh đã cho em cảm nhận về một thế giới vô cùng mộng mơ, gần gũi. Tác giả kể lại câu chuyện về sự hình thành và phát triển của trẻ em theo dòng thời gian: từ lúc trái đất trần trụi, chưa có cây cỏ, đến sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật rồi cuối cùng là cuộc sống văn minh, tiến bộ với sự xuất hiện của bàn ghế, trường lớp. Ban đầu, các sự vật như: mặt trời, chim, sông và biển đã thúc đẩy khả năng cảm nhận về thế giới của trẻ. Tiếp đó, sự xuất hiện của các thành viên là mẹ, bà, bố góp phần nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều tập trung cho hành trình khôn lớn của trẻ em. Để gợi cho người đọc những liên tưởng độc đáo và mô tả một cách sinh động thế giới tự nhiên, con người, nhà thơ đã sử dụng rất nhiều từ ngữ giàu sức gợi: "trụi trần", "bóng đêm", "màu đen", "sáng", "nhô cao", "màu xanh", "cao",... Thông qua "Chuyện cổ tích về loài người", em cảm nhận được sự trân trọng, thương yêu của nhà thơ Xuân Quỳnh đối với trẻ em.
Bài văn mẫu số 2
Nhan đề “Chuyện cổ tích về loài người” của Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc nhớ về những câu chuyện cổ tích mà bà thường kể về một thời đại xa xưa ngày trước. Khi đọc tác phẩm, người đọc cảm thấy cách lý giải nguồn gốc loài người của tác giả thật thú vị. Dưới hình thức một bài thơ, những tác phẩm lại giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian. Trước hết tác giả khẳng định trời sinh ra trước tiên là trẻ em. Sau đó, để trẻ em có được một môi trường sống thật tốt, mới có sự ra đời của những sự vật khác trên trái đất. Ở đây, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh miêu tả sinh động để giúp người đọc hiểu hơn về sự ra đời của thiên nhiên. Kế tiếp là sự ra đời của mẹ giúp trẻ em cần có tình yêu thương, sự chăm sóc. Bà được sinh ra để giáo dục trẻ em về những giá trị truyền thống, đạo đức tốt đẹp. Còn bố được sinh ra để dạy trẻ em thêm hiểu biết, trưởng thành. Cuối cùng trường lớp là nơi trẻ em đến để học tập, vui chơi còn thấy giáo là người dạy dỗ trẻ em ở đó. Có thể khẳng định, với bài thơ này, Xuân Quỳnh muốn gửi gắm tình yêu thương của Xuân Quỳnh dành cho trẻ em.
Bài văn mẫu số 3
Đến với “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã lí giải cho người đọc về nguồn gốc của loài người một cách độc đáo mà thú vị. Viết theo hình thức một bài thơ, nhưng tác phẩm lại giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện được kể lại - về nguồn gốc loài người. Đó là khi trái đất vẫn còn trần trụi, không có một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn là bóng đêm. Trời đã sinh ra trẻ em đầu tiên - đây chính là cách lý giải nguồn gốc có phần trái ngược với thực tế. Sau đó, tác giả lại lí giải cho người đọc về sự ra đời của mọi vật. Tất cả bắt nguồn từ trẻ em. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Để giúp trẻ con nhận biết màu sắc thì cây mới có màu xanh, hoa mới có màu đỏ. Không chỉ màu sắc mà còn có âm thanh được trẻ con cảm nhận khi loài chim được sinh ra với tiếng hót. Dòng sông, biển cả, đám mây, con đường ra đời cũng là để phục vụ cuộc sống của trẻ con. Những câu tự sự nhưng lại đan xen cả miêu tả. Qua việc lí giải này, người đọc thấy được tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho trẻ em. Không chỉ là thiên nhiên, mà trẻ em cần có được tình yêu thương của những người thân trong gia đình: người bà, người mẹ, người bố; cùng với sự ra đời của trường lớp, thầy cô… Với bài thơ, Xuân Quỳnh đã cho người đọc thấy được tình yêu thương dành cũng như thông điệp rằng hãy chăm sóc và nâng niu trẻ em.
Bài văn mẫu số 4
Chuyện cổ tích về loài người - một bài thơ gửi gắm nhiều bài học sâu sắc. Ngay từ nhan đề, người đọc đã có cảm nhận bài thơ mang dáng vẻ những truyện cổ tích mà bà, mẹ vẫn thường hay kể. Dưới hình thức một bài thơ, nhưng tác phẩm lại giàu tính tự sự được kể lại để lí giải về nguồn gốc của loài người. Tác giả lần lượt kể lại sự ra đời của các sự vật. Đầu tiên trời sinh ra trước tiên là trẻ em. Sau đó, để trẻ em có được một môi trường sống thật tốt, mới có sự ra đời của những sự vật khác trên trái đất như thiên nhiên (cây cối, ánh sáng, con đường…) và con người (mẹ, bà, bố, thầy cô…). Mỗi một sự vật, Xuân Quỳnh lại dùng những cách miêu tả khéo léo để người đọc dễ dàng hình dung hơn. Từ những hình ảnh đó, người đọc thấy được tình yêu thương dành cho trẻ em của Xuân Quỳnh, cũng như gửi gắm thông điệp hãy luôn yêu thương, chăm sóc trẻ em.
Bài văn mẫu số 5
“Chuyện cổ tích về loài người” của Xuân Quỳnh là bài thơ đem đến cho tôi nhiều cảm nhận sâu sắc. Dưới hình thức là một bài thơ, nhưng tác giả không chỉ bộc lộ cảm xúc mà còn sử dụng kết hợp cả tự sự và miêu tả nhằm giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, sinh động hơn. Xuân Quỳnh đã kể về quá trình hình thành của mọi vật trên trái đất. Khi trái đất vẫn còn trần trụi, không có một dáng cây hay ngọn cỏ. Ánh sáng của mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ toàn là bóng đêm Không khí chỉ màu đen, vẫn chưa có màu sắc khác. Trời đã sinh ra trẻ con đầu tiên. Một cách lí giải độc đáo, khác hẳn với quy luật tự nhiên. Nhưng qua đó, chúng ta thấy được tình yêu mà tác giả dành cho trẻ con. Trẻ con được sinh ra trước nhất. Sau đó, mọi vật ra đời đều nhằm đáp ứng nhu cầu của trẻ con. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời nhô cao để chiếu sáng vạn vật, giúp trẻ con nhìn rõ. Cây, cỏ ra đời giúp trẻ con có thể phân biệt được màu sắc. Chim chóc ra đời giúp trẻ con cảm nhận được âm thanh. Dòng sông, đám mây, biển cả giúp trẻ con biết cảm nhận về giá trị cuộc sống. Còn con đường xuất hiện là giúp trẻ con tập đi. Sự xuất hiện của mẹ, bà, bố cũng đều vì trẻ con khao khát yêu thương, tìm hiểu và học hỏi. Bài thơ giúp tôi thêm yêu quý và trân trọng những đứa trẻ hơn.
Bài văn mẫu số 6
Bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” của Xuân Quỳnh đã đem đến cho em nhiều ấn tượng. Tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự miêu tả. Nhà thơ đã kể lại quá trình hình thành của trái đất, cũng như mọi vật. Thật là thú vị khi đọc những câu thơ đầu tiên. Cách lí giải của Xuân Quỳnh thật độc đáo. Trẻ em được trời sinh ra trước nhất. Sau đó, để đáp ứng nhu cầu của trẻ em mà các sự vật khác lần lượt ra đời. Đôi mắt của trẻ em rất sáng nhưng chưa thể nhìn thấy. Vậy nên mặt trời xuất hiện cho trẻ con nhìn rõ. Màu xanh của cây cỏ, màu đỏ bông hoa giúp trẻ con nhận biết màu sắc. Cây cối, lá cỏ đã giúp trẻ con cảm nhận về kích thước. Tiếng chim hót, tiếng gió thổi cho trẻ con cảm nhận âm thanh. Dòng sông ra đời giúp trẻ con có nước để tắm. Biển xuất hiện để trẻ con suy nghĩ. Con đường hình thành để trẻ con tập đi. Những sự vật trên đã được miêu tả một cách tinh tế, sinh động giúp cho người đọc dễ dàng hình dung và cảm nhận. Và rồi tiếp đến là sự ra đời của những người thân trong gia đình. Đầu tiên là tình mẫu tử thiêng liêng, đáng quý nhất. Mẹ là người ra đời đầu tiên. Mẹ đã đem đến lời ru cho trẻ con. Trong lời ru đó đã gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng... của thiên nhiên để con trẻ cảm nhận. Khi lớn hơn, người bà sẽ ra đời để kể cho trẻ con nghe thật nhiều những câu chuyện hay. Tiếp đến, bố đã xuất hiện và “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ em “ biết ngoan”, “biết nghĩ”. Và rồi trẻ con dần lớn lên, cần biết thêm nhiều kiến thức. Vậy là trường học được mở ra để dạy trẻ em học, thầy cô giáo chính là người cung cấp kiến thức, dạy dỗ trẻ em nên người. Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng, cục phấn, chữ viết, thầy giáo à những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kỳ diệu cuộc sống loài người trên trái đất ngày một văn minh. Có thể khẳng định rằng, “Chuyện cổ tích về loài người” là một tác phẩm hay, giàu cảm xúc.
Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Của Em Sau Khi Đọc Bài Thơ "Trường Hoa" Của Ta-Go.
I. Dàn ý tham khảo:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ.
2. Thân bài:
- Nêu cảm xúc về bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả.
- Chỉ ra yếu tố tự sự và miêu tả có trong bài thơ:
+ Yếu tố tự sự: Em bé kể lại câu chuyện tưởng tượng về một ngôi trường trong lòng đất của các loài hoa.
+ Yếu tố miêu tả: từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính chất của sự vật: mây dông, mưa hè, hoa, dải đất, lớp học...
- Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự và miêu tả:
+ Mô tả một cách sinh động, gần gũi những sự vật, hiện tượng gợi cho người đọc những liên tưởng độc đáo.
+ Em bé trong bài thơ mượn câu chuyện của hoa để bày tỏ tình yêu của mình đối với mẹ từ đó thể hiện tình mẫu tử gắn kết, thiêng liêng.
3. Kết bài:
- Khái quát được cảm xúc về bài thơ.
Nhà thơ Ta-go là nhà thơ của tình yêu thương muôn loài. Em vô cùng ấn tượng với bài thơ "Trường hoa" của ông. Ta-go đã sáng tạo hình tượng em bé và mượn câu chuyện của hoa để bày tỏ tình yêu của mình đối với mẹ. Đó là tình mẫu tử sâu nặng, gắn kết và vô cùng thiêng liêng. Để làm nổi bật chủ đề, nhà thơ Ta-go sử dụng biện pháp nhân hóa: "Dải đất hoang thổi kèn trong rặng tre", từng bầy hoa đến nhảy múa say vui trên thảm cỏ, "hoa đi học trong lòng đất",... cùng các từ ngữ miêu tả đặc điểm của sự vật như "mây dông ù ù", "mưa hè rào rào đổ xuống", "gió đông thổi tới lững thững",... Từ đó, tác giả muốn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên đầy sinh động và khắc họa sự đáng yêu, hồn nhiên của cả hoa và các em bé. Ngôn ngữ thơ tinh tế cùng câu chuyện hấp dẫn mà Ta-go dày công xây dựng đã khơi gợi trong em những liên tưởng sống động về thế giới trẻ thơ. Qua cái nhìn thân thương của tác giả, trẻ em hiện lên với sự dễ thương, trong sáng như những thiên sứ đem tình yêu lan tỏa đến mọi người.
Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Của Em Sau Khi Đọc Bài Thơ "Cái Cầu" Của Phạm Tiến Duật.
I. Dàn ý tham khảo
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ.
2. Thân đoạn:
- Nêu cảm xúc về bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả.
- Chỉ ra yếu tố tự sự và miêu tả có trong bài thơ:
+ Yếu tố tự sự: Bạn nhỏ kể cho mẹ về những chiếc cầu được gợi lên từ bức ảnh cây cầu mới hoàn thiện của người cha.
+ Yếu tố miêu tả: từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính chất của sự vật: "câu tơ nhỏ", "cầu ngọn gió", "trời cao", "vệt xanh vệt đỏ", "trời sắp mưa khói trắng hơn mây",...
- Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự và miêu tả:
+ Mô tả một cách sinh động, gần gũi những sự vật, hiện tượng.
+ Thông qua bức ảnh cây cầu của người cha gửi cho con, tác giả muốn bày tỏ tình cảm gắn kết giữa các thành viên trong gia đình từ đó đặt trong mối quan hệ với tình yêu quê hương, đất nước.
3. Kết đoạn:
- Khái quát được cảm xúc về bài thơ.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đem lại cho em những cảm nhận vô cùng sâu sắc qua tác phẩm "Cái cầu". Bài thơ như một câu chuyện kể về việc bạn nhỏ chia sẻ cho mẹ những chiếc cầu được gợi lên từ bức ảnh cây cầu của người cha. Tấm hình đã khơi gợi những liên tưởng vô cùng phong phú như "nhện qua chum nước bắc cầu tơ nhỏ", "con sáo sang sông bắc cầu ngọn gió", "con kiến qua ngòi bắc cầu lá tre", "yêu cái cầu vồng khi trời nổi gió, "cái cầu tre bắc qua sông máng", "cái cầu treo lối sang bà ngoại", "cái cầu ao mẹ thường đãi đỗ". Đây đều là những hình ảnh giản dị, thân thuộc, gần gũi với đời sống thường ngày của nhân vật trữ tình. Những từ ngữ gợi hình gợi cảm: "nhỏ", "cao", "vệt xanh vệt đỏ, "trắng hơn mây", "nặng","vàng",... góp phần mô tả một cách sinh động sự vật, hiện tượng. Thông qua bức ảnh cây cầu của người cha gửi cho con, tác giả muốn bày tỏ tình cảm gắn kết giữa các thành viên trong gia đình từ đó đặt chúng trong mối quan hệ với tình yêu quê hương, đất nước.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ có yếu tố tự sự và miêu tả hay nhất
Đoạn văn cảm nhận Gấu con chân vòng kiềng
Bài văn mẫu số 1
“Gấu con chân vòng kiềng” của U-xa-chốp đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Với bài thơ này, tác giả đã kể câu chuyện về một chú gấu con với đôi chân vòng kiềng. Một ngày đẹp trời, gấu con vào rừng đi dạo. Bỗng nhiên, một quả thông rụng vào đầu kiến gấu con luống cuống và bị ngã. Nhìn thấy cảnh đó, con sáo đang đậu trên cành cây đã cất tiếng trêu chọc. Cả đàn thỏ cũng chê bai đôi chân vòng kiềng thật xấu xí. Gấu con cảm thấy vô cùng xấu hổ và buồn bã, chạy về nhà mách mẹ. Gấu mẹ lắng nghe gấu con kể, cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Sau đó, gấu mẹ đã chứng minh rằng đôi chân vòng kiềng không hề xấu xí. Đối với họ nhà gấu đó là một vẻ đẹp, cả ông nội gấu - người giỏi nhất vùng cũng sở hữu đôi chân đó. Gấu con có thể cảm thấy tự hào, vui vẻ vì hơn để rồi gấu con lại vào rừng đi dạo, vui vẻ hét thật to: “Chân vòng kiềng là ta/Ta vào rừng đi dạo!”. Bài thơ có đan xen cả yếu tố miêu tả, với hình ảnh chú gấu có đôi chân vòng kiềng được nhắc lại nhiều lần trong bài, hay đôi chân của gấu bố “chân bố cũng cong”. Qua bài thơ, tác giả muốn nhắc đến vấn đề ngoại hình trong cuộc sống - một yếu quan quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định tất cả. Mỗi người không nên lấy ngoại hình của người khác để trêu chọc, chê bai. Con người sinh ra vốn không hoàn hảo, đều sẽ có cái đẹp và cái xấu - điều đó cần nhận được sự tôn trọng của mọi người xung quanh.
Bài văn mẫu số 2
Khi đọc bài thơ “Gấu con chân vòng kiềng”, tôi đã nhận ra một bài học giá trị. Một chú gấu con đang vào rừng đi dạo. Bỗng có một quả thông rụng vào đầu khiến chú luống cuống và bị ngã. Những con vật trong rừng đã trêu chọc gấu con vì đôi chân vòng kiềng. Đầu tiên là đàn sáo đậu trên cành, rồi đến đàn thỏ cũng hùa theo để chê bai. Gấu con cảm thấy xấu hổ, liền chạy về nhà mách mẹ. Sau nghi nghe con kể, gấu mẹ rất ngạc nhiên, và chứng minh rằng chân vòng kiềng không xấu, cả bố mẹ và ông nội - người giỏi nhất vùng cũng có đôi chân như vậy. Điều này khiến cho gấu con trở nên tự tin hơn. Kết thúc bài thơ, gấu con tiếp tục đi dạo, vừa đi vừa hét thật to: “Chân vòng kiềng là ta/Ta vào rừng đi dạo!”. Dưới hình thức một bài thơ, nhưng đọc lên nghe như một câu chuyện, giúp cho người đọc dễ tiếp nhận hơn. Qua câu chuyện về đôi chân vòng kiềng của gấu con, tôi hiểu được rằng chúng ta không nên trêu chọc về ngoại hình của người khác. Bởi không ai sinh ra đã đẹp đẽ, hoàn hảo. Chính vì vậy, mỗi người cần biết trân trọng và yêu mến cả những điều không hoàn hảo của bản thân và mọi người xung quanh.
Bài văn mẫu số 3
Bài thơ “Gấu con chân vòng kiềng” đã đem đến cho người đọc một bài học ý nghĩa. Tác phẩm kể về việc một chú gấu con trong bài thơ đang vào rừng đi dạo. Bỗng nhiên, một quả thông rụng vào đầu khiến chú luống cuống và bị ngã. Chị sáo tình cờ ngang qua thấy vậy liền trêu chọc. Đàn thỏ cũng nhanh nhảu hùa theo, chê gấu có đôi chân vòng kiềng. Điều đó khiến gấu con cảm thấy xấu hổ, buồn bã trở về nhà mách mẹ. Sau nghi nghe con kể, gấu mẹ rất ngạc nhiên, và nói với gấu con: “Vòng kiềng giỏi nhất vùng/Chính là ông nội đấy” để chứng minh rằng chân vòng kiềng không xấu, cả bố mẹ và ông nội - người giỏi nhất vùng cũng có đôi chân như vậy. Chính vì điều đó, gấu con có thể cảm thấy tự hào, vui vẻ vì hơn để rồi gấu con lại vào rừng đi dạo, vui vẻ hét thật to: “Chân vòng kiềng là ta/Ta vào rừng đi dạo!”. Qua đó thấy rằng gấu con đã hiểu được những lời mẹ khuyên, nhận ra đôi chân vòng kiềng không hề xấu mà còn tự hào hơn. Bài thơ gửi gắm thông điệp về vai trò của ngoại hình trong cuộc sống. Đó là một yếu tố quan quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định tất cả. Và chúng ta không nên trêu chọc về ngoại hình của người khác. Bởi không ai sinh ra đã đẹp đẽ, hoàn hảo. Lời trêu chọc sẽ vô tình gây ra sự tổn thương, khiến họ trở nên tự tin hơn.
Bài văn mẫu số 4
Bài thơ “Gấu con chân vòng kiềng” của U-xa-chốp đã để lại một bài học ý nghĩa. Bài thơ viết về chú gấu con đang vào rừng đi dạo. Bỗng nhiên, có quả thông rụng vào đầu kiến gấu con luống cuống và bị ngã. Bắt gặp cảnh đó, con sáo đang đậu trên cành cây đã cất tiếng trêu chọc. Không chỉ vậy, tác giả còn đưa thêm chi tiết cả đang thỏ cũng chê bai đôi chân vòng kiềng thật xấu xí. Điều đó khiến cho gấu con cảm thấy tất cả mọi người đang cười chê mình. Gấu con cảm thấy vô cùng buồn bã, trở về mách mẹ. Khi nghe con kể lại mọi chuyện, gấu mẹ đã rất ngạc nhiên. Và gấu mẹ đã chứng minh rằng đôi chân vòng kiềng không hề xấu, mà đối với họ nhà gấu đó là một vẻ đẹp, cả ông nội gấu - người giỏi nhất vùng cũng sở hữu đôi chân đó. Nhờ vậy, gấu con có thể cảm thấy tự hào, vui vẻ vì hơn để rồi gấu con lại vào rừng đi dạo, vui vẻ hét thật to: “Chân vòng kiềng là ta/Ta vào rừng đi dạo!”. Qua câu chuyện về đôi chân vòng kiềng của gấu con, tác giả muốn nhắc đến vấn đề ngoại hình trong cuộc sống - một yếu quan quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định tất cả. Mỗi người không nên lấy ngoại hình của người khác để trêu chọc, chê bai. Con người sinh ra vốn không hoàn hảo, đều sẽ có cái đẹp và cái xấu - điều đó cần nhận được sự tôn trọng của mọi người xung quanh. Những lời trêu chọc cũng sẽ vô tình gây ra sự tổn thương cho người khác, khiến họ trở nên tự tin hơn. Một bài học rất ý nghĩa trong cuộc sống ngày hôm nay dành cho mỗi người.
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Lượm
Bài văn mẫu số 1
Một trong những bài thơ mà em cảm thấy ấn tượng nhất của nhà thơ Tố Hữu là “Lượm”. Với tác phẩm này, tác giả đã khắc họa hình ảnh trung tâm là Lượm - một cậu bé vẫn còn nhỏ tuổi nhưng rất dũng cảm. Lượm hiện lên với dáng người nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn. Cái xắc xinh xinh đeo trên vai. Cùng chiếc mũ ca lô đội lệch trên đầu. Miệng thì huýt sáo vang. Với cách so sánh “như con chim chích” đang “nhảy trên đường vàng”, chúng ta cảm nhận được vẻ hồn nhiên, ngây thơ của nhân vật này. Không chỉ vậy, tác giả còn khắc họa nét tính cách gan dạ và dũng cảm của nhân vật này. Trong công việc, cậu luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. Một mình băng băng với lá thư đề “thượng khẩn” trong tay. Lượm không sợ nguy hiểm nơi mặt trận với đạn bay vèo vèo. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ. Hình ảnh “một dòng máu tươi” như dội thẳng vào trái tim người đọc một sự thật phũ phàng, khiến dòng nước mắt chỉ trực trào ra, thương tiếc cho người chiến sĩ nhỏ tuổi anh hùng. Lượm đang nằm trên lúa, đôi tay còn nắm chặt lấy bông lúa. Xung quanh phảng phất hương thơm của sữa lúa mà hồn vẫn đang “bay giữa đồng”. Những dòng thơ cuối tuy lặp lại những câu thơ đầu bài, nhưng lại mang một sắc thái khác, đau thương khôn tả. Đó giống như là những hoài niệm về một cậu bé hồn nhiên, vui tươi thuở ban đầu, nay đã về với đất mẹ thân yêu. Tuy đau thương nhưng cái chết của Lượm là cái chết anh hùng và đầy tự hào. Bài thơ đã khơi gợi cho người đọc những cảm xúc thật đẹp đẽ.
Bài văn mẫu số 2
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc và ấn tượng. Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình đã giới thiệu hoàn cảnh gặp cậu bé Lượm. Đó là “ngày Huế đổ máu” - lúc này tác giả có dịp ra Hà Nội và tình cờ gặp Lượm. Những câu thơ mở đầu gợi ra hình ảnh một cậu bé liên lạc còn nhỏ tuổi nhưng rất nhanh nhẹn và đáng yêu. Dáng người bé “loắt choắt”, với hành trang là một cái xắc “xinh xinh”. Đôi chân “thoăn thoắt” chạy trên đường và cái đầu lúc nào cũng “nghênh nghênh”. Tính cách của Lượm hồn nhiên, ngây thơ như bao đứa trẻ khác với hành động “huýt sáo vang” tạo nên khúc nhạc nhí nhảnh. Nhưng điều khiến chúng ta cảm thấy ấn tượng hơn chính là lòng dũng cảm của Lượm. Tuy còn nhỏ nhưng cậu đã tham gia công việc làm liên lạc, vận chuyển thư từ cho cán bộ. Hình ảnh Lượm đưa thư “Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo”, quên mình vì nhiệm vụ “thượng khẩn” thì “sợ chi hiểm nghèo” khiến tôi cảm thấy thật ngưỡng mộ, tự hào. Những câu thơ cuối nhắc đến sự hy sinh của cậu bé Lượm. Hình ảnh “một dòng máu tươi” như đánh thẳng vào trái tim người đọc, khiến dòng nước mắt chỉ trực trào ra, thương tiếc cho người chiến sĩ nhỏ tuổi anh hùng. Bài thơ Lượm đã để lại cho bạn đọc yêu thơ Tố Hữu một ấn tượng sâu sắc.
Bài văn mẫu số 3
“Lượm” là một bài thơ giàu cảm xúc, khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc với những phẩm chất thật đáng quý. Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là Lượm - một cậu bé còn nhỏ tuổi, ngây thơ. Nhà thơ đã khắc họa nhân vật này với dáng người bé nhỏ bé, chiếc mũ ca lô đội lệch trên đầu. Các từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” cùng với điệp từ “cái” tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu. Không chỉ ngoại hình, Lượm còn hiện lên với tính cách dũng cảm, kiên cường. Giữa chiến trường khốc liệt - “đạn bay vèo vèo”, cậu chẳng hề thấy sợ hãi. Lá thư đề “thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Từ “sợ chi” như một lời khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ. Cậu bé nằm trên lúa, hương lúa thơm đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trổ đòng... Bài thơ đem đến cho chúng ta tình yêu mến, sự tự hào cũng như cảm phục về chú bé liên lạc.
Bài văn mẫu số 4
“Lượm” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm - một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hình ảnh Lượm hiện lên với vài nét khắc họa những để lại ấn tượng sâu sắc. Đó là một cậu bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn thể hiện qua đôi chân lúc nào cũng thoăn thoắt. Vì tuổi còn nhỏ nên cậu vẫn còn rất hồn nhiên, chiếc mũ ca-lô đội lệch sang một bên thật nhí nhảnh. Cậu vừa chạy nhảy, vừa huýt sáo làm vang cả cánh đồng. Cách so sánh “như con chim chích” khiến cho người đọc cảm nhận rõ hơn về tâm hồn ngây thơ của cậu. Không chỉ là hình ảnh của Lượm, Tố Hữu còn kể lại hành trình thực hiện nhiệm vụ của Lượm. Với lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Cậu bé liên lạc đã không quản nguy hiểm để có thể nhanh chóng đưa thư. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Trong lòng cậu không hề sợ hãi nguy hiểm xung quanh mình mà chỉ nghĩ đến nhiệm vụ cấp bách cần phải hoàn thành lúc này. Lượm đã hy sinh trên cánh đồng lúa của quê hương. Cậu bé là một người chiến sĩ dũng cảm, gan dạ. Khi đọc xong bài thơ này, tôi như cảm phục thêm về một thế hệ Việt Nam anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân, tính mạng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Bài văn mẫu số 5
“Lượm” là một bài thơ nổi tiếng của Tố Hữu. Đến với bài thơ, người đọc sẽ thấy được hình ảnh của người chiến sĩ liên lạc nhỏ tuổi, nhưng đầy dũng cảm. Dáng người nhỏ “loắt choắt”, với hành trang là một cái xắc nhỏ “xinh xinh”. Và đôi chân nhanh nhẹn “thoăn thoắt” cùng cái đầu lúc nào cũng ngó nghiêng “nghênh nghênh”. Tác giả dùng những từ láy đặc biệt như vậy để miêu tả dáng vẻ của nhân vật Lượm khiến cho hình ảnh cậu trở nên chân thực. Tuy còn nhỏ nhưng Lượm lại tham gia công việc làm liên lạc, vận chuyển thư từ cho bộ đội ta - một công việc nguy hiểm, cần sự thông minh, nhanh nhạy và lòng dũng cảm mà không phải đứa trẻ nào cũng có được. Ẩn chứa trong thân hình bé nhỏ ấy là một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, tuy em tuổi còn nhỏ nhưng cũng chẳng thua kém bất kỳ người trưởng thành nào. Công việc em đang làm đã góp phần rất to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Hành trình thực hiện nhiệm vụ của Lượm cũng đầy gian khó. Đặc biệt là hình ảnh Lượm đưa thư “Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo” đầy hung hiểm chứng minh khí chất anh hùng và lòng dũng cảm của cậu bé chẳng ngại gian khó, quên mình vì nhiệm vụ “thượng khẩn” thì “sợ chi hiểm nghèo”. Việc sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả và tự sự ở đây giúp tác giả khắc họa chân dung cũng như lòng dũng cảm của nhân vật Lượm.
Ghi lại cảm xúc về bài thơ Đêm nay Bác không ngủ
Bài văn mẫu số 1
Khi đọc “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, tôi đã cảm nhận được trọn vẹn hình ảnh Bác Hồ - một con người với trái tim rộng lớn, giàu tình yêu thương. Bài thơ dựa trên sự kiện trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh anh đội viên chợt tỉnh giấc trong đêm, khi trời đã về khuya nhưng Bác vẫn ngồi đó, chưa ngủ. Qua cảm nhận của anh đội viên, Bác Hồ hiện lên thật gần gũi, thân thương. Cách gọi “Người Cha mái tóc bạc” cho thấy một tình cảm gắn bó như thể ruột thịt. Đối với anh đội viên, Bác cũng giống như người cha luôn suy nghĩ, chăm lo cho những đứa con. Hành động Bác đi “dém chăn” với bước chân nhẹ nhàng để bộ đội không tỉnh giấc khiến tôi thật ấn tượng. Hiếm thấy một vị lãnh tụ nào lại giản dị, gần gũi như vậy. Điều đó càng giúp tôi cảm nhận rõ ràng hơn về lòng yêu thương, quan tâm và lo lắng sâu sắc của Bác dành cho các chiến sĩ. Đặc biệt nhất, tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác dành cho bộ đội và nhân dân còn được thể hiện dân qua lời bộc bạch trực tiếp. Khi nghe anh đội viên đòi Bác phải đi ngủ sớm, Bác đã bộc bạch lí do còn thức là vì thương đoàn dân công. Đọc đến đây, chúng ta cảm thấy cảm phục và yêu mến thêm con người vĩ đại của dân tộc. Dù là một vị lãnh tụ, nhưng Bác vẫn quan tâm đến cuộc sống của đoàn dân công. Bác lo lắng cho họ từ miếng ăn, cái mặc đến giấc ngủ. Từ những sự việc bình thường, với lối diễn đạt giản dị và trong sáng, tác giả giúp cho người đọc thấy được sự gắn bó chặt chẽ giữa Bác Hồ và đồng bào, chiến sĩ - đồng thời làm sáng tỏ phẩm chất cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn mẫu số 2
“Đêm nay Bác không ngủ” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Minh Huệ. Bài thơ được dựa trên sự kiện trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân. Hình ảnh Bác thức trắng đêm vì lo lắng cho đoàn dân công khiến tôi cảm thấy yêu mến và kính phục biết bao. Qua cảm nhận của anh đội viên trong bài thơ, Bác hiện lên như một vị cha già đang chăm lo cho những đứa con của mình. Điều đó khiến Bác hiện lên thật gẫn gũi, thân thương. Tôi cũng có thể thấy được tình cảm yêu nước thương dân, cống hiến vì cách mạng của Bác là vô bờ bến. Bác là một người cha vĩ đại của toàn thể nhân dân Việt Nam. Như vậy, bài thơ đã giúp tôi cảm nhận được tình cảm sâu sắc của Bác Hồ dành cho nhân dân, đất nước. Bài thơ còn cho tôi thấy được sự biết ơn, trân trọng và kính yêu của nhân dân khi được làm việc cùng Bác.
Bài văn mẫu số 3
“Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ là một tác phẩm hay viết về Bác Hồ. Khi đọc bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ”, người đọc đã cảm nhận được tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác với bộ đội và nhân dân cũng như tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ đối với lãnh tụ. Bài thơ giống như một câu chuyện kể lại của người chiến sĩ về một đêm được chứng kiến sự việc Bác Hồ không ngủ. Hình ảnh Bác đã được phác họa qua đôi mắt của một người chiến sĩ. Bác hiện lên với sự “lặng lẽ”, “trầm ngâm” mặc cho mưa gió giá rét ở ngoài kia. Dù là một vị chủ tịch nước, nhưng Bác vẫn luôn đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh cùng những người chiến sĩ. Người luôn hiểu được mọi gian khổ lẫn hiểm nguy mà họ đã trải qua và dành cho những người chiến sĩ những tình cảm cùng sự quan tâm, săn sóc đặc biệt, thể hiện ngay ở những hành động nhỏ nhất như “đi dém chăn” cho từng người bằng bước chân nhẹ nhàng. Những cử chỉ ân cần quan tâm đó đã khiến anh đội viên cảm thấy ấm áp: “Bóng Bác cao lồng lộng/Ấm hơn ngọn lửa hồng”. Bác giống như ông Bụt, ông Tiên xuất hiện giữa khung cảnh phảng phất không khí cổ tích (dưới mái lều tranh, trong đêm khuya, giữa rừng sâu). Mạch cảm xúc của bài thơ được đẩy lên cao khi lần thứ ba anh đội viên thức dậy. Anh thấy Bác vẫn còn thức giấc, anh lo lắng cho sức khỏe của Bác trước chặng đường hành quân khó khăn phía trước. Bức chân dung của Bác hiện lên dưới ngòi bút của nhà thơ Minh Huệ thật giản dị, gần gũi nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Bài thơ đã khắc họa được một bức chân dung sáng ngời của Bác với tình yêu thương bao la rộng lớn.
Bài văn mẫu số 4
“Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Bài thơ giống như một câu chuyện kể kể về Bác Hồ. Đồng thời qua một vài chi tiết miêu tả, chúng ta cũng thấy rõ hơn về chân dung của Người. Nhân vật trong bài thơ là anh đội viên chợt tỉnh giấc, nhìn thấy Bác vẫn ngồi đó chưa ngủ làm anh cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Cả ngày hành quân vất vả, đêm đến là lúc mọi người cần ngủ để đủ sức mai tiếp tục hành quân. Nhưng Bác ngồi đó dưới mái lều tranh xơ xác, ngoài trời mưa lâm thâm gợi cho tôi cảm nhận sự gần gũi, giản dị của một vị lãnh tụ. Nhà thơ Minh Huệ tiếp tục khắc họa những hành động của Bác như đốt bếp lửa hồng để sưởi ấm cho các chiến sĩ ngon giấc trong đêm đông lạnh giá giữa núi rừng phương Bắc. Hình ảnh ẩn dụ “Người cha mái tóc bạc/Đốt lửa cho anh nằm” đã cho thấy tình cảm sâu sắc dành cho Bác cũng giống như tình cảm giữa những người thân yêu ruột thịt. Dù là một vị chủ tịch nước, nhưng Bác vẫn luôn đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh cùng những người chiến sĩ. Người luôn hiểu được mọi gian khổ lẫn hiểm nguy mà họ đã trải qua và dành cho những người chiến sĩ những tình cảm cùng sự quan tâm, săn sóc đặc biệt, thể hiện ngay ở những hành động nhỏ nhất như “đi dém chăn” cho từng người bằng bước chân nhẹ nhàng. Có thể thấy rằng, việc sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả đã giúp cho bài thơ trở nên hấp dẫn hơn.
Bài văn mẫu số 5
“Đêm nay Bác không ngủ” là một bài thơ thành công nhất về Bác Hồ. Tác phẩm đã thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác đối với bộ đội và nhân dân. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ đối với vị lãnh tụ của dân tộc. Hình tượng trung tâm của tác phẩm là Bác Hồ được miêu tả qua cái nhìn và tâm trạng của người chiến sĩ, qua những lời đối thoại giữa hai người. Trong đêm khuya, anh đội viên tỉnh dậy và thấy Bác vẫn ngồi bên bếp lửa, anh ngạc nhiên vì trời đã khuya lắm rồi mà Bác vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa. Từng hành động của Bác giống như một người cha đang lo lắng, chăm sóc cho những đứa con của mình. Trời càng về khuya, nhưng Bác vẫn chưa ngủ khiến anh cảm thấy lo lắng hơn. Đến khi biết được lí do Bác vẫn chưa ngủ, anh lại càng cảm động, khâm phục. Bác vẫn còn thức vì lo cho bộ đội, dân công hay cũng chính là lo cho cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc nhằm giành lại chủ quyền độc lập, tự do. Khi đọc “Đêm nay Bác không ngủ”, người đọc cảm thấy thật xúc động trước tình cảm của vị lãnh tụ với chiến sĩ và nhân dân.
Xem thêm một số bài văn mẫu lớp 6 hay khác:
TOP 50 Bài văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát Về thăm mẹ (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Đoạn văn cảm nhận về bài thơ lượm (2024) SIÊU HAY
TOP 30 Đoạn văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Gấu con chân vòng kiềng (2024) SIÊU HAY