TOP 30 bài Nghị luận về bài thơ Sang thu (2024) HAY NHẤT

1900.edu.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh những bài văn mẫu nghị luận về bài thơ Sang thu đạt điểm cao, bao gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và những bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

NGHỊ LUẬN BÀI THƠ SANG THU

Dàn ý chi tiết

Dàn ý 1

a) Mở bài

Các thông tin mà học sinh nên đề cập trong phần mở bài chung như sau:

– Giới thiệu về tác giả (không cần chi tiết, chỉ nêu vài nét). Nếu đề bài yêu cầu về tác phẩm thì không cần đề cập tỉ mỉ về tác giả.

– Các thông tin nên đưa vào bài viết như: tên, thời điểm sáng tác, đặc sắc của tác phẩm…

– Nêu được các luận đề cần giải quyết.

b) Thân bài

– Bố cục sẽ theo các bước đó là: Luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2 – dẫn chứng thuyết phục người đọc.

– Nêu các nội dung, đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ, đoạn trích. Nên phân tích rõ hơn các câu thơ hoặc dẫn chứng từ đoạn trích để làm rõ cái hay cái đẹp của bài thơ, đoạn trích.

– Để giúp cho bài văn có tính thuyết phục nhớ so sánh tác phẩm với các tác phẩm cùng thời điểm. Điều này làm nổi bật những nét riêng, đặc sắc, giá trị nghệ thuật của chủ đề nghị luận (bài thơ, đoạn trích tác phẩm…)

– Nhớ vận dụng thêm các biện pháp phân tích, chứng minh, bàn luận…để làm rõ nhận định.

c) Kết bài

Dựa theo công thức:

– Tóm lại vấn đề đang trình bày

– Rút ra các kết luận về chủ đề nghị luận văn học.

– Ý kiến, bàn luận của cá nhân về chủ đề.

Dàn ý 2

1. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội, viết nhiều và viết hay về trẻ em thôn quê, về mùa thu.

Bài thơ Sang thu là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự chuyển mình của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.

2. Thân bài:

a. Khổ thơ đầu:

Nhà thơ nhận ra mùa thu với “hương ổi chín” nồng, độc, lần đầu tiên được lấy làm chất thơ, mang nét dân dã, bình dị.

Hương ổi chín “thổi vào gió” tạo cảm giác nồng nàn, trong trẻo, ngọt ngào hòa cùng làn gió mới của mùa thu khô lạnh.

“Hương thơm chảy qua ngõ”: Điệp từ “chung suối” tạo cảm giác chuyển mùa từ từ, chậm rãi, thong thả, còn vương vấn, chưa muốn dứt khoát bước sang thu.

Nhà thơ cảm nhận những ấn tượng đầu tiên về mùa thu bằng sự vận dụng tinh tế của các giác quan, câu thơ cuối “Dường như mùa thu đã đến” vừa bâng khuâng, vừa như một lời khẳng định chứng tỏ mùa thu đã đến.

b. Khổ thơ thứ hai:

Mùa thu được miêu tả trong sự bao la rộng lớn của đất trời.

Hữu bằng sự quan sát tinh tế tạo nên sự tương phản giữa dòng sông “chậm rãi” chậm rãi, thong thả với những cánh “vội vàng” phiêu du, vội vã tránh rét để góp phần làm rõ nét sự chuyển mùa. .

Hình ảnh “Có đám mây mùa hạ/ Nửa chừng sang thu”: Nỗi nhớ nhung, chần chừ, không muốn thay đổi hoàn toàn mùa thu của đất trời.

c. Khổ thơ cuối:

“Nắng còn nhiều/Mưa đã cháy”: Dùng sự khác biệt giữa hai sắc thu hạ để diễn tả khoảnh khắc giao mùa, nắng thu đã bớt Nắng, mưa cũng chưa khác hẳn. với thời tiết mùa hè.

“Sấm sét cũng bất ngờ giảm/ Trên hàng cây già”: Tính triết lí của cả bài thơ, nghĩa là con người trải qua bao nhiêu yếu tố của tuổi trẻ không ngờ lại đổi thay bất ngờ. của cuộc sống.

3. Kết bài: 

Khôi phục giá trị nội dung và kĩ thuật của tác phẩm:

Nội dung: Sang Thu là một bài thơ hay thể hiện những rung động tinh tế của tác giả trong thời khắc chuyển mùa từ hạ sang thu. Qua đó làm nổi bật kinh nghiệm sống và con người của tác giả.

Nghệ thuật: sử dụng nhiều câu cửa miệng, tính từ gợi trạng thái, hình ảnh chân thực. Nghệ thuật nhân hóa mang đến linh hồn cho bài thơ, nghệ thuật ẩn dụ tạo nên chiều sâu của cảm xúc và suy nghĩ.

Sơ đồ tư duy

Bài nghị luận mẫu

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 1

Phân tích thơ Sang Thu tác giả Hữu Thỉnh

Khi những cơn gió heo may bắt đầu lả lướt trên những cành cao, khi giọt nắng vàng ươm rơi rớt qua từng kẽ lá, khi cỏ hoa rủ nhau khoe sắc một khung trời là ta biết thời tiết đã sang thu. Thu về mang bao mật ngọt cho đời, thu khiến đất trời chao đảo mông lung trong những hoài niệm đong đầy và trong cả những cảm xúc chẳng thể gọi thành tên. Mùa thu luôn là đề tài khiến các thi nhân phải động lòng yêu thương. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Mùa thu là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu. Bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và em dịu nhất, mùa của những rung động sâu sắc. Thu se lạnh, man mác buồn gợi ra bao suy tư. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến. “Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một ngạc nhiên, thú vị khi phát hiện ra điều gì đó mới mẻ. Đây là cụm từ diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi hương ổi chín vô tình xộc vào khóe mũi ông, ông bất giác nhận ra mùa thu đã chạm ngõ từ bao giờ. Dấu hiệu gợi báo mùa thu đến của Hữu Thỉnh không phải là con gió nồng nàn mùi hoa sữa, cũng không “Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Mà là những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc của quê hương. Cái hương ổi chím đượm đã “phả”, bốc ra, tỏa ra mãnh mẽ vào cơn gió se. Mùa thu vốn là mùa của trái ngọt, hoa thơm và giữa muôn ngàn sắc hương, Hữu Thỉnh vẫn nhận ra trong gió hương thơm giản dị của từng quả ổi xanh, giòn rụm, phải yêu lắm xứ sở, làng quê, yêu lắm cái nơi mình đã “chôn rau cắt rốn” thì ông mới có thể nhận ra chuyển biến dù là rất nhỏ của cảnh sắc quê hương và đối đãi với nó bằng tất cả tình thương yêu, trân trọng. Hương ổi của làng quê đồng bằng Bắc bộ, mùi hương thấm đẫm bao kỉ niệm tuổi ấu thơ cùng tình yêu quê hương đã hòa quyện trong cốt cách, tâm hồn của người thi sĩ ấy. “Sương chùng chình qua ngõ… thu đã về”, hai câu thơ sau rất duyên, rất tinh tế nhưng cũng rất sâu sắc đã gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Và khi tác giả trông thấy từng làn sương trắng mờ ảo đi ngang qua ngõ mà có vẻ chậm chạp như đôi phần luyến tiếc, ông đã phải thốt lên: “Hình như thu đã về”. Các từ ngữ “bỗng” và “hình như” làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu. Chữ “se” vần với chữ “về" (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ thêm nhẹ nhàng, mênh mông và gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả giác quan. Từ “xúc giác” để cảm nhận cơn gió nhẹ, thoáng hơi sương thổi lướt qua da thịt, đến “khứu giác” để nhận ra mùi ổi chín thơm lừng, nồng đượm yêu thương và rồi Hữu Thỉnh đã dùng đến thị giác của mình, đôi mắt ông trìu mến quan sát dòng sông, đàn chim sải cách và thậm chí là mây, cả một vùng trời, một khung cảnh bao la của sắc thu dịu dàng, quyến rũ như được thu gọn trong tầm mắt ông. ông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi ông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ. Còn chim bay “vội vã", đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đối mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã" ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Để miêu tả áng mây trắng trong trên nền trời cao thăm thẳm, Hữu Thỉnh đã không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,... mà lại dùng chữ “vắt”. Mỗi nhà thơ đều mang vào trong tác phẩm của mình cũng câu từ rất riêng, khó lẫn vào đau được, và ở Hữu Thỉnh, cái chất riêng biệt đó chính là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”.. Dường như mùa hạ vẫn còn bâng khuâng luyến tiếc thì thu đã đến tự bao giờ, sự chuyển mình của bốn mùa, trời đất được tác giả phát hiện và miêu tả vô cùng ấn tượng, từ “vắt” khiến người đọc liên tưởng mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Quả là một hình ảnh bất ngờ, độc đáo nhưng cũng không kém phần sâu lắng – “một nửa” của đám mây vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã ngủ yên, và “một nửa” còn lại đang dần chuyển sang mùa thu, sẵn sàng chào đón những biến chuyển mới mẻ của đất trời, cuộc sống.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơ dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nỗi bâng khuâng, xao xuyến trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào tâm hồn từ lúc nào. Nắng cuối hạ đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần. Từ hiện tượng thiên nhiên ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. ở hai câu thơ cuối: “Sấm… hàng cây đứng tuổi”. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên, hay “mùa thu” của con người? Nhìn chuyển biến của sự vật khi sang thu mà Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã đứng tuổi. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho thấy một Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Hai câu thơ cuối mang 2 tầng ý nghĩa, tầng ý nghĩa thứ nhất là tả thực hiện tượng thiên nhiên – lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa; còn tầng ý nghĩa thứ 2, “sấm” tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Mùa thu thường không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽ, thê lương như mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có Sang thu của Hữu Thỉnh rất giàu ý nghĩa. Cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. 12 câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay Hữu Thỉnh đã thể hiện cảm xúc, trạng thái rất thành công bằng những từ ngữ: “bỗng”, “phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… khiến cho bài thơ của ông sống động, ngập tràn sự sống cùng bao cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Ông đã ghi lại dấu ấn riêng của mình vào kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam, dẫu năm tháng có qua đi nhưng vẻ đẹp của Sang Thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn bao bạn đọc.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 2

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hòa, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu”.

Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam … Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 3

    Bác Hồ- vị lãnh đại vĩ đại, người cha già yêu thương của dân tộc Việt Nam. Hoàn thành tâm nguyện và sự nghiệp cả đời của mình- sự nghiệp cứu nước, năm 1946 Bác Hồ đã ra đi mãi mãi. Bác ra đi trong nỗi niềm tiếc thương của hàng vạn con dân Việt Nam:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…”

       Tiếng khóc nghẹn ngào ấy vẫn cứ nỉ non, đau xót cho đến 7 năm sau, vang vọng trong những vần thơ của Viễn Phương. Sau một lần ra thăm lăng Bác, với nỗi tiếc thương khôn nguôi và lòng thành kính thiêng liêng, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác.

       Mở đầu bài thơ là cảm xúc ngỡ ngàng xen lẫn bồi hồi của tác giả:

“ Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng”

       Nhà thơ dùng đại từ xưng hô “con- Bác” thể hiện tình cảm gần gũi gắn bó mật thiết và tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Bác Hồ là vị cha già cả dân tộc, triệu triệu người dân Việt Nam đều là con của Người. Người mang ánh sáng chở che, bao bọc dân tộc. Giây phút này đây, qua bao nhiêu năm tháng con đã được về lăng Bác, được trở về trong vòng tay Người ngắm nhìn hình hài yêu dấu ấy. Miền Nam gợi ra khoảng cách địa lý vừa nói về một mối tình cảm đặc biệt. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, Bác Hồ luôn dõi theo và quan tâm đến đời sống người dân miền Nam. Trong Bác lúc nào cũng thường trực nồi niềm khao khát cháy bỏng đất nước thống nhất, Bắc- Nam sum họp đẻ Bác được vào thăm những người con tổ quốc của mình. Trái tim Bác và trái tim miền Nam hòa chung làm một. Miền Nam lúc nào cũng mong nhớ Bác khôn nguôi, da diết. Tình cảm ấy thiêng liêng, đậm sâu, ngọt ngào như tình mẫu tử:

“Ở tận cùng mũi đất phương Nam

Trong xanh rờn rừng đước

Giữa ba bề rì rầm sóng nước

Người quê tôi theo cách riêng mình

Dựng một ngôi đền

Thờ Bác kính yêu”

       Chính tình cảm dạt dào ấy đã thôi thúc người con vượt ngàn dặm xa ra Bắc viếng lăng Bác. Nhà thơ đã dùng các nói giảm nói tránh “thăm” để ghìm nén lại cảm xúc đau thương đang trào trực trong tim. Hình ảnh đầu tiên ghi dấu lại cuộc hành trình của tác giả đó chính là hàng tre. Hàng tre xanh trải dài bát ngát trong sương mù ẩn hiện. Khi còn sinh thời Người luôn mang trong mình một tình yêu thiên nhiên cháy bỏng, sống và hòa quyện cùng thiên nhiên đến khi nằm xuống thì thiên nhiên vẫn bên người. Hình ảnh hàng tre giản dị, gần gũi, mộc mạc cũng như chính con người Bác, cuộc sống Bác-dân dã, bình dị. Tre còn là biểu tương cho vẻ đẹp của con người Việt Nam- kiên cường, kiên trung, bất khuất. Tre gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta, tre lao động sản xuất, tre tham gia chiến trường, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Dù mưa bom bão đạn tre vẫn sát cánh cùng dân tộc bảo vệ đất nước. Những hàng tre bát ngát, xanh tươi thẳng tắp vươn mình bên lăng Bác như chính sự hiện diện của dân tộc Việt Nam đang quây quần bên Bác, vươn mình ra đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế. Chứng kiến hình ảnh thơ tuyệt đẹp ấy Viễn Phương không nén được nỗi lòng thổn thức, xúc động mãnh liệt: “Ôi”. Chữ ôi vang lên với bao cảm xúc, bao hoài niệm và niềm tự hào thiêng liêng.

       Và rồi theo bước chân tác giả, nhà thơ tiến vào lăng Bác. Nhìn thấy Bác thấy vị cha già dịu hiền nằm ấy trong lòng nhà thơ dấy lên bao liên tưởng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

       Câu thơ có hai hình ảnh mặt trời. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời tự nhiên. Còn hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác. Bác như vầng nhật nguyệt sáng soi cho dân tộc Việt nam, Bác là trái tim ấm nóng, là trung tâm của non sông Đại Việt. Dù Bác đã đi xa nhưng vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của Bác vẫn ngời sáng, bao la, rực rỡ soi chiếu khắp muôn nơi. Để rồi:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

       Cả cuộc đời của Bác đều hướng trọn một lòng cho nhân dân, đất nước. Bảy mươi chín tuổi là bảy mươi chín năm Bác cống hiến cho dân tộc, là bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ. Triệu triệu trái tim con dân Việt Nam trở về đây dâng lên Bác những bó hoa tươi thăm với nỗi niềm biết ơn, thành kính thiêng liêng vô bờ.

       Niềm cảm xúc của Viễn Phương được dâng lên cao trào khi ngắm nhìn hình ảnh Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

       Ý thơ nói lên sự nhẹ nhàng, bình yên, tâm thế thanh thản của Bác. Bác ra đi khi đã hoàn thành được tâm nguyện nau náu cả đời- độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bác về với giấc ngủ vĩnh hằng chính là trở về với đất mẹ thân yêu. Trong câu thơ còn có hình ảnh “ vầng trăng”. Trăng là người bạn thân thiết, đồng hành gắn bó cùng Bác. Trăng cách mạng, trăng thi ca và giờ đây ánh trăng ấy vẫn bên người. Giấc ngủ ngàn thu của người vừa thanh thản, bình dị lại lãng mạn, cao đẹp, đúng như phẩm chất đáng quý của Người.

       Dù là thế nhưng nhà thơ vẫn không khỏi đau thương:

“Dẫu biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

       Vẫn biết sinh lão bệnh tử là quy luật của tạo hóa và Bác Hồ cũng không phải là ngoại lệ. “Trời xanh” biểu trưng cho sự bất tử. Bác đã ra đi nhưng hình ảnh của Bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam. Bác vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con dân ta trên mọi nẻo đường phát triển.  Dù nhận thức và an ủi là thế nhưng trong trái tim nhà thơ vẫn không khỏi nhói lên những nỗi đau đớn, tiếc nuối khôn nguôi.

       Và điều gì đến cũng sẽ phải đến. Đã đến lúc nhà thơ phải rời miền Bắc, rời lăng Bác. Những giọt nước mắt tuôn trào đã dãi bày bao nỗi niềm trong lòng tác giả:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

       Nhà thơ muốn được hóa thành chim, thành đóa hoa ngát hương thành cây tre bát ngát, thành những sự vật gần gũi để được hiến dâng lên Bác, làm đẹp cho nơi Bác nằm, đem những gì tinh túy nhất tinh hoa nhất của mình chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác. Những sự vật gần gũi, giản dị nhưng là khát vọng mãnh liệt và tình cảm lớn lao, sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Những phút giây rời lăng Bác là những phút giây lưu luyến và nồng ấm nhất, chứa chan bao cảm xúc dào dạt nhất. Kết thúc bài thơ là dấu … cũng như chính nỗi lòng tác giả còn quá nhiều điều muốn dãi bày, cứ thế trai dài ra mênh mông, sâu tận.

       Bài thơ là tiếng lòng của tác giả hay phải chăng cũng chính là tiếng lòng của nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam. Tấm lòng yêu thương, niềm tôn kính thiêng liêng dành cho vị cha già dân tộc ấy mãi luôn ngời sáng, cháy bỏng và nhiệt thành trong trái tim mỗi người con Việt Nam thân yêu hôm nay và cả mãi mai sau.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 4

  Bác Hồ- vị cha già kính yêu của dân tộc. bác đã hi sinh cả cuộc đời của mình để bảo vệ và xây dựng tổ quốc khỏi tay của những kẻ xâm lăng. Bác mất đi đó chính là nỗi đau buồn của toàn dân tộc. Những người con từ khắp mọi nơi tới để cũng ở bên cạnh Bác, thăm Bác an nghỉ lẫn cuối cùng. Và trong chuyến đi thăm Lăng bác, nhà thơ Viễn Phương viết nên những vần thơ ấm đượm tình cảm thiêng liêng dành cho Bác- vị cha già kình yêu của dân tộc.

Con ở miền Nam ra thăm lăng bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

       Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những người con ra thăm Bác. Đại từ nhân xưng “ con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh những hàng tre xanh đứng thẳng tắp, hình ảnh của những làng quê Việt Nam hiện lên trong mắt của người đọc. Bác là con người giản dị đến thế, thương yêu con dân tới thế. Bác mất đi, ở cạnh bác không phải là những loài hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh ngắt, thể hiện ý chỉ, nghị lực của những người con Việt nam, luôn bền bỉ với những sức sống mãnh liệt.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

       Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh của hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời mang nghĩa đen, là hiện tượng của tự nhiên. Còn mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ. Bởi trong lòng của những người con của Tổ quốc thì Bác là duy nhất. Nếu như ánh mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác cũng là mặt trời sưởi ấm cõi lòng của những người con Việt Nam và cũng mang tới ánh sáng cho cuộc đời của họ. Để rồi, trong lòng của nhân dân, hình ảnh của Bác chưa bao giờ bị mất đi, Bác vẫn được những người con của mình kết những tràng hoa đẹp nhất để nhớ tới bảy mươi chín tuổi xuân của mình.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

       Cho dù trong lòng của mỗi người con đều cho rằng, Bác vẫn còn ở nơi đây mãi mãi, thế nhưng chúng ta vẫn không thể quên được một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến cho tác gia “ nghe nhói ở trong tim”. Những người con lúc này chỉ mong một điều là Bác đã có được những bình an thực sực của cuộc sống bởi khi còn ở trên đời này, lúc nào Bác cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của những người con, người cháu của đất nước. giờ đây, Bác luôn được an tình, được nghi ngơi, nhưng sao những cảm xúc ấy vẫn như nhói lên trong lòng mà không thể nào xua tan đi được.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

       Khổ thơ cuối, tác giả như thoát ra những cảm xúc đã ở mức tột cùng. Hàng loạt những từ “ muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê như được sử dụng trong toàn đoạn thơ như nói lên những tâm tư, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác rồi, nhưng tác giả vẫn còn rất nhiều những lưu luyến ở nơi đây, không muốn phải trở về, chỉ muốn làm những bông hoa, làm con chim để ngày ngày dược ở bên cạnh, canh lăng cho Bác ngủ.

       Tóm lai, bài thơ là những tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bác hồ- vị cha già của dân ộc. Lời nói, lời ước của tác giả cũng chính là tiếng lòng của tất cả những người con trên toàn đất nước. Hình ảnh của người cha luôn hết lòng hi sinh vì đất nước để giúp cho đất nước được giải phóng khỏi những áp bức và chèn ép, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. bài thơ là một bức tâm tình giàu chất trữ tình, đằm thắm và thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tuy bây giờ bác đã đĩa những những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng của Bác sẽ luôn sống mãi trong lòng những con người đất Việt.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 5

Phân tích Sang thu của Hữu Thỉnh (18 mẫu + Sơ đồ tư duy) - Văn 9

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa điểm nào, hoàn cảnh nào Thanh Hải cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Có thể nói bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.

 

Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thanh thoát hơn:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời,

Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ.

Trước khung cảnh màu xuân ấy, Thanh Hải không giấu nổi cả xúc của mình

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Từ “giọt long lanh” không chỉ hiểu là giọt mưa xuân trong ánh sáng của sắc xuân mà còn được hiểu là giọt âm thanh, giọt sắc màu, giọt thời gian khiến tác giả say sưa ngây ngất. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.

Chỉ bằng vài nét điểm xuyến phác hoạ tác giả đã vẽ ra một không gian cao rộng, sắc màu tươi thắm, âm thanh vang vọng tươi vui của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời.

Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trải dài nương mạ.

Tất cả như hối hả,

Tất cả như xôn xao…”

Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.

Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.

Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Cùng với động từ Cứ đặt ở đầu câu, tác giả đã khẳng định một sự khẩn trương, hói h, náo nức vào xuân của đất nước với vẻ đẹp lung linh, lấp lánh đang vững bước về phía trước khiến không một thế lực thù địch nào có thể ngăn cản nổi.

Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.

Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót dâng tiếng ca lảnh lót , một cành hoa toả hương khoe sắc để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.

Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

Một mùa xuân nho nhỏ hay phải chăng cũng là một ẩn dụ cho chính cuộc đời của tác giả: sống là cống hiến, cống hiến chính là mùa xuân của cuộc đời? Mà mùa xuân ấy thì là mãi mãi: “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc, khi sức cùng lực kiệt vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời. Và, dù Thanh Hải cũng có đi xa thì những lời ca tiếng hát mà ông để lại cho đời mãi mãi vẫn có giá trị, mãi mãi vẫn tô điểm cho đất nước đẹp xinh. Điệp ngữ dù là được tác giả nhắc lại hai lần như một lời hứa, một lời khẳng định của nhà thơ: sống là phải cống hiến tuyệt đối. Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

Tác giả Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của Thanh Hải. Ông đã giãi bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.

Với thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, ‘’Mùa xuân nho nhỏ’’ mang một nét đặc sắc riêng Nét đặc sắc đó là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung. Bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 6

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng .

Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc,

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế.

Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện.

Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”,“chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả.

Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng.

Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong ,thật tròn,vang ngân giữa không gian,đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say.

Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

 

Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ.

Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người.

Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn.

Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước.

Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả .

Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ .

Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả.

Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:

“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”

(Tố Hữu)

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 7

Chế Lan Viên viết bài thơ Con cò vào năm 1962, in trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967). Bài Con cò mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 8 chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ!

Đoạn 1, người mẹ hiền bế con thơ trên tay, cất lời ru bài "Con cò" bay lả bay la... "Con cò mà đi ăn đêm...". Nhìn con thơ "Con còn bế trên tay - Con chưa biết con cò” mà lòng mẹ dào dạt tình thương. Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận; mẹ dành cho con bao chăm chút yêu thương. Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Cơn có mẹ, con chơi rồi lại ngủ .”

Mẹ đã dành cho con thơ tất cả: cánh tay dịu hiền của mẹ, lời ru câu hát êm đềm của mẹ, dòng sữa ngọt ngào của mẹ... Những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng tình mẫu tử bao la. Nhịp thơ cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về:

“Ngủ yên! Ngủ yên!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

Điệp ngữ "ngủ yên", "con chưa biết" và “ con cò" láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, thiết tha dìu dịu chan chứa hạnh phúc yêu thương.

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.”

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì ?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

Đoạn thơ cuối, tiếng ru con, tiếng hát của mẹ hiền cất lên dìu dặt, mênh mang. Mụ nghĩ về cuộc đời của con mai sau, và tình thương yêu của mẹ. Như một lời nguyền của mẹ:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

Chữ "dù", chữ "vẫn" được điệp lại, ý thơ được khẳng định, tình mẫu tử bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ thương con.

Phần cuối, lời thơ thấm đượm chất triết lí trữ tình. Nghĩ về con cò trong ca dao, nghĩ về cuộc đời con mai sau, người mẹ nghĩ về thân phận, số phận những con cò nhỏ bé, đáng thương, trong cuộc đời:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.”

Phải chăng người mẹ hiền đang bâng khuâng về câu hát: "Có xáo thì xáo nước trong - Đừng xáo nước đục đau lòng cò con"! Thác trong còn hơn sống đục, ấy là ý vị "cuộc đời" đáng thương, đáng trọng xưa nay.

Bài thơ Con cò là một bài thơ có đề tài nhỏ nhưng mang ý nghĩa sâu sắc: ca ngợi tình mẫu tử bao la và những ước mơ về con thơ của mẹ hiền, nói lên tình thương cuộc đời. Rất nhân hậu và nhân tình.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 8

"Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Từ lời ca dao đến trong trang viết của các thi sĩ trung đại, hiện đại, tình mẫu tử đã trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. Và đến Chế Lan Viên- một trong những tên tuổi hàng đầu của thế kỉ XX, một lần nữa, ông đã làm mới cho đề tài này bởi những vần thơ ngọt ngào qua bài “Con cò”.Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh con cò. Thơ Chế Lan Viên vốn giàu cảm xúc và triết lí, ông viết về con cò nhưng cũng là để ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng!

Mở đầu bài thơ, với hình ảnh gợi cảm, cách giới thiệu con cò một cách tự nhiên, hợp lí đã đưa ta đến với tình yêu con của người mẹ khi con còn nằm trên nôi qua lời hát ru quen thuộc. Vậy là khi con còn tấm bé, mẹ đã bên con, hát ru con ngủ với khúc ru quen thuộc tự bao đời có hình ảnh con cò:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng”

Và:

“Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng”

Lời thơ gợi hình ảnh con còn bé, mẹ âu yếm bế con trên tay, hát bằng những lời ru quen thuộc và hình ảnh cánh cò chập chờn bay trong lời ru của mẹ. Dường như hát ru con, mẹ đã hình dung ra rằng rồi trong đường tương lai,có lúc con sẽ vấp ngã, sẽ gặp khó khăn nhưng con hãy cứ say giấc ngủ bởi mẹ luôn ở bên chở che cho con “Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng” và dòng sữa ngọt ngào của mẹ sẽ nuôi con khôn lớn “Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”. Từ hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ, Chế Lan Viên nói đến hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của đứa con, là biểu tượng cho người mẹ luôn yêu thương, bên con từ ấu thơ đến khi trưởng thành, luôn dõi theo con từng bước. Khi con còn bé thơ, người mẹ luôn ở bên con trong giấc ngủ để che chở cho giấc ngủ của con. “Cánh của cò, hai đứa đắp chug đôi” là một hình ảnh đẹp tượng trưng cho vòng tay ấm áp, yêu thương của mẹ ôm ấp con vào trong lòng. Khi con đến tuổi cắp sách đến trường, mẹ vẫn ở bên cạnh con, dõi theo sự phấn đấu của con “Mai khôn lớn, con theo cò đi học”. Rồi khi con trưởng thành, mẹ vẫn bên con và mong rằng: “Con làm thi sĩ”. Mẹ mong con trở thành thi sĩ là mong con lớn lớn lên trở thành người có tâm hồn cao đẹp, biết yêu cái đẹp của cuộc sống. Và khi ấy:

“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn”

Mẹ sẽ trở thành đề tài trong những trang thơ, trang văn ấy! Sự gắn bó của mẹ với con được diễn tả qua những câu thơ mượt mà ấy là hoàn toàn đúng so với thực tế. Phải chăng đó là xuất phát từ long thương mẹ,thấu hiểu mẹ mà nhà thơ đã diễn tả một cách chân thành đến như vậy. Vẫn với giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha mang âm hưởng như một lời ru ngọt ngào, đằm thắm, những câu thơ tiếp vẫn là hình ảnh con cò tượng trưng cho người mẹ nhưng lời thơ rút ngắn lại, chỉ còn bốn tiếng. Đối ngữ “gần- xa” gợi lên khoảng không gian mênh mông, bao la, xa cách, thành ngữ “lên rừng xuống biển” chỉ cuộc sống khó khăn, vất vả, long đong. Điệp ngữ “dù ở” đặt ở đầu hai câu thơ không chỉ tạo nhịp điệu cho lời thơ mà đó còn là lời khẳng định dù không gian xa cách, dù cuộc sống khó khăn, vất vả thì người mẹ vẫn luôn ở bên cạnh con. Các từ “sẽ tìm”, “mãi yêu” góp phần khẳng định sự gắn bó tha thiết của mẹ với con. Từ đó, tác giả rút ra một quy luật mang tính triết lý:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”

Đó là quy luật triết lý về tính mẫu tử: con dù khôn lớn, trưởng thành, dù đi bất cứ nơi đâu thì ẹ vẫn luôn ở bên cạnh con, vẫn dõi theo từng bước con đi trên đường đời. Phần cuối của bài thơ trở về với âm hưởng của lời ru “À ơi”. Lời thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ mang nghĩa tượng trưng sâu sắc, hình ảnh con cò với cánh cò vỗ cánh qua nôi hay đó là hình ảnh mẹ nghiêng nghiêng bên chiếc nôi tre, mẹ đang cúi xuống âu yếm, vỗ về con thơ. Lời ru của mẹ đem đến cho con tất cả: cánh cò, cánh vạc,cả sắc trời. Lời ru của mẹ đã nuôi lớn con cả về thể chất lẫn tinh thần. Với thể thơ tự do,lời thơ ngọt ngào, tha thiết mang âm hưởng của lời hát ru, cùng với đó là các điệp khúc, các hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng,… Chế Lan Viên đã dội vào lòng người tình cảm mẫu tử thật thiêng liêng. Tình mẹ- con gắn với lời hát ru bên chiếc nôi như là biểu tượng cho dân tộc Việt tự muôn đời!

Bài thơ không chỉ ngợi ca tình mẫu tử cao quý, mà đó còn là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng mẹ, trân trọng lời ru và kỉ niệm ấu thư vì đó là phần hồn của ta!

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 9

Văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong đó chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu. Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng vô cùng hàm súc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa đáng để ta suy ngẫm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên chuyển mình chuẩn bị bước vào mùa thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Từ “Bỗng” thể hiện thái độ chợt giật mình, không có sự chuẩn bị từ trước, cảm giác sững sờ, ngạc nhiên của tác giả khi ngửi thấy hương ổi - đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về. Phả là động từ chỉ hành động mạnh mẽ. Mùi hương của ổi chín theo làn gió đi khắp mọi nơi, chạm vào mũi của nhà thơ khiến cho tâm hồn nhanh nhạy ấy giật mình. Những làn sương chùng chình chậm chạp, lững thững trôi đi như muốn từ từ tận hưởng vẻ đẹp của tiết trời mùa thu. Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… Đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Cảnh vật đã có sự chuyển mình từ hạ sang thu vô cùng đáng yêu:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. Trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp đến. Đám mây không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu. Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh đáng để ta suy ngẫm:

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần bởi mùa thu đã đến. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Bên cạn đó, sấm tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Bài thơ đã góp phần làm rõ nét hình ảnh làng quê lúc vào thu cũng như làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 10

Mùa thu vẫn luôn là một đề tài bất tận cho những sáng tạo nghệ thuật. Nếu ta từng chìm đắm trước bức tranh “Mùa thu vàng” của Levintan, chìm trong “áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu thì chắc hẳn ta cũng không thể không say mê trước “Sang thu” trong trẻo của nhà thơ Hữu Thỉnh.

Khổ thơ đầu là cảm nhận ban đầu của nhà thơ về thời khắc sang thu của đất trời. Tín hiệu báo hiệu những bước chân đầu tiên của nàng thu là hương ổi chín trong làn gió se lạnh:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Nhà thơ đã đón nhận mùa thu bằng rất nhiều các giác quan: khứu giác, thính giác, thi giác, xúc giác. Hữu Thỉnh đã lựa chọn những hình ảnh rất mộc mạc, quen thuộc để tạo nên sự mới mẻ cho tứ thơ. Làn hương ổi kết hợp với từ “Bỗng” đặt ở đầu câu thơ cho thấy thái độ bất ngờ, ngạc nhiên của nhân vật trữ tình. Động từ “phả” rất giàu sức gợi cảm, đem đến cảm giác hương thơm nồng nàn như lắng lại. “gió se” là cơn gió đặc trưng của mùa thu đất Bắc, làm giảm đi cái oi ả gắt gỏng của nắng hè.Hai câu thơ mở ra trong tâm trí người đọc không gian quen thuộc, rất đỗi thân thương của làng quê Việt. Nghệ thuật nhân hóa “Sương chùng chình” ở câu thơ thứ ba khiến thiên nhiên trở nên sinh động, có hồn. Làn sương như một con người bước từng bước chậm rãi, dùng dằng đầy lưu luyến. Từ trạng thái ngỡ ngàng, nhân vật trữ tình đã mở lòng đón nhận niềm hạnh phúc khi mùa thu sang: “Hình như thu đã về”. Sự đón nhận ấy cũng vô cùng tinh tế hệt như bước chuyển mình nhẹ nhàng, từ tốn của mùa thu.

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Ở khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu được khắc họa cụ thể hơn với sự xuất hiện của dòng sông, cánh chim và đám mây. Trong đó, hai câu thơ đầu có cấu trúc đối rất tự nhiên cho thấy sự vận động nhịp nhàng của tạo vât. Dòng sông được nhân hóa với từ láy “dềnh dàng” là một chi tiết vô cùng đặc sắc. Nó vừa mang tính chất tả thực con sông mùa thu trong veo, chảy trôi êm ái lại vừa khiến hình ảnh dòng sông như có sức sống, đang tranh thủ khoảng thời gian này để ngẫm ngợi suy tư điều gì trong lòng. Hữu Thỉnh còn rất tài tình khi sử dụng hình ảnh đối lập “Chim bắt đầu vội vã” ở câu thơ dưới. Từ láy “vội vã” gợi ra tâm thế gấp gáp, khẩn trương của những đàn chim chuẩn bị bay về phương Nam tránh rét. Hai động thái trái ngược được đặt cạnh nhau diễn tả sự vận động của tự nhiên lúc giao mùa. Tuy nhiên, nhà thơ phải là người nhạy bén lắm mới có thể cảm nhận rõ sự biến chuyển ấy bởi lẽ tất cả mới chỉ chớm nở, “được lúc”, “bắt đầu”. Điều này được thể hiện rõ qua chi tiết “Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ gợi lên không gian khoáng đạt, cao vời vợi của bầu trời. Đám mây bồng bềnh kia chính là bước đi của thời gian, là cầu nối giữa hạ và thu. Làn mây mềm mại “vắt nửa mình” tựa như chiếc khăn mỏng quàng ngang lưng trời. Câu thơ đem đến cho người đọc cảm giác mây trời cũng vương vấn, luyến tiếc mùa hè nên mới chỉ chạm một nửa sang cửa ngõ mùa thu.

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Bức tranh thiên nhiên sang thu không chỉ là bức tranh của cảnh sắc thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm cảnh, đậm chất suy tư của con người. Nhà thơ lại sử dụng nghệ thuật đối rất tài tình giữa “Vẫn còn” và “vơi dần” để tái hiện sự vận động trái chiều của các hiện tượng tự nhiên. Ở đây, nhân vật trữ tình cảm nhận thu một cách trực tiếp hơn. Vẫn là nắng, mưa mùa hạ nhưng đã bớt gay gắt, dữ dội. Những từ chỉ mức độ được sắp xếp theo thứ tự giảm dần đem đến cho người đọc những hình dung cụ thể, đậm nét hơn về sự xuất hiện của mùa thu. Câu thơ thứ ba là hình ảnh của “sấm” - một nét đặc trưng cho những cơn mưa rào tháng năm, tháng sáu. Khi thu đến, những tiếng sấm ấy cũng nhỏ lại, không còn đủ sức làm rung động đất trời, cây cối. Hoặc ta cũng có thể rằng hàng cây ấy đã “đứng tuổi”, trải qua nhiều lần giông tố nên không còn thảng thốt, sợ hãi trước những đợt sấm rền.

Thời xưa, đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để cho thấy sự giao thoa, hòa quyện giữa cõi lòng con người với khung cảnh bên ngoài. Điều này cũng đúng với “Sang thu”. Khung cảnh của bài thơ nhuốm màu suy tư, tâm trạng. Dường như vẻ trầm lặng của hàng cây kia cũng chính là sự sâu sắc, điềm đạm của con người khi đã trở nên dạn dĩ với những tác động bất thường của ngoại cảnh. Không chỉ câu thơ cuối mà tất cả các hình ảnh thiên nhiên trong bài đều gợi ra dáng vẻ con người trong những thời khắc khác nhau của cuộc đời. Con người từng trải ở độ tuổi xế chiều đã mất đi vẻ sôi nổi, táo bạo của thanh xuân nhưng lại chín chắn, trưởng thành, biết chiêm nghiệm hơn. Khi ấy, người ta vừa quyến luyến, bịn rịn những gì đã qua nhưng cũng cần gấp gáp, vội vã hòa nhịp với cuộc sống mới. “Mỗi con người là một tiểu vũ trụ”. Với bài thơ sang thu, “tiểu vũ trụ” của tác giả đã hòa hợp với vũ trụ rộng lớn của trời đất.

Như vậy, bài thơ đã thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả về mùa thu, cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước cùng tầm tư duy sâu sắc của nhà thơ Hữu Thỉnh. Để làm nên sự thành công của tác phẩm, nhà thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ với nhiều hình ảnh thơ gần gũi mà giàu sức gợi, ngôn ngữ trong sáng cùng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ.

“Sang thu” thực sự là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất viết về mùa thu. Tác phẩm khép lại nhưng những dư vị, âm vang của mùa thu vẫn ngân mãi trong lòng người đọc.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 11

Nhà thơ Hữu Thỉnh (1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, là một nhà thơ nổi tiếng của nhà thơ Việt Nam. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam và là Chủ tịch hội Nhà văn Việt Nam, kiêm nhiệm tổng biên tập báo Văn Nghệ. Ông có rất nhiều tác phẩm tiêu biểu như Âm vang chiến hào, Đường tới thành phố, Thư mùa đông… Trong đó, bài thơ Sang Thu đem đến cho chúng ta một sự bất ngờ, một ấn tượng sâu sắc về tác giả khi ông làm toát lên được hồn của mùa thu êm đềm, mênh mang.

Sang thu được tác giả viết theo thể ngũ ngôn, gồm ba khổ thơ, mỗi câu thơ đều diễn tả một nét thu êm đềm, hình ảnh của mùa thu trong buổi đầu thu, thu mới về, thu chợt đến. Bài thơ là bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa của tác giả khi thể hiện cảnh sắc mùa thu ở đồng quê miền Bắc. Và mùa thu được cảm nhận qua “hương ổi” được phả vào làn gió thu se lạnh, một mùi hương nồng nàn, khó quên:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu.

Ở đây, nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc liên tưởng về những trái ổi vàng ươm, thơm lừng tỏa ra từ những vườn ổi quê vào những ngày giao mùa cuối hạ, đầu thu. Gió thu nhè nhẹ, se lạnh, đưa hương ổi nồng nàn phả vào không gian. Hương ổi trong thơ Hữu Thỉnh thật dân dã và gần gũi.

Sau hương ổi và gió thu se, tác giả miêu tả đến sương thu. Những giọt sương chứa đầy tâm trạng chùng chình, như cố ý để kéo dài thêm thời gian:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Hai chữ “chùng chình” diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu đang về. Từ ngữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán nét thu mơ hồ, như vừa chợt phát hiện và cảm nhận.

Ở khổ thơ tiếp theo, không gian của bức tranh sang thu được mở rộng cả về chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông mênh mang:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Dòng sông mùa thu nước xanh trong vắt, nhẹ nhàng êm đềm trôi. Sông nước “dềnh dàng” như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương. Thì những đàn chim lại bay vội vã, có lẽ chúng đang bay về phương Nam để tránh cái rét sắp tới. Trong cả đoạn thơ, dòng sông, những đàn chim hay đám mây đều được tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Bức tranh thu trở nên thật hữu tình và thi vị.

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Nhà thơ không dùng những từ ngữ nào khác, mà lại dùng từ vắt để miêu tả về đám mây. Đám mây như được kéo dài ra, vắt lên đặt ngang với bầu trời rồi thả mình xuống mùa thu. Câu thơ này thật sự rất hay và độc đáo, sáng tạo.

Đến khổ thơ cuối, những cảm nhận, suy ngẫm của tác giả về mùa thu được Hữu Thỉnh gửi gắm qua những câu thơ:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Những hiện tượng thiên nhiên của mùa thu vào thời điểm giao mùa như nắng, mưa, sấm được tác giả cảm nhận rất tinh tế. Những từ ngữ được dùng như vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ…gợi cho ta cảm nghĩ về thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên, đó là nắng mùa thu, mưa mùa thu, và cả tiếng sấm ngày đầu thu. Thời điểm này, mùa hạ có lẽ vẫn còn muốn níu giữ lại chút gì đó, nên những nắng, mưa mùa hạ vẫn còn vương vấn đất trời.

Từ cảnh vật và không gian này, tác giả bỗng có những suy ngẫm về cuộc đời. Sấm và hàng cây đứng tuổi chính là những biến động của thiên nhiên, và ở đây tác giả muốn nói đến những biến cố của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi chính là bản thân chúng ta, những ai đã từng trải, được rèn luyện qua thử thách, khó khăn nhưng vẫn đứng vững.

Hai câu kết của bài thơ có lẽ tác giả dùng để khẳng định thêm về bản lĩnh, cùng những phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam ta trong thời kỳ đất nước đổi mới, còn nhiều khó khăn thử thách. Dù vậy nhưng mọi người vẫn đứng vững để cùng nhau vượt qua.

Có thể nói, bằng những biện pháp nghệ thuật như nhân hóa và ẩn dụ, cùng những từ ngữ tinh tế, Hữu Thỉnh đã làm nên thành công của Sang thu. Bài thơ như tiếng lòng của tác giả gửi gắm đến bao người về mùa thu tươi đẹp, tương lai tương sáng của đất nước đang đợi chờ chúng ta ở phía trước.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 12

Văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong đó chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu. Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng vô cùng hàm súc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa đáng để ta suy ngẫm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên chuyển mình chuẩn bị bước vào mùa thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Từ “Bỗng” thể hiện thái độ chợt giật mình, không có sự chuẩn bị từ trước, cảm giác sững sờ, ngạc nhiên của tác giả khi ngửi thấy hương ổi - đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về. Phả là động từ chỉ hành động mạnh mẽ. Mùi hương của ổi chín theo làn gió đi khắp mọi nơi, chạm vào mũi của nhà thơ khiến cho tâm hồn nhanh nhạy ấy giật mình. Những làn sương chùng chình chậm chạp, lững thững trôi đi như muốn từ từ tận hưởng vẻ đẹp của tiết trời mùa thu. Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… Đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Cảnh vật đã có sự chuyển mình từ hạ sang thu vô cùng đáng yêu:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. Trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp đến. Đám mây không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu. Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh đáng để ta suy ngẫm:

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần bởi mùa thu đã đến. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Bên cạn đó, sấm tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Bài thơ đã góp phần làm rõ nét hình ảnh làng quê lúc vào thu cũng như làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 13

Phân tích tác phẩm Sang Thu tác giả Hữu Thỉnh - HOCMAI

Khi những cơn gió heo may bắt đầu lả lướt trên những cành cao, khi giọt nắng vàng ươm rơi rớt qua từng kẽ lá, khi cỏ hoa rủ nhau khoe sắc một khung trời là ta biết thời tiết đã sang thu. Thu về mang bao mật ngọt cho đời, thu khiến đất trời chao đảo mông lung trong những hoài niệm đong đầy và trong cả những cảm xúc chẳng thể gọi thành tên. Mùa thu luôn là đề tài khiến các thi nhân phải động lòng yêu thương. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Mùa thu là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu. Bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và em dịu nhất, mùa của những rung động sâu sắc. Thu se lạnh, man mác buồn gợi ra bao suy tư. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến. “Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một ngạc nhiên, thú vị khi phát hiện ra điều gì đó mới mẻ. Đây là cụm từ diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi hương ổi chín vô tình xộc vào khóe mũi ông, ông bất giác nhận ra mùa thu đã chạm ngõ từ bao giờ. Dấu hiệu gợi báo mùa thu đến của Hữu Thỉnh không phải là con gió nồng nàn mùi hoa sữa, cũng không “Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Mà là những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc của quê hương. Cái hương ổi chím đượm đã “phả”, bốc ra, tỏa ra mãnh mẽ vào cơn gió se. Mùa thu vốn là mùa của trái ngọt, hoa thơm và giữa muôn ngàn sắc hương, Hữu Thỉnh vẫn nhận ra trong gió hương thơm giản dị của từng quả ổi xanh, giòn rụm, phải yêu lắm xứ sở, làng quê, yêu lắm cái nơi mình đã “chôn rau cắt rốn” thì ông mới có thể nhận ra chuyển biến dù là rất nhỏ của cảnh sắc quê hương và đối đãi với nó bằng tất cả tình thương yêu, trân trọng. Hương ổi của làng quê đồng bằng Bắc bộ, mùi hương thấm đẫm bao kỉ niệm tuổi ấu thơ cùng tình yêu quê hương đã hòa quyện trong cốt cách, tâm hồn của người thi sĩ ấy. “Sương chùng chình qua ngõ… thu đã về”, hai câu thơ sau rất duyên, rất tinh tế nhưng cũng rất sâu sắc đã gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Và khi tác giả trông thấy từng làn sương trắng mờ ảo đi ngang qua ngõ mà có vẻ chậm chạp như đôi phần luyến tiếc, ông đã phải thốt lên: “Hình như thu đã về”. Các từ ngữ “bỗng” và “hình như” làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu. Chữ “se” vần với chữ “về" (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ thêm nhẹ nhàng, mênh mông và gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả giác quan. Từ “xúc giác” để cảm nhận cơn gió nhẹ, thoáng hơi sương thổi lướt qua da thịt, đến “khứu giác” để nhận ra mùi ổi chín thơm lừng, nồng đượm yêu thương và rồi Hữu Thỉnh đã dùng đến thị giác của mình, đôi mắt ông trìu mến quan sát dòng sông, đàn chim sải cách và thậm chí là mây, cả một vùng trời, một khung cảnh bao la của sắc thu dịu dàng, quyến rũ như được thu gọn trong tầm mắt ông. ông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi ông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ. Còn chim bay “vội vã", đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đối mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã" ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Để miêu tả áng mây trắng trong trên nền trời cao thăm thẳm, Hữu Thỉnh đã không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,... mà lại dùng chữ “vắt”. Mỗi nhà thơ đều mang vào trong tác phẩm của mình cũng câu từ rất riêng, khó lẫn vào đau được, và ở Hữu Thỉnh, cái chất riêng biệt đó chính là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”.. Dường như mùa hạ vẫn còn bâng khuâng luyến tiếc thì thu đã đến tự bao giờ, sự chuyển mình của bốn mùa, trời đất được tác giả phát hiện và miêu tả vô cùng ấn tượng, từ “vắt” khiến người đọc liên tưởng mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Quả là một hình ảnh bất ngờ, độc đáo nhưng cũng không kém phần sâu lắng – “một nửa” của đám mây vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã ngủ yên, và “một nửa” còn lại đang dần chuyển sang mùa thu, sẵn sàng chào đón những biến chuyển mới mẻ của đất trời, cuộc sống.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơ dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nỗi bâng khuâng, xao xuyến trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào tâm hồn từ lúc nào. Nắng cuối hạ đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần. Từ hiện tượng thiên nhiên ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. ở hai câu thơ cuối: “Sấm… hàng cây đứng tuổi”. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên, hay “mùa thu” của con người? Nhìn chuyển biến của sự vật khi sang thu mà Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã đứng tuổi. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho thấy một Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Hai câu thơ cuối mang 2 tầng ý nghĩa, tầng ý nghĩa thứ nhất là tả thực hiện tượng thiên nhiên – lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa; còn tầng ý nghĩa thứ 2, “sấm” tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Mùa thu thường không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽ, thê lương như mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có Sang thu của Hữu Thỉnh rất giàu ý nghĩa. Cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. 12 câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay Hữu Thỉnh đã thể hiện cảm xúc, trạng thái rất thành công bằng những từ ngữ: “bỗng”, “phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… khiến cho bài thơ của ông sống động, ngập tràn sự sống cùng bao cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Ông đã ghi lại dấu ấn riêng của mình vào kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam, dẫu năm tháng có qua đi nhưng vẻ đẹp của Sang Thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn bao bạn đọc.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 14

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hòa, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu”.

Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam … Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 15

Hữu Thỉnh là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thường chứa đựng cảm xúc tha thiết, chân thành và rất giàu chất suy tư, triết lý. Sang thu cũng là một tác phẩm như vậy. Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc từ khoảnh khắc giao mùa nhưng đằng sau đó còn là cảm xúc của tác giả về đời người lúc sang thu.

Tính chất suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh được thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Sang thu không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời khi hè đã qua và mùa thu đang cựa mình đi tới. Mà sang thu còn ẩn dụ về cuộc đời con người. Đây là thời điểm con người đã sang thu, đã trải qua biết bao sóng gió, bởi vậy cũng trở nên vững vàng hơn trước mọi cơn giông bão của cuộc đời.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Tín hiệu đầu tiên mà tác giả cảm nhận được chính là hương ổi, một mùi hương thật dung dị, đậm chất thôn quê. Hương ổi thật chủ động, tự nhiên “phả vào trong gió se”. Với động từ “phả” tác giả đã miêu tả được hương thơm đậm đà như sánh lại, quyện lại và ùa vào gió se đầu thu. Sau sự cảm nhận về thính giác, tác giả tiếp tục cảm nhận mùa thu bằng thị giác với những đám sương chùng chình đi qua ngõ.

Nghệ thuật nhân hóa cùng từ láy “chùng chình” đã làm cho làn sương trở nên sinh động, có hồn. Câu thơ như gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh những hạt sương li ti, bé nhỏ, giăng mắc với nhau tạo thành màn sương mỏng nhẹ. Dáng đi của nó cũng thật chậm rãi, thong thả trước cửa ngưỡng mùa thu, như còn đang lưu luyến, bịn rịn với mùa hè.

Trong giờ phút giao mùa ấy, lòng nhà thơ như đắm chìm vào không gian bàng bạc chất thu. Đó là cảm giác bất ngờ khi gặp tín hiệu thu về “bỗng” – là sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, một niềm vui, một thoáng xúc động trước những khoảnh khắc thu thật thu, con người thoát khỏi bộn bề cuộc sống để hòa mình vào thiên nhiên.

Và tiếp đến là những mong manh cảm xúc, một chút bối rối tự hỏi mình “hình như”. Tình thái từ thể hiện rõ sự bâng khuâng, xao xuyến trong lòng thi nhân khi nhận ra những tín hiệu mùa thu. Hữu Thỉnh quả là người có giác quan vô cùng nhạy cảm thì ông mới có những cảm nhận tinh tế đến vậy về phút giao mùa.

Sang đến khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu đã có những chuyển biến rõ ràng, đậm nét hơn. Từ không gian ngõ vườn nhỏ bé, Hữu Thỉnh vươn ngòi bút của mình đến không gian rộng lớn hơn, không gian bầu trời, sông nước. Dòng sông hiền hòa, thong thả chảy không còn cuồn cuộn, đỏ ngầu như những ngày nước lũ mùa hè.

Đối lập với hình ảnh dòng sông là hình ảnh những cánh chim vội vã. Dường như những cơn gió se lạnh đã đâu đó len lỏi trong không gian bởi vậy những loài chim phải vội vã bay về phương nam tránh rét. Cách ông dùng từ cũng hết sức tinh tế: “bắt đầu”, chỉ mới là bắt đầu chứ chưa hẳn là vội vã bởi thu cũng chỉ mới chớm sang thôi. Mọi sự vật hiện tượng chuyển động thật thong thả, khẽ khàng bởi vậy chỉ có những tâm hồn tinh tế mới nhận thấy được.

Hai câu thơ sau là một điểm nhấn, tạo nên sự độc đáo cho bức tranh mùa thu: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Đây là trường liên tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo, gợi ra khung cảnh một làn mây mỏng nhẹ, đang uyển chuyển cựa mình chuyển bước sang thu. Đồng thời cũng có thấy tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của đám mây: nửa lưu luyến mùa hạ, nửa háo hức nghiêng mình hẳn sang thu.

Ở đoạn này tác giả tỏ ra hết sức tài tình khi mượn cái hữu hình của đám mây để gợi ra cái vô hình của không gian, ranh giới giao mùa. Thể hiện trường liên tưởng thú vị này không chỉ là cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận chính bằng tâm hồn tinh tế nhạy cảm và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.

Bức tranh mùa thu dường như được hoàn chỉnh, rõ nét hơn qua hai câu thơ tiếp theo: “Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa”. Mùa thu hiện ra rõ nét hơn qua sự thay đổi của các hiện tượng thiên nhiên: mưa, sấm – vốn là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ, nay cũng “vơi dần”, “bớt bất ngờ”, mùa thu ngày một đậm nét hơn. Sau những cảm nhận ấy, lắng lại là những suy tư chiêm nghiệm của tác giả về con người về cuộc đời:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: sang thu những cơn mưa lớn kèm sấm đã vơi dần, bớt dần, đồng thời trải qua một mùa hè đầy giông bão những hàng cây đã không còn giật mình bởi những tiếng sấm mùa hạ nữa. Nhưng bên cạnh đó, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: “sấm” là những vang động, những biến cố mà con người đã trải qua trong cuộc đời; “hàng cây đứng tuổi” là những con người trưởng thành đã từng trải qua bao thăng trầm, biến cố.

Từ ý nghĩa đó nhà thơ gửi gắm suy tư, chiêm nghiệm của mình: khi con người đã trải qua những giông bão của cuộc đời sẽ bình tĩnh hơn trước những bất thường, những tác động của ngoại cảnh. Câu thơ chất chứa biết bao suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, về con người.

Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ năm chữ tài hoa, giàu nhịp điệu. Bài thơ có nhịp điệu chậm, nhẹ nhàng, sâu lắng như chính bước đi chậm rãi của thời gian trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Lớp ngôn từ giản dị, giàu giá trị tạo hình: phả, vắt, chùng chình, dềnh dàng, vội vã, … diễn tả tinh tế những dấu hiệu mùa thu. Ngoài ra ông còn có những trường liên tưởng bất ngờ, độc đáo làm tứ thơ sinh động, hấp dẫn hơn. Hình ảnh thơ có chọn lọc, đặc sắc mang nét đặc trưng của thời tiết lúc giao mùa: hạ – thu.

Tác phẩm đã đem đến cho thi ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh sang thu thật đặc biệt, ý nghĩa. Đồng thời qua bài thơ ta còn thấy được những cảm nhận tinh tế của tác giả trong việc tái hiện khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu với sự giao thoa của nhiều lớp nghĩa: đất trời khi sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 16

Khoảnh khắc hai mùa giao thoa, tự nhiên đem đến cho con người khoảnh khắc đẹp nhất, làm rung động trái tim và làm cho chúng ta như hòa vào âm nhạc đồng điệu của thiên nhiên. Chưa kịp ngỡ ngàng trước tác phẩm của Xuân Diệu: "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì", ta lại được gặp gỡ tác phẩm tinh tế, sâu sắc đến không tưởng của Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu".

Bài thơ thể hiện cảm nhận và cảm xúc sâu sắc của tác giả trước vẻ đẹp và sự thay đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa. Không chỉ đơn giản là màu sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác", mà còn là hương vị thân quen của quả ổi trong vườn của mẹ, đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se,

 

Câu thơ ấm áp của miền quê thu hương nồng nàn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng hương thơm của trái ổi, mang đậm hơi thở quê hương, thổi bay trong không gian. Cảm xúc bất ngờ đến như một lời hẹn đã lâu. Câu thơ không chỉ mô tả về mùi hương, mà còn gợi nhớ đến màu sắc vàng rực, vị giòn ngọt chua của trái ổi quê nhà. Sương thu cũng đầy cảm xúc, trải dài trên những con đường thôn quê, thoảng đưa người qua lại vào bầu không khí se lạnh, ấm áp và thư thái.

Sương chùng chình qua ngõ 

Hình như thu đã về.

Sương thu được nhà thơ tường hoá qua cụm từ “chùng chình”, tạo nên hình ảnh những bước chân chầm chậm của mùa thu. Sau khi nhận ra mùa thu bất ngờ và đột ngột trong câu thơ đầu tiên, khi cảm nhận được sương thu và gió thu, tác giả ngỡ ngàng như tự hỏi: “Thu đã về chăng?” Tâm hồn nhà thơ lắng đọng những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa, cảm nhận nhịp bước nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, sự bỡ ngỡ ban đầu dần tan biến để nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp tuyệt vời của mùa thu:

Sông được lúc dềnh dàng 

Chim bắt đầu vội vã

Sông tràn ngập nước nên trở nên "dềnh dàng", lặng lẽ trôi như muốn chậm lại, cùng với những đàn chim vội vàng bay về phương Nam... Không khí của mùa thu mang đến sự thư thái, hữu tình và đầy thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ miêu tả đám mây trắng xốp, nhẹ và mỏng như tấm khăn voan dịu dàng của thiếu nữ nằm lơ đãng, “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ vừa hình tượng hóa không gian, vừa diễn đạt ý nghĩa về sự di chuyển của thời gian: mùa thu mới bắt đầu, mùa hạ chưa qua hết, mùa thu ẩn hiện nhẹ nhàng, êm đềm, mơ hồ như cả trời đất đang sắp thay áo mới…

Sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời đã được diễn tả chi tiết ở khổ thơ thứ ba:

Vẫn còn bao nhiêu nắng 

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vẫn vương vấn đây đó, nhưng chỉ còn lại "vẫn còn", "đã vơi dần", "cũng bớt bất ngờ" bởi mùa thu đã đến. Ý thơ gợi nhớ đến con người khi đã trải qua nhiều năm tháng, những giông bão, sự thăng trầm của cuộc đời không còn làm ta bất ngờ hay bị động. Những suy nghĩ này của tác giả chắc hẳn đã giúp cho "Sang thu" trở nên đầy ý nghĩa hơn.

Với hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa, đã tạo nên một dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Có lẽ chính vì vậy mà sau khi đọc "Sang thu" của Hữu Thỉnh, ta lại càng yêu mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê hương.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 17

Khi những luồng gió heo may đầu tiên lượn lờ trên những cành cao, những giọt nắng vàng rơi rụng qua từng kẽ lá, cỏ hoa khoe sắc trên khung trời rực rỡ, ta biết rằng thu đã về. Thu đem đến cho cuộc sống những niềm vui ngọt ngào, khiến đất trời dậy sóng trong những hoài niệm sâu đậm và trong những cảm xúc khó tả. Mùa thu luôn là chủ đề khiến các nhà thơ yêu thích. Bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh, được sáng tác năm 1977, đã hoàn hảo miêu tả bầu không khí thu với sự thay đổi trôi chảy của thiên nhiên và lòng người. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những xúc cảm sâu lắng đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, khiến cho tình yêu của họ với mùa thu càng trở nên đậm đà và thiết tha hơn.

Khi mùa thu sang, cái se lạnh và buồn mang đến nhiều suy tư. Bài thơ "Sang thu" được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977 đã hoàn hảo miêu tả cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng và sự thay đổi mượt mà của thiên nhiên và tâm hồn con người. "Sang Thu" là một bài thơ ngũ ngôn được nhiều người yêu thích.

Dấu hiệu cho thấy mùa thu đang đến của Hữu Thỉnh không phải là con gió mang mùi hoa sữa, cũng không phải như bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Thay vào đó là những hình ảnh đơn giản, mộc mạc của quê hương. Hương vị của ổi chín đầy ngọt ngào, nồng nàn, thấm đượm cả trong cơn gió. Mùa thu là thời điểm của những trái ngọt, hoa thơm, và giữa hàng ngàn mùi hương, Hữu Thỉnh vẫn cảm nhận được hương thơm giản dị từ những quả ổi xanh, giòn rụm. Chỉ khi ông yêu quý đất nước, làng quê và tận hưởng những sự thay đổi tuy nhỏ bé của quê hương, ông mới có thể trân trọng và yêu thương nó đúng nghĩa. Mùi hương của quả ổi đồng bằng Bắc Bộ, cùng với tình yêu quê hương và tuổi thơ đã trộn lẫn với cảm xúc và tâm hồn của thi sĩ. Khi tác giả thấy những đợt sương trắng lướt qua ngõ với vẻ chậm chạp, như có một phần luyến tiếc, ông đã thốt lên: "Hình như thu đã về".

Hữu Thỉnh đã sử dụng các giác quan khác nhau để cảm nhận mùa thu. Từ "xúc giác" để nhận biết cơn gió thoảng qua da thịt, đến "khứu giác" để ngửi thấy hương thơm nồng nàn của quả ổi chín, và cuối cùng là thị giác để quan sát và tận hưởng vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu. Tác phẩm của mỗi nhà thơ đều có phong cách và câu từ đặc biệt của riêng họ, và với Hữu Thỉnh, nét đặc trưng đó là "đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu", một hình ảnh tuyệt đẹp của sắc thu.

Có vẻ như mùa hạ vẫn còn đang ôm niềm tiếc nuối thì mùa thu đã tới từ bao giờ, sự thay đổi của bốn mùa được tác giả miêu tả rất tuyệt vời. Từ “vắt” đã kích thích trí tưởng tượng của người đọc, như kéo dài đám mây, kéo lên và đặt chúng trên bầu trời, sau đó buông thả chúng xuống. Câu thơ miêu tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh rất tuyệt và cách sử dụng từ rất sáng tạo. Đó là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần sâu sắc – “nửa” của đám mây vẫn còn ôm niềm tiếc nuối mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã phải chìm vào giấc ngủ, và “nửa” còn lại sẵn sàng chuyển sang mùa thu, đón nhận những thay đổi mới của cuộc sống và của đất trời.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơ dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Cảm nhận về sự mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đọng lại, nhưng sự dịu dàng, mát mẻ của mùa thu cũng đã len vào tâm hồn từ khi nào. Ánh nắng cuối hạ đã dịu đi, cơn mưa cũng đã ít dần. Từ những hiện tượng thiên nhiên đó, nhà thơ suy ngẫm về cuộc sống. Trong hai câu thơ cuối, "Sấm... hàng cây đứng tuổi", nhìn vào sự biến đổi của sự vật khi chuyển sang mùa thu, Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã trưởng thành. Có lẽ "mùa thu" trong cuộc đời con người là sự kết thúc của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, nhiệt huyết, để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn với những điều nhẹ nhàng, yên bình và trầm lắng hơn.

Hai câu thơ cuối của bài thơ tả cảnh thiên nhiên của Hữu Thỉnh chứa đựng hai tầng ý nghĩa. Tầng ý nghĩa đầu tiên mô tả sự thay đổi của thiên nhiên, khi mùa thu đến, tiếng sấm và cơn mưa giông dữ dội của mùa hạ cũng dần trở nên yên lặng hơn, các cây không còn rung lắc vì tiếng sấm. Tầng ý nghĩa thứ hai của hai câu thơ cuối đề cập đến "sấm" là biểu tượng cho những biến động và khó khăn trong cuộc sống, còn "hàng cây đứng tuổi" là biểu tượng cho những người đã trải qua nhiều gian khổ và khó khăn. Có thể rằng, khi sống lâu, con người trở nên trưởng thành và trau dồi được nhiều kinh nghiệm, từ đó, những biến cố và thay đổi trong cuộc sống không còn khiến họ sợ hãi nữa.

Bài thơ Sang thu với 12 câu thơ, mỗi câu đều đẹp và hay. Nhờ những từ ngữ như “bỗng”, “phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… mà ông đã thành công trong việc thể hiện cảm xúc, trạng thái của mình. Bài thơ tràn đầy sự sống và bao gồm nhiều cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới. Hữu Thỉnh đã để lại dấu ấn riêng của mình trong kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam. Dù thời gian trôi đi, vẻ đẹp của Sang thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn của các bạn đọc.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 18

Hữu Thỉnh (1942) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, với tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch của Hội Nhà văn Việt Nam và đồng thời là tổng biên tập của báo Văn Nghệ. Ông có nhiều tác phẩm tiêu biểu như Âm vang chiến hào, Đường tới thành phố, Thư mùa đông... Trong đó, bài thơ Sang Thu đã gây bất ngờ cho người đọc và tạo ra ấn tượng sâu sắc về tác giả khi ông tuyệt vời hóa được vẻ đẹp của mùa thu êm đềm, mênh mang.

Sang Thu là bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn, gồm ba khổ thơ, mỗi câu thơ tuyệt đẹp miêu tả một nét thu êm đềm, hình ảnh của mùa thu trong những ngày đầu tiên, khi thu mới về, thu bất ngờ đến. Bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa của tác giả đã đưa người đọc đến với cảnh sắc mùa thu ở đồng quê miền Bắc. Mùa thu được cảm nhận qua “hương ổi” phả vào làn gió thu se lạnh, một mùi hương nồng nàn, khó quên.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu.

Trong đoạn văn này, nhà thơ không mô tả mà chỉ kích thích trí tưởng tượng của độc giả về những trái ổi vàng ươm, phát ra hương thơm ngọt ngào từ những vườn ổi quê trong những ngày giao mùa cuối hạ, đầu thu. Gió thu nhẹ nhàng, se lạnh, thổi đưa hương thơm ổi rất gần gũi vào không khí. Hương thơm ổi trong bài thơ của Hữu Thỉnh rất đơn giản và dân dã. Sau đó, tác giả miêu tả sương thu, những giọt sương đầy tình cảm mơ màng, như muốn kéo dài thêm thời gian cho bầu không khí của mùa thu.

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Để mô tả mùa thu, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Hai chữ “chùng chình” diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu đang về. Từ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán về nét mơ hồ của mùa thu, như vừa mới cảm nhận được. Ở khổ thơ tiếp theo, không gian của bức tranh sang thu được mở rộng cả về chiều cao, độ rộng của bầu trời với những cánh chim bay và đám mây trôi, cùng với sự mênh mang của dòng sông dài.

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Trong bài thơ, dòng sông mùa thu được miêu tả là nước xanh trong vắt, êm đềm trôi. Tác giả sử dụng từ "dềnh dàng" để diễn tả sự chậm chạp, nhẹ nhàng của dòng sông. Những đàn chim bay vội vã, có thể đang bay về phương Nam để tránh cái rét sắp tới. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để tạo ra một bức tranh thu với những yếu tố tự nhiên trở nên sống động và hữu tình.

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Nhà thơ không dùng những từ ngữ nào khác, mà lại dùng từ vắt để miêu tả về đám mây. Đám mây như được kéo dài ra, vắt lên đặt ngang với bầu trời rồi thả mình xuống mùa thu. Câu thơ này thật sự rất hay và độc đáo, sáng tạo. Đến khổ thơ cuối, những cảm nhận, suy ngẫm của tác giả về mùa thu được Hữu Thỉnh gửi gắm qua những câu thơ:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Tác giả đã cảm nhận rất tinh tế những hiện tượng thiên nhiên trong thời điểm giao mùa của mùa thu như nắng, mưa và sấm. Những từ ngữ được sử dụng như vẫn còn, đã dần vơi, hay bớt bất ngờ đã gợi lên cho chúng ta cảm giác về thời gian và sự tồn tại của các vật, của thiên nhiên. Đó là nắng mùa thu, mưa mùa thu và cả tiếng sấm của ngày đầu thu. Vào thời điểm này, mùa hạ có lẽ vẫn muốn nắm bắt lại một chút gì đó, vì vậy những nắng, mưa của mùa hạ vẫn còn vương vấn trên đất trời.

Từ phong cảnh và không gian đó, tác giả đã suy ngẫm về cuộc đời. Tiếng sấm và hàng cây đã trải qua nhiều biến động của thiên nhiên, và tác giả sử dụng nó để ám chỉ đến những biến cố trong cuộc đời. Các hàng cây đứng tuổi tượng trưng cho chính bản thân chúng ta, những người đã trải qua những thử thách, khó khăn nhưng vẫn đứng vững.

Sử dụng các phương pháp nghệ thuật như nhân hóa và ẩn dụ, cùng với những từ ngữ tinh tế, Hữu Thỉnh đã tạo nên thành công cho bài thơ "Sang thu". Bài thơ này như một lời gửi gắm của tác giả đến những người yêu mến mùa thu tươi đẹp, và đặt hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước đang chờ đón chúng ta phía trước.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 19

Khi những cơn gió heo may bắt đầu lả lướt trên những cành cao, khi giọt nắng vàng ươm rơi rớt qua từng kẽ lá, khi cỏ hoa rủ nhau khoe sắc một khung trời là ta biết thời tiết đã sang thu. Thu về mang bao mật ngọt cho đời, thu khiến đất trời chao đảo mông lung trong những hoài niệm đong đầy và trong cả những cảm xúc chẳng thể gọi thành tên. Mùa thu luôn là đề tài khiến các thi nhân phải động lòng yêu thương. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Mùa thu là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu. Bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và em dịu nhất, mùa của những rung động sâu sắc. Thu se lạnh, man mác buồn gợi ra bao suy tư. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến. “Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một ngạc nhiên, thú vị khi phát hiện ra điều gì đó mới mẻ. Đây là cụm từ diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi hương ổi chín vô tình xộc vào khóe mũi ông, ông bất giác nhận ra mùa thu đã chạm ngõ từ bao giờ. Dấu hiệu gợi báo mùa thu đến của Hữu Thỉnh không phải là cơn gió nồng nàn mùi hoa sữa, cũng không “Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Mà là những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc của quê hương. Cái hương ổi chím đượm đã “phả”, bốc ra, tỏa ra mãnh mẽ vào cơn gió se. Mùa thu vốn là mùa của trái ngọt, hoa thơm và giữa muôn ngàn sắc hương, Hữu Thỉnh vẫn nhận ra trong gió hương thơm giản dị của từng quả ổi xanh, giòn rụm, phải yêu lắm xứ sở, làng quê, yêu lắm cái nơi mình đã “chôn rau cắt rốn” thì ông mới có thể nhận ra chuyển biến dù là rất nhỏ của cảnh sắc quê hương và đối đãi với nó bằng tất cả tình thương yêu, trân trọng. Hương ổi của làng quê đồng bằng Bắc bộ, mùi hương thấm đẫm bao kỉ niệm tuổi ấu thơ cùng tình yêu quê hương đã hòa quyện trong cốt cách, tâm hồn của người thi sĩ ấy. “Sương chùng chình qua ngõ… thu đã về”, hai câu thơ sau rất duyên, rất tinh tế nhưng cũng rất sâu sắc đã gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Và khi tác giả trông thấy từng làn sương trắng mờ ảo đi ngang qua ngõ mà có vẻ chậm chạp như đôi phần luyến tiếc, ông đã phải thốt lên: “Hình như thu đã về”. Các từ ngữ “bỗng” và “hình như” làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu. Chữ “se” vần với chữ “về" (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ thêm nhẹ nhàng, mênh mông và gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả giác quan. Từ “xúc giác” để cảm nhận cơn gió nhẹ, thoáng hơi sương thổi lướt qua da thịt, đến “khứu giác” để nhận ra mùi ổi chín thơm lừng, nồng đượm yêu thương và rồi Hữu Thỉnh đã dùng đến thị giác của mình, đôi mắt ông trìu mến quan sát dòng sông, đàn chim sải cách và thậm chí là mây, cả một vùng trời, một khung cảnh bao la của sắc thu dịu dàng, quyến rũ như được thu gọn trong tầm mắt ông. ông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi ông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ. Còn chim bay “vội vã", đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đối mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã" ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Để miêu tả áng mây trắng trong trên nền trời cao thăm thẳm, Hữu Thỉnh đã không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,... mà lại dùng chữ “vắt”. Mỗi nhà thơ đều mang vào trong tác phẩm của mình cũng câu từ rất riêng, khó lẫn vào đau được, và ở Hữu Thỉnh, cái chất riêng biệt đó chính là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”.. Dường như mùa hạ vẫn còn bâng khuâng luyến tiếc thì thu đã đến tự bao giờ, sự chuyển mình của bốn mùa, trời đất được tác giả phát hiện và miêu tả vô cùng ấn tượng, từ “vắt” khiến người đọc liên tưởng mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Quả là một hình ảnh bất ngờ, độc đáo nhưng cũng không kém phần sâu lắng – “một nửa” của đám mây vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã ngủ yên, và “một nửa” còn lại đang dần chuyển sang mùa thu, sẵn sàng chào đón những biến chuyển mới mẻ của đất trời, cuộc sống.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,
Đã vơ dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nỗi bâng khuâng, xao xuyến trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào tâm hồn từ lúc nào. Nắng cuối hạ đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần. Từ hiện tượng thiên nhiên ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. ở hai câu thơ cuối: “Sấm… hàng cây đứng tuổi”. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên, hay “mùa thu” của con người? Nhìn chuyển biến của sự vật khi sang thu mà Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã đứng tuổi. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho thấy một Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Hai câu thơ cuối mang 2 tầng ý nghĩa, tầng ý nghĩa thứ nhất là tả thực hiện tượng thiên nhiên – lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa; còn tầng ý nghĩa thứ 2, “sấm” tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Mùa thu thường không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽ, thê lương như mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có Sang thu của Hữu Thỉnh rất giàu ý nghĩa. Cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. 12 câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay Hữu Thỉnh đã thể hiện cảm xúc, trạng thái rất thành công bằng những từ ngữ: “bỗng”, “phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… khiến cho bài thơ của ông sống động, ngập tràn sự sống cùng bao cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Ông đã ghi lại dấu ấn riêng của mình vào kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam, dẫu năm tháng có qua đi nhưng vẻ đẹp của Sang Thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn bao bạn đọc.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 20

Khi những cơn gió heo may bắt đầu lả lướt trên những cành cao, khi giọt nắng vàng ươm rơi rớt qua từng kẽ lá, khi cỏ hoa rủ nhau khoe sắc một khung trời là ta biết thời tiết đã sang thu. Thu về mang bao mật ngọt cho đời, thu khiến đất trời chao đảo mông lung trong những hoài niệm đong đầy và trong cả những cảm xúc chẳng thể gọi thành tên. Mùa thu luôn là đề tài khiến các thi nhân phải động lòng yêu thương. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Thu se lạnh, man mác buồn gợi ra bao suy tư. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người. Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của, từng được nhiều người ưa thích.

Dấu hiệu gợi báo mùa thu đến của Hữu Thỉnh không phải là con gió nồng nàn mùi hoa sữa, cũng không “Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Mà là những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc của quê hương. Cái hương ổi chím đượm đã “phả”, bốc ra, tỏa ra mãnh mẽ vào cơn gió se. Mùa thu vốn là mùa của trái ngọt, hoa thơm và giữa muôn ngàn sắc hương, Hữu Thỉnh vẫn nhận ra trong gió hương thơm giản dị của từng quả ổi xanh, giòn rụm, phải yêu lắm xứ sở, làng quê, yêu lắm cái nơi mình đã “chôn rau cắt rốn” thì ông mới có thể nhận ra chuyển biến dù là rất nhỏ của cảnh sắc quê hương và đối đãi với nó bằng tất cả tình thương yêu, trân trọng. Hương ổi của làng quê đồng bằng Bắc bộ, mùi hương thấm đẫm bao kỷ niệm tuổi ấu thơ cùng tình yêu quê hương đã hòa quyện trong cốt cách, tâm hồn của người thi sĩ ấy. Và khi tác giả trông thấy từng làn sương trắng mờ ảo đi ngang qua ngõ mà có vẻ chậm chạp như đôi phần luyến tiếc, ông đã phải thốt lên: ”Hình như thu đã về”.

Sang thu - Hữu Thỉnh

Từ “xúc giác” để cảm nhận cơn gió nhẹ, thoáng hơi sương thổi lướt qua da thịt, đến “khứu giác” để nhận ra mùi ổi chín thơm lừng, nồng đượm yêu thương và rồi Hữu Thỉnh đã dùng đến thị giác của mình, đôi mắt ông trìu mến quan sát dòng sông, đàn chim sải cách và thậm chí là mây, cả một vùng trời, một khung cảnh bao la của sắc thu dịu dàng, quyến rũ như được thu gọn trong tầm mắt ông. Mỗi nhà thơ đều mang vào trong tác phẩm của mình cũng câu từ rất riêng, khó lẫn vào đau được, và ở Hữu Thỉnh, cái chất riêng biệt đó chính là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”.. Dường như mùa hạ vẫn còn bâng khuâng luyến tiếc thì thu đã đến tự bao giờ, sự chuyển mình của bốn mùa, trời đất được tác giả phát hiện và miêu tả vô cùng ấn tượng, từ “vắt” khiến người đọc liên tưởng mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Quả là một hình ảnh bất ngờ, độc đáo nhưng cũng không kém phần sâu lắng – “một nửa” của đám mây vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã ngủ yên, và “một nửa” còn lại đang dần chuyển sang mùa thu, sẵn sàng chào đón những biến chuyển mới mẻ của đất trời, cuộc sống.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,

Đã vơ dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nỗi bâng khuâng, xao xuyến trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào tâm hồn từ lúc nào. Nắng cuối hạ đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần. Từ hiện tượng thiên nhiên ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. ở hai câu thơ cuối: “Sấm… hàng cây đứng tuổi”. Nhìn chuyển biến của sự vật khi sang thu mà Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã đứng tuổi. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn.

Hai câu thơ cuối mang 2 tầng ý nghĩa, tầng ý nghĩa thứ nhất là tả thực hiện tượng thiên nhiên – lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa; còn tầng ý nghĩa thứ 2, “sấm” tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

12 câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay Hữu Thỉnh đã thể hiện cảm xúc, trạng thái rất thành công bằng những từ ngữ: “bỗng”,” phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… khiến cho bài thơ của ông sống động, ngập tràn sự sống cùng bao cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới. Ông đã ghi lại dấu ấn riêng của mình vào kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam, dẫu năm tháng có qua đi nhưng vẻ đẹp của Sang Thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn bao bạn đọc.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Hữu Thỉnh (sinh năm 1942), tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh.
- Quê ở Tam Dương, Vĩnh Phúc.

- Năm 1963, ông nhập ngũ rồi trở thành cán bộ văn hóa tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ.

- Ông đã tham gia Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V.

- Năm 2000, Hữu Thỉnh trở thành Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 2005, ông là Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 2010, Hữu Thỉnh là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.

- Một số tác phẩm: Từ chiến hào đến thành phố, Đường tới thành phố, Mưa xuân trên tháp pháo...

2. Tác phẩm

2.1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ sáng tác năm mùa thu năm 1977, in trong tập Từ chiến hào đến thành phố (NXB Văn học, 1991).

2.2. Thể thơ

Bài thơ “Sang thu” thuộc thể thơ năm chữ

2.3. Bố cục

- Khổ 1: Cảm nhận về thiên nhiên lúc giao mùa, tín hiệu báo thu về

- Khổ 2: Cảm nhận về quang cảnh trời đất lúc vào thu

- Khổ 3: Những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời người lúc chớm thu

2.4. Nội dung chính

“Sang thu” là những cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh thiên nhiên ấy. 

2.5. Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm

2.6. Thể thơ: Ngũ ngôn (5 chữ)

2.7. Giá trị nội dung

- Cảm nhận tinh tế trước mùa thu vào thời điểm giao mùa

- Suy ngẫm sâu lắng về con người và cuộc đời.

 Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảng khắc giao mùa.

2.8. Giá trị nghệ thuật

- Khắc họa được hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ-thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.

-  Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ, phép nhân hoá, phép ẩn dụ.

Xem thêm những bài nghị luận hay nhất tại đây:

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!