Trong truyện buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào
Đề bài: Trong truyện "Buổi học cuối cùng", em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.
Dàn ý: Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào
- Mở đoạn: Giới thiệu về một chi tiết mà em thấy thú vị hoặc hình ảnh, nhân vật em yêu thích
- Thân đoạn: Lí do em yêu thích chi tiết, nhân vật hoặc hình ảnh đó.
+ Nhân vật Phrang: một cậu bé ham chơi, thường xuyên trốn học. Có tâm hồn đặc biệt, sự thức tỉnh đáng quý trong buổi học cuối cùng.
+ Hình ảnh thầy giáo Ha-men “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”: thể hiện lòng yêu tiếng mẹ đẻ, yêu nước tha thiết; một người thầy đau khổ và có phần bất lực
+ Chi tiết cả lớp học im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy: Cái nhìn tinh tế của nhà văn về cuộc sống, sự nghiêm trang của một lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng.
- Kết đoạn: Cảm nhận về chi tiết thú vị hoặc hình ảnh, nhân vật trong đoạn trích.
Một số bài mẫu hay: Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào
Mẫu số 1
- Sau khi đọc xong truyện ngắn “ Buổi học cuối cùng” của nhà văn An – phông – xơ Đô – đê, nhân vật Phrang đã để lại cho em nhều ân tượng nhất. Trước hết, ta thấy Phrang là một cậu bé ham chơi, thường xuyên trốn học. Tuy nhiên cậu cũng là một người khá sâu sắc, sống có tâm hồn khi cảm nhận được những điều khác lạ đang diễn ra xung quanh mình từ quang cảnh con đường đến trường, lớp học, và cả thái độ của mọi người đặc biệt là thái độ của thầy giáo Ha- men.Và hơn hết cậu đã có sự thức tỉnh đáng quý trong buổi học cuối cùng: đó là lòng yêu tiếng Pháp, yêu dân tộc Pháp.
Mẫu số 2
Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất hình ảnh thầy giáo Ha-men “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”. Em thích nhất hình ảnh này là bởi:
Đây là một hình ảnh đem lại nhiều sức gợi, ám ảnh trong em: đó là một người thầy tâm huyết, kết thúc rồi nhưng vẫn còn cố gắng “dằn mạnh hết sức” thể hiện lòng yêu tiếng mẹ đẻ, yêu nước tha thiết; một người thầy đau khổ và có phần bất lực. Trong phút giây cuối cùng, thầy không nói thành lời mà đầu dựa vào tường “giơ tay ra hiệu”.
Hình ảnh thầy Ha-men thôi thúc trong em lòng yêu tiếng Việt, quý trọng các giờ học trên lớp cùng các thầy cô giáo và bồi dưỡng lòng yêu nước; thôi thúc em cố gắng học tập thật tốt, vươn cao vươn xa cùng bạn nè năm châu.
Mẫu số 3
Trong truyện em thích nhất là nhân vật thầy giáo Ha-men. Bởi thầy là đại diện cho tầng lớp trí thức Pháp yêu nước, yêu văn hóa và yêu nghề lúc bấy giờ. Dù hoàn cảnh lịch sử rối ren, đất nước bị chiếm đóng và bọn giặc đang muốn đồng hóa dân tộc này bằng cách dạy tiếng Đức thay vì tiếng Pháp. Chính vào khoảnh khắc này, buổi học tiếng Pháp cuối cùng ấy, người thầy giáo yêu nước ấy đã dạy cho học trò của mình bài học cuối cùng, bài học về tình yêu nước, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc với cảm xúc ngậm ngùi, đầy tiếc nuối.
Mẫu số 4
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật thầy Ha-men. Thầy chuẩn bị bài học rất chu đáo. Giáo án được viết bằng thứ mực đắt tiền; những dòng chữ nghiêng nghiêng, rõ ràng, nắn nót, kẻ tiêu đề cẩn thận nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Thầy giảng bài bằng giọng nói dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học người không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với cậu bé đến muộn Phrăng, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Tất cả học sinh trong lớp đều thấy rằng: Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng bài như vậy. Những chi tiết này khẳng định một điều chắc chắn: Thầy là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.
Mẫu số 5
Đối với văn bản "Buổi học cuối cùng" nhân vật để lại nhiều ấn tượng nhất đó là thầy giáo Ha-men. Thấy giáo trong buổi học cuối cùng hiện lên trong ánh mắt của học sinh với bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Thầy Ha-men hôm nay rất dịu dàng, không giận dữ quát mắng; kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù. Ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy Ha- men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: "Nước Pháp muôn năm". Thấy được người thầy luôn yêu tiếng mẹ đẻ, dành hết tâm huyết cho những học sinh của mình. Người thầy chính là người truyền những năng lượng tích cực và tư tưởng cho những bạn đọc.
Mẫu số 6
Hình ảnh chú bé Phrăng trong văn bản " Buổi học cuối cùng " của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê đã để lại cho em những ấn tượng sâu sắc. Thật vậy, Phrăng là một chú bé vô tư và hồn nhiên. Tuy đã trễ giờ đến lớp nhưng vì mải chơi, Phrăng đã có ý định trốn học và rong chơi ngoài đồng cỏ. Phrăng cũng như bao đứa trẻ khác, cậu ham chơi, hiếu động và vô lo vô nghĩ. Nhưng điều đặc biệt khiến em vô cùng yêu mến Phrăng đó là tình yêu nước thiết tha ở cậu bé. Tình yêu nước ấy được thể hiện rõ trong buổi học Pháp văn cuối cùng. Khi nghe thầy Ha-men thông báo người dân vùng An-dát không còn được học tiếng Pháp nữa, Phrăng đã cảm thấy sửng sốt, choáng váng và tức giận. Tâm trạng của Phrăng đã có sự biến đổi sâu sắc, cậu cảm thấy ân hận vì đã lãng phí thời gian học tập, không nhớ các quy tắc phân từ của tiếng Pháp. Khi nghe thầy Ha-men giảng bài, Phrăng cảm thấy trân trọng thầy giáo của mình, cậu cũng chưa bao giờ thấy mình hiểu bài nhanh đến thế. Diễn biến tâm trạng của Phrăng trong buổi học cuối cùng đã cho ta thấy được tình yêu nước sâu sắc và mãnh liệt ở chú bé. Em vô cùng yêu mến chú bé Phrăng!
Mẫu số 7
Trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, để lại trong tôi ấn tượng nhiều hơn cả chính là chi tiết cả lớp học im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Lớp học phải tập trung lắm mới có thể im lặng. Cũng phải vì tập trung lắm, im lặng lắm nên những tiếng sột soạt trên giấy vốn nhỏ, lại được nghe thấy rõ mồn một và được miêu tả. Chi tiết cho thấy cái nhìn tinh tế của nhà văn về cuộc sống. Đồng thời cũng cho thấy sự nghiêm trang của một lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng. Sự nghiêm trang ấy thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng với người thầy đã gắn bó với họ suốt 40 năm, đồng thời cũng thể hiện tình yêu, lòng tôn kính với quê hương, Tổ quốc.
Mẫu số 8
Câu nói của thầy Ha-men đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ, bởi tiếng nói không chỉ là tài sản quý báu của dân tộc mà nó còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại độc lập, tự do.
Mẫu số 9
Buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp - pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Thầy Ha - men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giờ từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha - men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha - men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc.
Mẫu số 10
- Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp-pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường.
- Khi thầy Ha-men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng: Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giở từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha-men như thể sợ thầy có thể biến mất. Đến lúc này thì cậu đã hiểu được lý do vì sao không khí của lớp học lại khác lạ như vậy. Phrăng từ bàng hoàng, đau đớn đến xót xa.
- Khi Phrăng được gọi lên đọc bài: Cậu lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha-men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc. Nhờ có buổi học cuối cùng này mà Phrăng mới hiểu được giá trị của tiếng Pháp - đó không chỉ là tiếng mẹ đẻ mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc.
Mẫu số 11
Phrăng là nhân vật mà em rất yêu thích trong truyện Buổi học cuối cùng. Cậu hiện lên với vẻ ngây thơ, hồn nhiên và nghịch ngợm cũng giống như biết bao đứa trẻ bằng tuổi. Phrăng cũng từng định trốn học để đi chơi, chểnh mảng việc học. Để rồi đến khi phải đối mặt với sự việc xảy ra quá đột ngột buổi học cuối cùng còn được học tiếng Pháp, cậu đã cảm thấy đau đớn, xót xa. Trong suốt cả buổi học, cậu chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc. Nhờ có buổi học cuối cùng này mà cậu đãhiểu được giá trị của tiếng Pháp - đó không chỉ là tiếng mẹ đẻ mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Nhân vật này đã giúp em nhận ra được một bài học giá trị, thêm trân trọng ngôn ngữ của dân tộc.
Mẫu số 12
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em cảm thấy rất ấn tượng với chi tiết ở cuối truyện. Khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ và tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên, thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt và giọng nói nghẹn ngào như đang xúc động: “Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…”. Sau đó, thầy đã quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”. Hành động này đã thể hiện được niềm tự hào sâu sắc của một con người với ngôn ngữ của dân tộc nói riêng, với đất nước của mình nói chung. Cùng với đó là sự xót xa, đau đớn trước hoàn cảnh mất nước. Quả là chi tiết nhỏ nhưng làm nên giá trị lớn.
Mẫu số 13
Nhân vật mà em yêu thích nhất trong tác phẩm Buổi học cuối cùng chính là thầy giáo Ha-men. Bởi nhân vật này đã để lại cho em ấn tượng về một người thầy giáo có lòng yêu nghề, cũng như yêu nước vô cùng sâu sắc, chân thành. Trong buổi học cuối cùng, thầy đã ăn mặc thật trang trọng: chiếc áo rơ-đanh-gốt, màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu. Buổi học cuối cùng diễn ra với những lời giảng đầy bổ ích, những lời tâm sự của thầy với học trò đã cho thấy một trái tim giàu yêu thương, trách nhiệm và tình yêu với đất nước. Thầy giáo Ha-men chính là một tấm gương về tình yêu dành cho ngôn ngữ dân tộc, cho đất nước.
Mẫu số 14
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em rất ấn tượng với nhân vật Phrăng. Đây là nhân vật trung tâm của truyện, góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm. Phrăng là một cậu bé hồn nhiên, ngây thơ và ham chơi. Vào một buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp-pe. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Khi đến lớp học, thầy Ha-men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Từ đó, ở Phrăng đã có những thay đổi. Cậu nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giở từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha-men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha-men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc. Nhờ có buổi học cuối cùng này mà Phrăng mới hiểu được giá trị của tiếng Pháp - đó không chỉ là tiếng mẹ đẻ mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc.
Mẫu số 15
Trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, tôi cảm thấy rất ấn tượng với chi tiết cả lớp học im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Sau lời thông báo của thầy Ha-men, tất cả học sinh trong lớp đều cảm nhận được ý nghĩa thiêng liêng của buổi học cuối cùng. Ai cũng nghiêm túc học bài, ngay cả những bạn học sinh được nghịch ngợm nhất. Vì vậy mà mới có sự im lặng đến kì lạ của lớp học. Chi tiết cho thấy cái nhìn tinh tế của nhà văn. Đồng thời cũng cho thấy sự nghiêm trang của một lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng. Một chi tiết nhỏ nhưng lại thể hiện được điều giá trị.
Mẫu số 16
Khi đọc truyện “Buổi học cuối cùng”, em rất ấn tượng với hình ảnh về thầy giáo Ha-men ở buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Khác với thường ngày, buổi học hôm đó, thầy Ha-men đã mặc trang phục chỉ được mặc vào những dịp đặc biệt (những hôm có thanh tra hoặc trao phần thưởng). Đó là chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu. Điều này cho thấy thái độ trân trọng của thầy, cũng như ý nghĩa thiêng liêng của buổi học. Không chỉ về trang phục, lời nói và hành động của thầy cũng rất khác. Thầy không trách mắng Phrăng mà chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở cậu vào lớp. Thầy kiên nhẫn và nhiệt tình giảng bài như muốn truyền đạt hết kiến thức cho học sinh trong buổi học cuối cùng. Khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ, rồi đến cả tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên, thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt và giọng nói nghẹn ngào như đang xúc động. Hành động cuối cùng của thầy là quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM! đã in sâu vào tâm trí của học trò.
Mẫu số 17
Trong truyện em thích nhất là nhân vật thầy giáo Ha-men. Bởi thầy là đại diện cho tầng lớp trí thức Pháp yêu nước, yêu văn hóa và yêu nghề lúc bấy giờ. Dù hoàn cảnh lịch sử rối ren, đất nước bị chiếm đóng và bọn giặc đang muốn đồng hóa dân tộc này bằng cách dạy tiếng Đức thay vì tiếng Pháp. Chính vào khoảnh khắc này, buổi học tiếng Pháp cuối cùng ấy, người thầy giáo yêu nước ấy đã dạy cho học trò của mình bài học cuối cùng, bài học về tình yêu nước, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc với cảm xúc ngậm ngùi, đầy tiếc nuối.
Mẫu số 18
Hình ảnh thầy giáo Ha-men “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu” trong truyện “Buổi học cuối cùng” khiến cho em cực kì yêu thích và ấn tượng về một người thầy giáo có lòng yêu nghề, cũng như yêu nước vô cùng sâu sắc, chân thành.
Đây là một hình ảnh đem lại nhiều sức gợi, ám ảnh trong em: đó là một người thầy tâm huyết, kết thúc rồi nhưng vẫn còn cố gắng “dằn mạnh hết sức” thể hiện lòng yêu tiếng mẹ đẻ, yêu nước tha thiết; một người thầy đau khổ và có phần bất lực. Trong phút giây cuối cùng, thầy không nói thành lời mà đầu dựa vào tường “giơ tay ra hiệu”.
Hình ảnh thầy Ha-men thôi thúc trong em lòng yêu tiếng Việt, quý trọng các giờ học trên lớp cùng các thầy cô giáo và bồi dưỡng lòng yêu nước; thôi thúc em cố gắng học tập thật tốt, vươn cao vươn xa cùng bạn nè năm châu.
Tác giả - tác phẩm: Buổi học cuối cùng
I. Tác giả văn bản Buổi học cuối cùng
- An-phông-xơ Đô-đê (1840-1897)
- Quê quán: Pháp
- Phong cách nghệ thuật: Nhân đạo, triết lý
- Tác phẩm chính: Một thời niên thiếu, Những cuộc phiêu liêu kì diệu của Tactaranh ở Taraxcong
II. Tìm hiểu tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Thể loại: Truyện ngắn
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: một truyện ngắn trong tuyển tập truyện “ Truyện kể ngày thứ hai”
3. Phương thức biểu đạt: Tự sự
4. Người kể chuyện: Ngôi thứ nhất
5. Tóm tắt:
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng của người dân An –đát và cậu bé Phrăng. Chuyện được kể bằng chính lời kể của cậu, một cậu bé người An- đát hay nghỉ học và lười học bài về nhà. Hôm đó, vì mải chơi, không học bài nên Prăng không muốn đến trường. Cuối cùng cậu bé cũng vẫn đến lớp.
6. Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu đến “vắng mặt con”): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2 (tiếp đó đến “nhớ mãi buổi học cuối cùng này”): Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
7. Giá trị nội dung:
- Thể hiện lòng yêu nước của người dân Pháp khi đất nước có chiến tranh
- Phản ánh thực trạng đất nước Pháp thế kỉ XIX
8. Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật chân thực, phong phú
- Ngôn ngữ truyện gần gũi, chân thành
Xem thêm các bài Soạn văn lớp 7 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:
Những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản “Người đàn ông cô độc giữa rừng”.
Viết một đoạn văn trình bày ý kiến của em về tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ địa phương
Viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em trước sự việc Xi-mông đột ngột đề nghị
Quan sát người thân trong gia đình của mình qua năm tháng, em thấy họ có những thay đổi
Nêu cảm nhận của em về các câu thơ Giấy đỏ buồn không thắm / Mực đọng trong nghiên sầu