Cảm nhận bài thơ Nói với con
Đề bài: Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về nghệ thuật của bài thơ "Nói với con" (Y Phương)
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Nói với con
- Mở đoạn: Giới thiệu bài thơ “Nói với con” và đặc sắc nghệ thuật được nhà thơ Y Phương sử dụng
- Thân bài: Những đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương:
+ Bài thơ viết theo thể thơ tự do, linh hoạt trong diễn đạt mà vẫn giàu vần điệu.
+ Bài thơ mang hình thức là lời tâm tình, dặn dò của người cha với con, tạo nên giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin cậy.
+ Bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, khiến lời dặn dò, tâm tình dễ thấm, dễ thuyết phục.
+ Hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm bản sắc thơ ca miền núi.
- Kết đoạn: Cảm nhận về bài thơ.
Một số đoạn văn mẫu hay: Cảm nhận bài thơ Nói với con
Mẫu số 1
Bài thơ Nói với con có những nét đặc sắc về nghệ thuật. Đó là việc sử dụng thể thơ tự do, câu thơ duỗi dài theo mạch cảm xúc. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp 2/3, 3/2, 2/3/2,... kết hợp với cách sử dụng luật bằng trắc ở tiếng cuối mỗi câu thơ tạo nên nhịp điệu nhịp nhàng, như lời thủ thỉ, tâm tình. Ngoài ra, hình thức nghệ thuật phù hợp với nội dung. Cụ thể nội dung của bài thơ là lời nói của một người cha dân tộc với con mình. Nhà thơ đã khéo léo đan cài những từ ngữ địa phương, cho thấy sự am hiểu văn hóa và tạo nên được không khí miền ngược của tác phẩm.
Mẫu số 2
Đọc bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, ta càng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ không chỉ đến từ lời căn dặn của người cha đến con cái, mà còn ở những thành công nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, linh hoạt trong diễn đạt mà vẫn giàu vần điệu. Không những vậy, với hình thức như một lời tâm tình, dặn dò của người cha với con, tạo nên giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin cậy. ”Nói với con” là bài thơ có bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, khiến lời dặn dò, tâm tình dễ thấm, dễ thuyết phục. Hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm bản sắc thơ ca miền núi.
Mẫu số 3
Qua bài thơ “Nói với con”, chúng ta cảm nhận được những nét nghệ thuật độc đáo trong thơ của nhà thơ Y Phương, vừa mộc mạc, vừa tinh tế lạ thường. Tác giả đã dùng các kiểu câu có cấu trúc giống nhau như “Chân phải bước tới cha / Chân trái bước tới mẹ…” hay “Người đồng mình…” tạo nên lối nói riêng, nhấn mạnh cảm xúc của chủ thể trữ tình và đặc điểm của đối tượng được tái hiện. Cách nói cụ thể, hình tượng: “Một bước chạm tiếng nói / Hai bước tới tiếng cười”; “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát” là cách để nhà thơ thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ sinh động, cụ thể, giàu tính trực quan. Bài thơ còn sử dụng lối nói giản dị, mộc mạc thường nhật để nhân vật người cha thể hiện tình cảm chất phác, chân thực, chạm tới sâu thẳm trái tim người đọc, tạo nên cảm xúc thiết tha, thân thương và giàu sức gợi.
Mẫu số 4
Viết về tình cảm gia đình, quê hương và ước nguyện của cha mẹ gửi vào những thế hệ sau có nhiều tác phẩm. Có nhiều bài thơ đã trở nên quen thuộc với độc giả như "Quê Hương" Tế Hanh, của Hoàng Trung Thông. Mỗi nhà thơ luôn tìm thấy cho mình những hình thức khác nhau để diễn đạt tình cảm nguyên sơ mà chân thành ấy. Y Phương cũng góp vào đề tài này bài thơ "Nói Với Con". Bởi bài thơ đi từ tình cảm riêng là tình cảm gia đình mà nâng lên thành lẽ sống, thành tình yêu quê hương, đất nước.
11 câu thơ đầu bài thơ Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. 4 dòng thơ mở đầu mở ra khung cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc, rộn rã, đầy ắp tiếng nói, tiếng cười:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Tuổi thơ có mỗi chúng ta đầy ắp những kỉ niệm. Bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên ghi lại khoảnh khắc đầu đời của con trẻ khi còn nằm trong nôi:
"Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay"
Nếu như Chế Lan Viên trong những câu hát đưa nôi của mẹ ghi dấu ấn tuổi thơ thì Y Phương lại có một cách nói độc đáo về tuổi thơ. Đó là những bước chân chập chững non nớt đầu đời của con trẻ. Điệp ngữ "chân", "bước" lặp đi lặp lại hai lần như gợi ra những bước chân nhỏ bé non nớt đang tập những bước đi của cuộc đời. Điệp từ "tiếng" gợi âm thanh rộn rã, náo nức, vui sướng của cha mẹ. Mỗi bước đi của con trẻ có tiếng nói tiếng cười của cha mẹ. Mỗi bước đi của con trẻ có ánh mắt chăm chú dõi theo, có tình yêu thương vô bờ của cha mẹ. Và cứ thế con lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc của gia đình.
Những câu thơ tiếp theo, Y Phương gợi ra hình ảnh quê hương đẹp đẽ, thơ mộng, ân tình để làm nổi bật vẻ đẹp của con người nơi đây, đồng thời bộc lộ tình yêu, niềm tự hào về quê hương:
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Cụm từ "Người đồng mình" chỉ những người cùng sống chung một quê hương bản làng, suy rộng ra là những người sống chung trên một đất nước, lãnh thổ. Cách gọi của người cha mộc mạc, bình dị nhưng xiết bao ân tình đằm thắm, xiết bao nghĩa tình của người cha dành cho con và cho người đồng mình. Người đồng mình là những người yêu lao động, cần cù lao động họ đang lờ để đánh bắt cá dưới núi, dưới khe. Vách nhà được thưng bằng gỗ bằng tre để che chắn gió mưa bão tố đổ về. Người đồng mình đâu chỉ cần cù lao động mà còn có đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng. Với họ nan vầu, nan tre đã trở thành những nan hoa đẹp đẽ. Vách nhà đâu chỉ ken bằng gỗ mà còn bằng những câu hát then, hát lượn ngọt ngào quyến rũ của người Tày. "Nan hoa", "câu hát" đâu chỉ là hình ảnh tả thực mà còn là hình ảnh ẩn dụ, thể hiện cuộc sống tươi trẻ, tinh thần lạc quan vui sống. Nhờ đó mà họ biến cuộc sống lao động thành thơ, đẹp như thơ. Cuộc sống của người đồng mình gần gũi, chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Hình ảnh "hoa" được nhắc tới vừa là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho tâm hồn tươi trẻ phong phú tràn đầy lạc quan. Hình ảnh "con đường" cũng vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Con đường ở đây nối bản gần với bản xa, con đường lên nương, lên rẫy, con đường vào thung lấy nước. Tất cả đều in dấu chân của người đồng mình. Con đường tựa như một nhịp cầu gắn kết những con người quê hương. Tấm lòng cũng được coi là hình ảnh ẩn dụ, chính là tấm lòng của quê hương theo con đường gần, đường xa để đến với quê hương, đất nước mình. Điệp từ "cho" nhắc đi nhắc lại hai lần nhấn mạnh vẻ đẹp giàu có, hào phóng, thơ mộng, giàu yêu thương của thiên nhiên, núi rừng dành cho con và cho người đồng mình. Từ những câu thơ bình dị đó, ta thấy người cha mong con giữ gìn, trân trọng những giá trị của quê hương, gia đình, của dân tộc mình. Hai dòng thơ cuối kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ:
"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"
Ngày cưới là ngày khởi đầu của một mái ấm, của tình yêu đôi lứa. Ngày cưới là ngày gặp gỡ của những tấm lòng, của những con người quê hương. Tình cảm riêng đã hoà và tình cảm chung, tình cảm gia đình đã hòa vào tình cảm quê hương. Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh đứa con, kết thúc bằng hình ảnh cha mẹ, mở ra bằng cội nguồn gia đình, kết thúc bằng cội nguồn quê hương, gia đình và quê hương sẽ mãi mãi luôn bên nhau, nâng đỡ con trong suốt hành trình dài của cuộc đời.
Sang đến khổ thơ thứ hai Y Phương đã thể hiện lòng tự hào về quê hương và niềm mong ước của người cha, con sẽ là người kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, đất nước. Mở đầu vẫn là lời gọi ra thiết của người cha:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn"
Chỉ một chữ "thương" mà chất chứa cảm xúc yêu thương, cảm thông sâu sắc của người cha dành cho con và cho người đồng mình. Từ cảm thán "con ơi" cất lên ở cuối dòng thơ khiến dòng thơ nghẹn ngào, rưng rưng. Hai dòng thơ tiếp theo diễn tả cuộc sống thiếu thốn, nhọc nhằn, cơ cực của người đồng mình. Y Phương đã diễn tả cách nói mộc mạc của người miền núi. Nỗi buồn vốn là một khái niệm trừu tượng, nỗi buồn ấy nhiều vô hạn không thể cân đong đo đếm hết được, chỉ có thể lấy độ cao chất ngất của núi non mới có thể đo, đếm được. Người cha buồn vì đó là một cuộc sống lao động thủ công thô sơ, lạc hậu, thiếu thốn, lam lũ, vất vả và cực nhọc. Nỗi buồn của người đồng mình cao như núi nhưng ý chí và tầm vóc của người đồng mình lại không kém phần mạnh mẽ Chỉ có thể lấy cái xa ngất, rộng dài của thiên nhiên mới có thể đo được. Hai câu thơ như thành ngữ cô đọng, đối sóng nhau cùng Khắc hoạ, làm nổi bật vẻ đẹp, ý chí bản lĩnh, tâm trí sống để vượt qua gian khổ thử thách.
Câu thơ "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn" cất lên tha thiết sâu lắng, mang âm hưởng của núi rừng khiến cho lời nhắc nhở của người cha thêm sâu sắc. Hai câu thơ tiếp:
"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói"
"Đá gập ghềnh", "thung nghèo đói" vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang tính khái quát. "Đá gập ghềnh" gợi cuộc sống không bằng phẳng mà gian khổ, lam lũ cực nhọc. Điệp ngữ "không chê" cùng với kiểu câu "sống... không chê..." khiến cho âm hưởng câu thơ thêm mạnh mẽ, thiết tha, hoà vào khát vọng của người cha. Vất vả cực nhọc là thế nhưng người đồng mình vẫn sống lạc quan, không chê cuộc sống nghèo đói, vẫn thủy chung trước sau như một với quê hương. Đó cũng là lời nhắn nhủ của người cha về một lẽ sống thủy chung, ân tình, ân nghĩa, gắn bó với quê hương, đừng phũ phàng phũ phàng, đừng quay lưng ngoảnh mặt. Nhưng gắn bó với cuộc sống quê hương đói nghèo cơ cực đâu có phải là chuyện dễ dàng. Hiểu được điều đó người cha mong con hãy sống lẽ sống của "sông" và "suối":
"Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"
Nghệ thuật so sánh mang đậm âm hưởng miền núi, gợi ra một lối sống hồn nhiên, bền bỉ, mạnh mẽ, phóng khoáng, trong sáng. Chỉ Khi ấy con người mới không lo cực nhọc, không sợ gian nan dẫu đời nhiều lần ghềnh thác. Điệp từ "sống" nhắc đi nhắc lại hai lần vang lên như một lời thề, một lời quyết tâm. Thành ngữ đối sóng "lên thác, xuống ghềnh" cho thấy dù quê hương có vất vả nhọc nhằn, nỗi buồn chất cao như núi, nhưng người đồng mình không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau cắt rốn, nơi cha mẹ đã từng cày xới vun trồng và luôn biết vượt qua gian khổ bằng ý chí và nghị lực vững vàng. Gởi trong lời nói với con, người cha mong con biết chấp nhận, biết vượt qua gian lao và thử thách bằng ý chí và niềm tin, hãy thẳng lưng mà bước, hãy ngẩng đầu mà đi, đi cho "Chân cứng đá mềm".
Phẩm chất của con người quê hương được người ta ngợi ca qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục"
Họ là những con người thôn quê chân chất bình dị mà cả cuộc đời gắn bó với núi rừng. Đối lập với vẻ ngoài ấy, với vóc dáng nhỏ bé là ý chí tầm vóc mạnh mẽ, lớn lao. Ẩn chứa trong hai dòng thơ đầu là lòng tự hào của người cha về tầm vóc ý chí của người đồng mình. Cụm từ "tự đục đá kê cao quê hương" là một cách nói độc đáo, cụ thể mà khái quát, gợi lên hình ảnh những con người yêu lao động, không lùi bước trước gian khổ, tự lực, tự cường xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình. Chính họ là những người sáng tạo và lưu truyền những phong tục, tập quán, tốt đẹp riêng của dân tộc mình và lấy quê hương làm chỗ dựa cho tinh thần mình. Điệp ngữ "quê hương" nhắc đi nhắc lại hai lần nhấn mạnh niềm tự hào vô bờ bến của người cha dành cho quê hương.
Bốn câu thơ cuối bài thơ là lời nhắn nhủ chân thành về lẽ sống:
"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con"
Cụm từ "thô sơ da thịt" được lặp lại cùng với cách nói nhấn mạnh "không bao giờ nhỏ bé được" bộc lộ tha thiết niềm mong ước của người cha. Niềm mong ước ấy được đặt trong lời nhắn nhủ "Con ơi", "nghe con" khiến cho câu thơ mềm mại, giọng thơ tha thiết, ngọt ngào, tình rhow lan toả thấm vào lòng người. Điều người cha muốn nói với con ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc, có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái tim. Dẫu thô sơ da thịt nhưng đừng tầm thường về lẽ sống và tâm hồn. Hãy sống có niềm tin, có ý chí để không bao giờ gục ngã trên mỗi chặng đường dài. Làm được điều đó là con đã kế tục truyền thống của người đồng mình và quê hương.
Bài thơ viết theo thể thơ tự do phù hợp với tư duy của người miền núi, nhịp điệu thơ linh hoạt, tạo ra sự cộng hưởng với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh cô đọng, mộc mạc và vẫn phong phú.
Y Phương đã góp vào đề tài tình cha con cao quý, tình yêu quê hương sâu sắc một áng thơ hay. Bởi yêu gia đình, quê hương là tình cảm nguyên sơ nhất của con người. Quả thật:
"Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Mẫu số 5
Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… là lớp các nhà thơ đi trước. Y Phương là một trong các nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những đặc điểm riêng rất dễ nhận ra. Đó là cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ về gia đình, về quê hương, đất nước. Tuy vậy, ở mỗi nhà thơ hình thành một phong cách riêng, chẳng hạn như ở Y Phương là chất suy tư giàu trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là chất giọng lắng sâu tuy là thủ thỉ tâm tình mà đầy nội lực.
Sức thuyết phục, sự lan toả cứ hồn nhiên mà toả rạng không một chút kiểu cách, phô trương hay lí luận dài lời. Kết cấu bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn dần lên đến lúc trưởng thành đã có thể đi xa "nuôi chí lớn", vừa phát triển theo chiều ngang: đứa trẻ gắn bó trong tình thương mến của gia đình, của quê hương, còn đến lúc có thể đi xa, hình ảnh quê hương vẫn như bóng với hình trở thành một thứ hành trang tinh thần vô giá. Để tiện phân tích, chúng ta tạm thời cắt ngang bài thơ, chia làm hai đoạn.
Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó. Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm động. Trang trọng bởi lần đầu, đứa trẻ đi bằng đôi chân của mình, còn cảm động vì nó có thể yên tâm, tin cậy trong vòng tay của mẹ, của cha. Đứa trẻ ấy sinh ra trong hạnh phúc ("Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời") và lớn lên bằng sự đùm bọc, dắt dìu :
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Câu thơ tưởng như chỉ là kể, tả ra xiết bao trìu mến, thân thương. Tấm lòng của mẹ, của cha là cái đích để đứa con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên như mặt trời không bao giờ mọc từ hướng tây. Tiếng nói, tiếng cười là cái phía hướng đông rạng rỡ. Hình ảnh cụ thể mà rất giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiều dài:
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Hai thao tác tư duy không cùng trong một hệ thống, vừa ngộ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao ! Không biết đó là sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng xưa nay nói thế, và nếu đó là khẩu ngữ, một cách nói quen miệng dân gian mộc mạc thì chính dân tộc Tày của tác giả vốn dĩ đã có một hồn thơ. Câu thơ có được cái ấm áp, ríu rít, ngọt ngào, một thứ âm vang mà những người làm mẹ, làm cha ai mà không bồi hồi xao xuyến. Tuy vậy, dù tấm lòng cha mẹ có độ bao dung rộng lớn đến đâu, đứa con rất cần nhưng vẫn là chưa đủ. Ở đây có một bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện lên bằng ba yếu tố: rừng, con đường và "người đồng mình". Rừng, con đường tuy chỉ là những hiện tượng gỗ, đá vô tri nhưng cũng biết đem cho những thứ mà đứa trẻ cần để lớn:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cái đẹp của thiên nhiên, không chỉ là màu sắc, cái nhìn thấy mà còn cả "tấm lòng", một dạng thức vô hình, chỉ con người mới có thể cảm nhận được, câu thơ đã đi dần vào chiều sâu và sự khái quát. Rừng thì chở che, con đường thì mở lối, nhưng có lẽ đáng yêu hơn vẫn là con người xứ sở:
Người đồng mình yêu lắm con ơi.
Vậy cái đáng "yêu lắm" đó là cái gì nếu không phải là cốt cách tài hoa và tinh thần vui sống:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Thì ra dưới cái dáng vẻ "thô sơ da thịt", một tâm hồn lãng mạn biết bao! Mạch thơ có sự đan xen : quê hương và gia đình cùng nuôi đứa trẻ lớn lên ở chặng đường đời đầu tiên của bé. Ý thức về nguồn cội sau này là từ cả hai chung đúc lại giúp cho đứa trẻ trưởng thành đặt chân lên con đường dài, rộng hơn kế tiếp.
Phần thứ hai của bài thơ là những lời trao gửi, dặn dò khi đứa trẻ đã "cao" hơn, dặm bước cũng "xa" hơn, xa cái mái nhà yêu thương và núi rừng quê hương. Ta bắt gặp ở đây một lần nữa cái cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay:
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Chỉ có điều so với đoạn trước, câu thơ có phần nhọc nhằn hơn và do đó rắn rỏi cũng nhiều lên. Đoạn thơ biết đặt ra những vấn đề hệ trọng hơn, vấn đề lẽ sống :
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Ở đây, con người trưởng thành phải nhận ra hoàn cảnh. Những đá những thung, những thác những ghềnh là cái nghèo, cái khó bao vây. Đó là những thử thách rất khó vượt qua nhưng lại nhất thiết bằng nghị lực phải vượt qua. Biểu hiện trước hết của nghị lực là không được bi quan, than thở, rồi sau đó, nói như người Kinh "chân cứng đá mềm". Cách nghĩ ấy, cách sống ấy có cái cốt cách Việt Nam được diễn đạt bằng một giọng điệu riêng nhưng không phải là không cứng cỏi. Ba từ "sống" đặt ở đầu câu nối tiếp nhau không chỉ như một lời răn dạy thông thường. Nó thành kính thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa cho nhau, đó là vấn đề sống chết. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách làm người. Nhân cách ấy là không chịu "nhỏ bé", phải ngẩng cao đầu như "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"… Một lần nữa, quê hương hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải như thời bé thơ chỉ có an ủi, vỗ về, mà là tư thế thẳng bước mà đi, nhằm thẳng mục tiêu mà tiến.
Về nghệ thuật bài thơ, cùng với cách nói, cách sáng tạo hình ảnh (như trên đã phân tích), cần bổ sung về nhịp điệu, giọng điệu, thể loại thơ và các biện pháp tu từ. về nhịp điệu thơ lúc nhanh, lúc chậm, chậm trong kể tả, nhanh đến dồn dập thiết tha trong khát vọng làm người, khi mạch thơ chỉ còn là một mũi tên chí hướng. Đặc biệt mật độ mau thưa không đều của câu nói về "người đồng mình" như một nốt nhấn, tạo nên một tiết tấu tự nhiên phụ thuộc vào cảm xúc và ý nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại đơn phương (hình tượng đứa con không xuất hiện). Nếu ở phần đầu, sự dịu dàng, âu yếm là âm điệu chủ thì sau đó phần lí trí đã được nâng lên. Nhưng dù là ngọt ngào hay nghiêm túc thì ẩn chìm trong dó vẫn là một tiếng nói thiết tha vừa thương yêu vừa hi vọng. Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần đến sự cầu kì, đẽo gọt. Ngoài ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ (trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự đối lập giữa thể xác và tinh thần. Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu : "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau như tấm vải nhiều màu, những chiếc túi thổ cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền núi.
Mẫu số 6
Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, hình ảnh thơ chân thực cùng với nhịp thơ nhanh kết hợp với điệp cấu trúc hình ảnh: 1 bước, 2 bước. Giúp dựng lên trước mắt chúng ta bức tranh gia đình với không khí đầm ấm hòa hợp quấn quýt đầy ắp niềm vui hạnh phúc. Hình ảnh trung tâm của bức tranh ấy chính là đứa trẻ đang tập đi tập nói , từng bước chân và tiếng cười của nó đều được cha mẹ nâng niu. Viết những câu thơ này dường như Y Phương cũng đang sống với tâm thế của một người làm cha thật, với những niềm vui và hạnh phúc khi được đón chờ cô con gái đầu lòng vì vậy mà 4 câu thơ đầu ông viết thay cho lời tâm sự niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người khi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Những câu thơ chính là những lời nhắc nhở về cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên của bất cứ ai đó là gia đình.
Những con người không chỉ lớn lên trong tình yêu thương gia đình mà còn có một mái ấm lớn hơn đó là quê hương. Y Phương cũng thấu hiểu và nhắc nhớ trong ba câu thơ tiếp theo. Con người đồng mình, chính là con người quê hương, con người vùng mình những con người uống chung một dòng suối, đi chung một con đường. Ba tiếng "người đồng mình" gợi lên bao tình cảm thân thiết ruột thịt giữa những con người ở quê hương. Các bộc lộ tình cảm trực tiếp qua từ "yêu lắm" cùng với cụm từ "con ơi" tạo giọng điệu lời thơ tha thiết chan chứa tình yêu lời chân trọng người đồng mình. Trong những lời thơ, công việc của người đồng mình là những việc đan lờ bắt cá, ken vách làm nhà qua ba động từ liên tiếp: "đan, ken cài". Hai câu thơ làm sáng lên vẻ đẹp của cuộc sống tâm hồn mơ mộng lãng mạn. Nghệ thuật ẩn dụ: "cài nan hoa"; "ken câu hát" với đôi tay khéo léo của con người quê hương vót nan tre nan trúc để đan lờ được nhìn như đan hoa. Vách nhà không chỉ được đan bằng bùn đất rơm rạ mà còn được đan bằng những câu hát. Ý thơ xuất phát từ thực tế song cũng được đúc kết từ cái nhìn đầy tinh tế của Y Phương.
Thiên nhiên quê hương còn được Y Phương vẽ nên bởi hai hình ảnh: "những cánh rừng bạt ngàn và con đường dài vô tận"
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời."
Hoa vốn là biểu tượng của cái đẹp tinh thần là kết tinh của điều tinh túy mà rừng đã hào phóng mang lại cho con người những gì đẹp nhất. Hình ảnh ẩn dụ "những con đường" mở ra ý thơ thêm sâu sắc, con đường là con đường đi hằng ngày lên núi nhưng cũng là hình ảnh cho con đường đời, trên con đường ấy con sẽ nhận được biết bao sự giúp đỡ chân thành từ những người đồng mình. Như vậy, cả con người và thiên nhiên của quê hương đều xây dựng cho con tâm hồn lối sống vì vậy con phải biết trân trọng và bảo vệ quê hương. Kết thúc khổ thơ cuối, bằng giọng chân tình cha đã kể cho con nghe về ngày cưới của cha mẹ, ngày hai tâm hồn gặp nhau mang lại cho con niềm hạnh phúc, điều tốt đẹp nhất. Mạch thơ có sự đan xen tình gia đình - tình quê hương - tình gia đình cùng nuôi dưỡng chở che tạo cho con cả hình hài và tâm hồn.
Khổ thơ tiếp theo cha kể cho con nghe về phẩm chất của người đồng mình. Mở đầu bài thơ ấy là câu nói mà như thốt lên: ‘người đồng mình thương lắm con ơi’ câu thơ như điệp lại câu thơ mở đầu nhưng từ yêu chuyển thành từ thương. Chỉ một chữ "thương" nhưng diễn tả bao cảm xúc chan chứa: cha không chỉ yêu, tự hào về người đồng mình mà còn thấy thương xót cho nỗi vất vả nhọc nhằn của con người đồng mình
"Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn"
Câu thơ ngắn lại làm cho câu thơ như hai vế đối kháng khá chuẩn chỉnh cả về từ ngữ lẫn ý nghĩa. Đó là sự đối lập giữa hai hoàn cảnh sống và ý chí nghị lực kiên cường của người đồng mình. Nỗi buồn và trí lớn thuộc lĩnh vực tinh thần đã được Y Phương dùng cách nói cụ thể của người dân miền núi lấy độ cao của núi để đo vất vả gian nan, lấy tầm xa của rừng đê đo ý chí nghị lực. Hình ảnh ẩn dụ nuôi chí lớn gợi cảm giác sự dẻo dai bền bỉ ôm ấp khát vọng hoài bão quyết tâm vượt qua mọi khó khăn.
"Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói"
Cách điệp cấu trúc sống trên đá và sống trong thung ở đầu mỗi câu thơ gợi lên một cuộc sống nghèo đói vất vả lam lũ và đầy trắc trở của con người đồng mình. Điệp từ không chê tạo cho lời thơ vừa da diết đanh chắc như lời nhắc nhở con phải biết chấp nhận quê hương khó khăn thử thách, phải biết sống ân tình thủy chung với que hương đừng vì quê hương nghèo khó mà rời bỏ lãng quên. Hai câu thơ chất chứa nỗi niềm của một người làm cha cũng là nỗi niềm của một người làm lãnh đạo và là một nhà văn hóa. Lời thơ như mang hơi thở của thời đại, Y Phương đã nhấn mạnh vấn đề nhạy cảm khi ấy: nhiều người chê đá gập ghềnh chê quê hương è mọn mà rời bỏ quê hương để tìm đến một vùng đất mới. Y Phương sợ điều đó sẽ xảy ra với con mình bởi lẽ khi đã rời bỏ quê hương là rời bỏ cội nguồn. Vì vậy mà Y Phương đã hai lần dặn cho “không chê” để con khắc cốt ghi xương tình cảm đừng vì quê hương nghèo khó mà quay lưng; đừng vì quê hương gập ghềnh mà phai bạc, con phải biết trân trọng quê hương.
Mạch cảm xúc như được nối dài:
"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"
Nghệ thuật so sánh: "sống - sông, suối" cũng mang đập tư duy của người miền núi luôn gắn với sự vật hiện tượng với thiên nhiên. Sống như sông như suối thể hiện một cách sống thoáng đạt thẳng thắn hồn nhiên mộc mạc nhưng hết sức mạnh mẽ và dạt dào tình cảm của người đồng mình. Nghệ thuật ẩn dụ "lên thác xuống ghềnh" gợi lên cuộc sống dù khó khăn vất vả nhưng con phải biết chấp nhận vững vàng đối mặt không được né tránh, không sợ gian lao mà vượt lên.
Những câu thơ tiếp theo lại là những câu thơ về người đồng mình. Hình ảnh "thô sơ da thịt" là hình ảnh vừa diễn tả vẻ mộc mạc chất phác quê mùa thô kệch không hào hoa nghệ thuật trong cuộc sống. Song tương phản với sự thô sơ mộc mạc mấy lại chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con. Cụm từ "đâu con" tạo cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết ngọt ngào. Dùng cách nói phủ định "chẳng mấy ai nhỏ bé" để nói với con rằng con người quê hương mình vô cùng mạnh mẽ, cao thượng không tầm thường giàu nghị lực sống và trong sạch đầy khát vọng.
"Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"
Câu thơ không nói đến tình yêu quê hương hay sự chất phác mộc mạc mà hình ảnh người đồng mình gắn liền với công việc lao động thương ngày: đó là công việc đuc đá dựng dậu lam nương. Công việc vất vả nhọc nhằn nhưng lại là hình ảnh đặc trưng của người dân miền núi. Vì vậy chính công việc nặng nhọc ấy tạo nên truyền thống cho quê hương; người đồng mình tự hào mà nêu cao truyền thống ấy, bằng hình ảnh cụ thể kê cao quê hương người cha đã ngợi ca ý chí của con người đồng mình tự xây dựng mảnh đất nghèo khó còn quê hương trở thành điểm tựa tâm hồn cho mỗi con người đồng mình.
"con ơi tuy thô sơ....nghe con"
Âm điệu câu thơ da diết như tiếng gọi con để nhắn nhủ lời nhắn trìu mến tâm tình của người cha. Lần thứ hai hình ảnh "thô sơ da thịt" được nhắc lại nhưng nếu ở lần thứ nhất cha muốn con cảm nhận được vẻ đẹp của người đồng mình thì lần này cha muốn con phải khắc cốt ghi tâm: người quê mình chân chất mộc mạc nhưng ẩn sâu vẻ đẹp chân chất ấy lại là một lẽ sống cao đẹp vì vậy con phải giữ vững và phát huy lẽ sống cao đẹp của con người đồng mình. Câu thơ tiếp theo đột ngột thu lại còn hai tiếng "lên đường" làm cho nhịp thơ đanh hơn giống như một lời nhắc nhở con lên đường cũng chính là con đang bước vào đời. Câu thơ cuối gửi gắm tâm tình cũng là mong muốn của cha dành cho con: "không bao giờ được nhỏ bé nghe con" con phải tự tin bước trên đường đời mạnh mẽ chấp nhận khó khăn để vươn lên, không được lùi bước phải sống trong sạch cao thượng xứng đáng là con người đồng mình. Người cha lúc này giống như một người truyền lửa cho con, cha mong con sống chân thành mộc mạc không hèn mọn. Lời nhắn nhủ của cha dành cho con vừa kiên định lại vừa thiết tha "nghe con" gợi lên tiếng dặn dò với bao trìu mến thương yêu.
Bài thơ viết theo thể thơ tự do câu ngắn dài đan xen linh hoạt; âm điệu câu thơ vừa ngọt ngào vừa cứng rắn cùng với hình ảnh mang đậm nét tư duy của dân tộc miền núi. Bài thơ đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúm với lời ca ngợi truyền thống cần cù của con người quê hương. Lời thơ vừa tha thiết nhưng cũng hết sức nghiêm khắc về một lẽ sống cao đẹp. Đó là những điều gần gũi thiêng liêng vừa có ý nghĩa với muôn đời và muôn đời.
Mẫu số 7
Y Phương là một nhà thơ người dân tộc Tày với một phong cách sáng tác thơ cụ thể, chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và mang đậm lối tư duy của người dân tộc niềm núi. "Nói với con’’. Sáng tác năm 1980 in trong tập "Thơ Việt Nam năm 1945- 1985’’. Bài thơ gợi nhắc về tình cảm gia đình đầm ấm yêu thương, về vẻ đẹp tâm hồn của một người dân tộc miền núi với sức sống cần cù, mạnh mẽ và ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống còn những khó khăn gian khổ.
Trước hết là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bốn câu thơ mở ra không khí của một gia đình quấn quýt, đầm ấm, ngập tràn tình thương yêu có hình ảnh của đứa con nhỏ đang độ tuổi tập đi tập nói với hình ảnh của người cha người mẹ. Mỗi bước đi, giọng nói, tiếng cười của con đều có sự nâng niu, chăm sóc bảo bọc của cha mẹ. Cha mẹ mừng vui khi con đang khôn lớn từng ngày. Với những hình ảnh thơ mộc mạc, cụ thể, chân thực lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng. Con đang lớn dần lên từng ngày, gia đình là cái nôi ấm êm để con khôn lớn trưởng thành.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
Ba câu thơ là cuộc sống lao động cần cù chăm chỉ nhưng nên thơ của người đồng mình. Người đồng mình là người làng mình, bản mình, dân tộc mình gắn bó với cụm từ “yêu lắm con ơi” bộ lộ tình cảm yêu thương gắn bó của những người trong cùng một dân tộc. Công việc hàng ngày của những người đồng mình họ đan lờ để đánh cá ken vách để dựng nhà. Đó là những người dân quê chăm chỉ mà cần cù. Những hình ảnh “cài nan hoa. ken câu vách” là những hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Dưới bàn tay lao động của người thợ tài hoa những nan nứa,nan trúc, nan tre bỗng hóa thành những nan hoa. Vách nhà không chỉ được ken bằng những nguyên liệu bình thường như tre, nứa, gỗ mà ở đây được ken bằng những câu hát sli, hát lượn, hát then của người dân tộc mà phải chăng nó còn được ken cả bằng những bông hoa rừng thơm ngát.
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
Lời tâm tình tha thiết ngọt ngào của người cha nói với con về sự ban tặng hào phóng của rừng. Điệp từ cho kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “con đường và tấm lòng” thiên nhiên nghĩa tình thơ mộng ban tặng cho con người những gì đẹp đẽ tinh túy nhất. Đó chính là con đường lên bản, con đường xuống làng, con đường đi đến khắp mọi miền Tổ quốc. Và phải chăng đó còn là con đường xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp ấm no, còn “tấm lòng” phải chăng là tâm hồn và lối sống chân chất của người đồng mình.
Những câu thơ tiếp theo là lời cha dặn con về những phẩm chất cao quý của người đồng mình
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Người đồng mình gắn với cụm từ “thương lắm con ơi” thể hiện tình thương của những người trong cùng một dân tộc mặc dù cuộc sống còn muôn vàn khó khăn. Hai câu thơ tiếp theo đã đúc kết một phương châm sống, một thái độ sống bền gan vững chí trước những khó khăn của cuộc sống. Với lối tư duy hình ảnh cụ thể mộc mạc lấy độ cao của ngọn núi để đo nỗi buồn lấy độ dài độ xa của con đường để đo chí lớn khát vọng lời tâm tình của người cha như khẳng định giá trị cao quý của những người đồng mình.
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh”
Đặt từ “sống” ở đầu ba câu liên tiếp cùng điệp cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh thái độ sống phong cách sống. Điệp từ “không chê” cùng hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh - thung lung nghèo” gợi ra cuộc sống khó khăn của những người miền núi, cha dặn con không được chê cuộc sống ấy mà phải vững lòng trước những thử thách. Phép so sánh “sống như sông như suối” cũng góp phần chỉ phong cách của người đồng mình là sự hồn nhiên, mạnh mẽ, phóng khoáng, giản dị như cây cỏ sông suối. Dù cuộc sống có biết bao trắc trở thể hiện qua thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lời cha dặn con là phải kiên cường vượt qua không được chê vì người đồng mình rất giàu ý chí và nghị lực.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Người đồng mình gắn với cụm từ “thô sơ da thịt” chỉ cốt cách giản dị mộc mạc thật thà chất phác. Họ không hề sống tầm thường nhỏ bé mà luôn ngẩng cao đầu trước thử thách khó khăn. Người đồng mình bằng bàn tay sức lực sự cần cù đã “kê cao quê hương” với một niềm tin và khát vọng lớn lao. Họ chính là những người sáng tạo và lưu truyền mãi những phong tục của quê hương lấy đó làm chỗ dựa tinh thần.
Những câu thơ cuối cùng là lời tâm tình tha thiết của cha dành cho con.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
Hai chữ con ơi cất lên ngọt ngào ấm áp tình cha một lần nữa cụm từ “thô sơ da thịt” được nhắc lại. Lời cha dặn con lúc trưởng thành dù có đi đâu làm gì cũng không bao giờ được nhỏ bé mà phải luôn ngẩng cao đầu. Hai chữ “nghe con” khép lại bài thơ mở ra tình thương như trời biển của cha dành cho con khiến lời dặn của cha càng thêm sâu sắc và thiêng liêng.
Bằng cách nói xúc động của riêng mình bài thơ đã chạm đến trái tim của người đọc một cách sâu sắc.
Mẫu số 8
"Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều".
Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt lòng. Nghĩ về quê hương, trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen lẫn một niềm xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người nói về quê hương mình, làm thơ về quê hương nhưng quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn mang lại cho ta niềm xúc động sâu lắng.
Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất, mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh "chùm khế ngọt", "đường đi học", là "con diều biếc"... thì Y Phương đã chỉ cho con:
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng".
Đó là một vùng quê núi rừng còn chưa phát triển, nhưng con người thì vô cùng đáng quý, miền đất giàu truyền thống văn hoá và nhất là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, tấm lòng chất phác thiện lương. Những người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao đầy khí phách trong cả nỗi buồn và chí hướng (Cao đo nỗi buồn; Xa nuôi chí lớn). Quê hương trong Nói với con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung.
Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lòng mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những lời dặn dò, khuyên bảo của người cha. Đứa con trước cha, trước quê hương luôn mãi là một hình ảnh yêu thương, bé bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chờ che, dạy dỗ. Bài học của cha luôn là động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.
Dấu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con.
Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người cảm xúc về những lời căn dặn đầy thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hoàn cảnh sống có thế nào thì con người luôn phải vượt lên hoàn cảnh để mà sống. "Nỗi buồn" sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý chí sẽ rèn luyện cho con người ta luôn nỗ lực vươn tới, đi lên. "Cao đo nỗi buồn/Xa nuôi chí lớn" là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha muốn truyền cho con, giúp con luôn vững bước, đi xa hơn với những quyết định trong cuộc sống của mình và luôn giữ bên mình niềm tin vào cuộc sống, sống ở đời sẽ không tránh được nỗi buồn, người biết sống cũng phải là người luôn "nuôi chí lớn" để làm cho cuộc đời, cuộc sống một điều gì có ý nghĩa. Đó cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian nan.
"Cha" không biết nói gì hơn, người không thể thay thế cuộc đời, bước đi của con, người chỉ biết khuyên con: "Dẫu làm sao?", dẫu trên đường đời thắng lợi hay thất bại, khó khăn, vất vả thì điều quan trọng là con phải biết chấp nhận và đừng bao giờ gục ngã. Khó khăn, thử thách là nơi để rèn luyện tâm tính. Phải "sống như sông như suối" dẫu gặp "thác, ghềnh" ngăn cản vẫn trôi chảy vượt qua. Nhưng điều quan trọng nhất mà người cha dạy con là không vong bản, không quay mặt lại với mảnh đất đã nuôi mình khôn lớn. Đoạn thơ cho ta cả cảm giác về ánh mắt nheo nheo của cha nhìn con, khuyên bảo con bằng tất cả sự ân cần, vỗ về, sẵn sàng làm chỗ dựa vững chãi nhất, là vòng tay luôn dang rộng cho con khi con cần niềm động viên, an ủi.
Quê hương dẫu là vùng rừng núi hoang sơ còn nhiều gian nan, khổ cực, đói nghèo nhưng con người - "người đồng mình" đã tự khẳng định bằng sức sống, nghị lực, ý chí và niềm tin, là chân dung dũng sĩ:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
...
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Đi xa, sống ở đâu, hãy luôn là người đồng mình, xứng đáng là người đồng mình không bao giờ nhỏ bé.
Với lời thơ trong sáng, giản dị, hình ảnh thơ gần gũi quen thuộc và đặc biệt giọng thơ chắc nịch nhưng thiết tha khiến Nói với con vừa ân tình vừa nghĩa lí giúp cho ta bài học làm người không quên xứ sở, nguồn gốc. Bởi đó là nguồn sức mạnh của ta.
Mẫu số 9
Y Phương sinh năm 1948 là nhà thơ của dân tộc Tày, sống ở vùng cao tỉnh Cao Bằng. Những sáng tác của Y Phương như bức tranh thổ cẩm của miền rừng núi cao nguyên mang đậm màu sắc của tình cảm gia đình chân thành. “Nói với con” là một trong những bài thơ sáng tác năm 1980 tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả khi viết về lời nhắn nhủ chân thành của cha với con.
Những vần thơ đầu tiên của bài, tác giả đã khắc tả tình yêu của cha mẹ cùng sự chăm sóc của quê hương với đứa con.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Đứa con từ lúc lọt lòng đã được bao bọc, yêu thương trong vòng tay của cha mẹ. Từng ngày, từng giờ con lớn lên là từng ngày từng giờ cha mẹ mong chờ. Từ lúc con chập chững bước những bước đi đầu tiên trong cuộc đời thì cha mẹ luôn là người ở bên cạnh chứng kiến và cổ vũ. Hình ảnh “chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười” bình dị, gần gũi biết bao nhiêu. Một không gian ấm áp và hạnh phúc bao trùm lấy từng nhịp thơ. Hiện ra trước mắt người đọc là hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, là sợi dây gắn kết gia đình gần nhau thêm.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc nhở con về cội nguồn quê hương:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
“Người đồng mình” được nhắc lên nghe đầy thân thương trìu mến. Đó là những con người dân tộc mộc mạc, bình dị, chăm chỉ làm ăn, khéo léo trong mọi công việc. “Người đồng mình” chăm chỉ lao động nhưng cũng đầy tài hoa, khéo léo. Từ “đan”, “cài” không chỉ nói lên sự gắn bó quấn quýt mà còn nói lên nghĩa tình sâu nặng, khó có thể phai nhoà của những con người nơi đây. Tác giả đã gieo vào long người con mình tình cảm, cội nguồn đáng trân trọng và gìn giữ. Quê hương nuôi con khôn lớn, rừng cho hoa là nuôi dưỡng cho con những cái đẹp, con đường cho những tấm lòng là con đường mở lối nâng đỡ tâm hồn con, cho con cảm nhận mạch nguồn của quê hương. Con phải nhớ về cội nguồn vì nơi này nuôi con lớn không chỉ vóc dáng mà cả tâm hồn con.
Hai câu thơ:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
như nhắc con nhớ rằng, con là đoá hoa đẹp nhất nảy nở ở tình yêu của cha mẹ. Bởi vậy cha mẹ luôn yêu con, luôn thương con.
Những vần thơ tiếp theo, tác giả nêu lên những đức tính đẹp của người đồng mình và ước muốn của cha với con. Vẫn là cụm từ “ Người đồng mình” lại vang lên thân thương gần gũi. Vẫn giọng nói trầm ấm, tình cảm, người cha nói với con về những đức tính cao đẹp của người đồng mình.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn “
Họ sống cuộc sống vất vả “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn” nhưng họ vẫn là những con người rất mạnh mẽ, có chí khí, là những con người yêu quê hương tha thiết, gắn bó với quê hương mình. Chính vì tình cảm sâu nặng gắn bó với quê hương ấy mà người đồng mình đã “tự đục đá kê cao quê hương”. Họ đã làm nên quê hương với những phong tục, truyền thống tốt đẹp, bằng chính sự cần cù của mình. Người cha đã ca ngợi những con người mộc mạc, giản dị, nhưng giàu chí khí, với niềm tin mãnh liệt và ý chí mạnh mẽ. Thiên nhiên không ban tặng cho người nơi đây địa hình thuận lợi, cuộc sống tuy khó khăn nhưng người đồng mình vẫn chịu thương chịu khó, sống gắn bó, nỗ lực vượt qua tất cả.
Từ đó, cha đã nhắc nhở con phải sống có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương. Con phải biết chấp nhận, biết can đảm vượt qua gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình:
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.”
Lời cha nhắn nhủ với con tâm tình thủ thỉ mà đầy mạnh mẽ để mong con sống sao cho xứng với “ người đồng mình”. Cha còn mong con sống nhớ đến đất nước, yêu đất nước như người đồng mình yêu quê hương dân tộc:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì lầm phong tục”
Và mong ước lớn nhất của cha:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
Người đồng mình tuy nghèo đói, tuy còn lạc hậu nhưng vẫn là người đồng mình. Con cũng là một phần của nơi đây. Cha mong con khi bước đi trên con đường dài rộng không bao giờ phải nhún mình, phải sợ hãi, mà con phải mạnh mẽ, ý chí phi thường để xây dựng quê hương, xây dựng đất nước
Bài thơ “Nói với con” của Y Phương bằng giọng thơ tha thiết như lời tâm tình trò chuyện cùng thể thơ tự do phù hợp mạch cảm xúc của tác giả đã thể hiện tình yêu của cha dành cho con. Tình yêu ấy của cha bộc lộ niềm tự hào về những phẩm chất của quê hương, dân tộc mình đồng thời nhắc con sống sao cho đúng, cho xứng với người đồng mình và qua đó thể hiện những triết lý nhân sinh ở đời.
Mẫu số 10
Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" của Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiên trong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp giọng nói tiếng cười:
Chân phải….
….tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trưởng thành trong niềm yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đây có nét độc đáo riêng của người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hương sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
………..tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ: "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang tính địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưới bàn tay của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn được ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhiều gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó của quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yêu, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuộc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của con. Sung sướng nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ …
….trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
………..Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lại như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thương đó là sức mạnh để "người đồng mình" vượt qua bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hương: "không chê…không chê….không lo" dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đồng mình sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh hoạt , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía, có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
…….Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn… nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của người cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến quá.
Bài thơ có giọng điệu nhỏ nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Mẫu số 11
Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ " Nói với con" của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.
Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.
"Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng"
Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.
"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.
"Người đồng mình…
…….
không lo cực nhọc"
Điệp ngữ “người đồng mình" lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi " Yêu lắm, thương lắm, con ơi". Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả." Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh" thì cũng đừng " chê đá gập ghềnh, chê thung nghèo đói". Lạc quan " như sông, như suối". Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý chí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên răn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng.
Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục”
Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"
Đục đá kê cao là hành động thực người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát " kê cao quê hương" đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.
Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.
Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy chân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.
Mẫu số 12
Ca dao từng có câu: "Công cha như núi Thái Sơn". Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.
Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.
Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáo đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.
Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những "người đồng mình", rất cần cù và tươi vui:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".
Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi "người đồng mình" đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.
Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn".
Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn", tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục"
Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.
Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:
"Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"
Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.
Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.
Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:
"Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn - nguyện "sống như sông như suối", nguyện ngẩng cao đầu "lên đường" mà không "thô sơ da thịt". Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh "tự đục đá kê cao quê hương" thân thiết của mình.
Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.
Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.
Tác giả, tác phẩm Nói với con
I. Tác giả
- Y Phương (sinh năm 1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước
- Quê quán: Trùng Khánh- Cao Bằng , ông là người dân tộc Tày
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng
+ Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng
+ Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây quả là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì ông đã cống hiến cho nền văn học nước nhà
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”…
- Phong cách sáng tác:
+ Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này.
2. Bố cục
- Đoạn 1: Con lớn lên trong tình yêu thương, sự giúp đỡ của cha mẹ , trong cuộc sống lao động của quê hương
- Đoạn 2: Lòng tự hào về sức sống bền bỉ, manh mẽ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con sẽ kế tục những truyền thống đáng quý
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽvới quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ được làm theo thể thơ tự do phóng khoáng làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng, giọng điệu thơ trìu mến, thiết tha. Ngôn ngữ thơ cụ thể, hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo sinh động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm
Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác: