Đề bài: Phân tích tâm trạng Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại.
Dàn ý: Phân tích tâm trạng Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại.
I. Mở bài
- Giới thiệu văn bản Xúy Vân giả dại.
- Nêu khái quát nội dung cần phân tích.
II. Thân bài
1. Nêu khái quát về nhân vật, nội dung chính của lớp chèo:
- Nội dung chính của lớp chèo: những mâu thuẫn trong nội tâm của nhân vật Xúy Vân.
- Nêu khái quát về nhân vật: Nhân vật tự giới thiệu về bản thân mình trong lời xưng danh:
+ Tên là Xúy Vân.
+ Được thiên hạ đồn hát hay.
+ Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương đến nỗi điên cuồng, rồ dại.
2. Diễn biến sự việc:
- Kim Nham - một học trò nghèo từ Nam Định lên Tràng An trọ học, đựơc huyện Tể gả con gái là Xúy Vân, một cô gái nết na, thùy mị
- Trong khi chờ đợi chồng “dùi mài kinh sử” xa nhà, Xúy Vân bị Trần Phương - một gã nhà giàu nổi tiếng phong tình tán tỉnh và xui nàng giả dại để thoát khỏi Kim Nhan
- Thúy Vân giả điên, Kim Nham hết lòng chạy chữa không được đành trả tự do cho nàng. Trần Phương bội hứa, Xúy Vân đau khổ và điên thật
- Kim Nham thành đạt, được bổ làm quan. Nhận ra vợ cũ điên dại phải đi ăn xin, Kim Nham bỏ nén bạc và nắm cơm sai người đem cho, Xúy Vân nhận ra và xấu hổ nhảy xuống sông tự vẫn.
3. Nhân vật Xúy Vân:
- Nhân vật Xúy Vân được thể hiện qua các chi tiết ngôn ngữ, hành động, tâm trạng:
- Con gái của huyện Tề, đảm đang, khéo léo, được gả cho Kim Nham - một học trò nghèo
- Nghe lời xui giả điên để giải thoát khỏi Kim Nham của Trần Phương - một gã nhà giàu nổi tiếng phong tình -> bị Trần Phương bội hứa, Xúy Vân đau khổ, từ chỗ giả điên thành điên thật
- Xúy Vân đi ăn xin, Kim Nham bắt gặp bèn sai người đem nén bạc và nắm cơm cho nàng, biết được Xúy Vân xấu hổ, đau đớn, nhảy xuống sông tự vẫn.
- Tạo hình nhân vật Xuý Vân trong vở chèo Xuý Vân giả dại
4. Các đặc trưng nhân vật sân khấu chèo:
- Nghệ thuật diễn tả tâm trạng phức tạp của Xúy Vân qua lời hát: Tâm trạng phức tạp của Xuý Vân thể hiện trong mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài với nội dung tâm trạng bên trong.
- Nội dung suy nghĩ, tâm trạng bên trong: Xuý Vân hoàn toàn tỉnh táo, cô luôn day dứt, oán hận, trách móc, cảm thấy cô đơn, lạc lõng...
- Hình thức bên ngoài cô phải đóng vai một người điên, hành động và lời nói giống như người điên dại.
- Nghệ thuật diễn tả: Tác giả đan xen các lời thật, lời điên để thể hiện sự mâu thuẫn trong tâm trạng. Sử dụng các lối nói, làn điệu, vũ điệu, chỉ dẫn sân khấu khác nhau để thể hiện sự thay đổi trong tâm lý, tâm trạng nhân vật.
5. Tổng kết
- Về nội dung:
+ Đoạn trích đã khắc họa thành công hình hóa điên của nhân vật Xúy Vân qua những câu từ, lời lẽ và hành động của nhân vật giúp người đọc hình dung được hoàn cảnh và thân phận của người phụ nữ xưa cùng những thiệt thòi của họ khi sống trong xã hội nam quyền, đồng thời thể hiện niềm cảm thông đối với người phụ nữ trong xã hội xưa.
- Về nghệ thuật:
+ Thể hiện được những đặc trưng của thể loại chèo ở nhiều khía cạnh như cách xưng danh, sự tương tác giữa người xem và người diễn,...
+ Ngôn từ được thể hiện đa dạng theo nhiều cách như nói lệch, vỉa, hát quá giang, đế, điệu con gà rừng, điệu sử rầu, hát sắp, hát ngược
- Giàu tính bi kịch
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của chủ đề và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Một số bài văn mẫu: Phân tích tâm trạng Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại.
Mẫu số 1
Chèo là loại hình kịch hát dân gian có tính chất tổng hợp, phổ biến nhất ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trước đây. Chèo là sản phẩm của các tầng lớp trí thức bình dân nên dù vô thức hay hữu thức, nội dung của chèo thường đề cao mộng công danh, học hành đỗ đạt làm quan, điều mà các trí thức xưa thường theo đuổi. Vở chèo "Kim Nham" là một trong những tác phẩm nổi tiếng của sân khấu chèo. Trong đó trích đoạn "Xúy Vân giả dại" là một trích đoạn tiêu biểu mà đã được đưa vào chương trình học của học sinh trung học phổ thông. "Xúy Vân giả dại" là trích đoạn thể hiện tập trung được bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của nhân vật Xúy Vân một cách đặc sắc.
Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang và nàng lúc nào cũng mang trong mình khát khao hạnh phúc. Nhưng trong chế độ phong kiến xưa, Xúy Vân nói riêng mà những người con gái sống dưới chế độ ấy nói chung đều không có cái quyền tự định liệu cho hạnh phúc, lựa chọn cho mình tình yêu cũng như đối tượng mà mình cảm mến, mọi chuyện tình yêu, hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt theo quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Cuộc hôn nhân của Xúy Vân với Kim Nham đều do một tay của cha mẹ nàng sắp xếp, mà sự sắp đặt này cũng không hề được định liệu sẵn mà hết sức vội vàng, và điều tất yếu là giữa hai người không hề có tình yêu.
Vì luôn ấp ủ những khát khao hạnh phúc nên khi mới về nhà chồng nàng cũng muốn làm một người con dâu ngoan của bố mẹ chồng, một người vợ tốt của Kim Nham, điều này được thể hiện ra ngay lời hát múa của Xúy Vân khi giả dại, nàng múa điệu quay tơ, dệt cửi, vớt bèo, khâu vá...rất sinh động và khéo léo. Những công việc lao động mà Xúy Vân làm hàng ngày chứng tỏ cô hay lam hay làm, đảm đang khéo léo, đẹp người, đẹp nết. Là một cô gái lao động nên ước mong của Xúy Vân thật nhỏ bé, bình thường, cụ thể. Đó là một gia đình có vợ chồng đầm ấm, chồng cày vợ cấy, đến mùa lúa chín thì chồng đi gặt, vợ mang cơm:
"Chờ cho lúa chín bông vàng
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm".
Ước mơ của nàng thật bình dị và chính đáng. Nàng sẽ có một cuộc hôn nhân thật hạnh phúc nếu như người đó không phải là Kim Nham, bởi Kim Nham lại là một chàng thư sinh, hoàn toàn trái ngược lại với mong ước bình dị của nàng. Khi về làm dâu nhà Kim Nham, Xúy Vân đã vô cùng thất vọng trước ước mơ gia đình hạnh phúc, "chồng cày vợ cấy", hay "anh đi gặt...em mang cơm" với thực tại chồng mải mê đèn sách, thi cử, bỏ mặc nàng trong nỗi cô đơn, một mình thân đàn bà đảm đương những gánh nặng của gia đình. Cho nên lời hát: "Bông bông dắt, bông bông díu – xa xa lắc, xa xa líu" được lặp đi lặp lại mấy lần, đã phản ánh bằng hình ảnh cụ thể tâm trạng đó.
Nhân duyên của Kim Nham, Xúy Vân ràng buộc, gắn bó, dắt díu với nhau nhưng những ước mơ, ao ước của họ hoàn toàn khác xa nhau, vì vậy mà khó có thể dung hợp, cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể hạnh phúc. Tâm trạng ấm ức, bế tắc, cô đơn của Xúy Vân được thể hiện qua hình ảnh: "Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu – để cho năm bảy cần câu châu vào" Hình ảnh gợi bóng gió về một không gian nhỏ hẹp, và đầy bất trắc. Đó cũng chính là tình cảnh thực tại của Xúy Vân. Sau mỗi lời bộc bạch lại là điệp ngữ: "Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên" cho thấy nỗi cô đơn và khát khao hạnh phúc của nàng không thể chia sẻ được bất cứ ai, láng giềng không, mà ngay cả với cha mẹ – người yêu thương và hiểu nàng nhất thì cũng không thể thấu hiểu được nỗi lòng của nàng.
Ước mơ giản đơn nhưng không tìm được người "đồng sàng cộng chẩm" nên Xúy Vân luôn trong tâm trạng u uất, đau buồn. Và cũng trong hoàn cảnh ấy thì nàng đã gặp Trần Phương. Lần gặp gỡ này nàng tưởng đâu đã gặp được người tri kỉ, cảm thông và cũng có những tình cảm yêu mến đối với nàng. Nhưng cuộc đời thật không như là mơ, mà mọi giấc mơ thì đều sẽ tan biến Trần Phương không phải là một người đàn ông tốt. Vì sau khi lừa gạt được tình cảm dại khờ, trong sáng của Xúy Vân thì hắn ta đã xúi Xúy Vân giả điên giả dại để nhà chồng viết giấy từ hôn, khi đó thì hai người sẽ đến với nhau và có một cuộc sống hạnh phúc.
Xúy Vân rất ngây thơ, dại khờ nên tin những lời nói và những lời hứa suông của hắn ta. Để rồi ôm giấc mộng hạnh phúc, nàng đã giả điên, giả dại mong sao Kim Nham có thể bỏ mình. Nhưng Kim Nham không hề bỏ cuộc, chàng đã tìm thầy thuốc giỏi ở khắp các phương về chữa trị cho nàng. Nhưng bệnh của nàng là do cố ý, sắp xếp chứ đâu phải bệnh thận, do đó mà mọi chữa trị đều không có tác dụng gì, các thầy thuốc giỏi dù tài ba đến đâu thì cũng phải bó tay. Đến nước đường cùng Kim Nham mới phải viết giấy từ hôn với nàng. Nhưng khi đã bỏ chồng thành công thì nàng lại phải chịu sự thật nghiệt ngã, đó chính là sự dứt bỏ, phụ tình của Trần Phương. Bởi sau khi nàng bỏ chồng thì hắn ta cũng không lấy nàng như đã hứa mà vứt bỏ nàng như một thứ đồ dùng cũ kĩ.
Sự đả kích ấy quá lớn đối với Xúy Vân, vì không thể chịu đựng được nên nàng từ giả dại sang phát điên vì tình, có thể nói hoàn cảnh của người phụ nữ này vô cùng éo le, tuy đáng trách khi bỏ Kim Nham theo Trần Phương nhưng nàng cũng vô cùng đáng thương vì tin tưởng người khác một cách đầy dại khờ. Xúy Vân đã tự hát về mình: "Tôi không trăng gió nhưng gặp người gió trăng", nàng không phải người lẳng lơ, nhưng nàng lại không hề có tình yêu với chồng của mình là Kim Nham, Trần Phương là người đầu tiên nàng yêu, hơn nữa còn yêu say đắm.
Vì tình yêu ấy, nàng bất chấp vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến, những định kiến ngặt nghèo của xã hội về phẩm tiết của người phụ nữ. Xã hội ấy không chấp nhận cho người đàn bà bỏ chồng theo trai, nhưng nàng bất chấp tất cả. Nhưng cuối cùng nàng nhận được gì ngoài sự thực đau đớn, khi Trần Phương là một kẻ phụ tình. Nếu Trần Phương không phải là con người lật lọng, tráo trở mà yêu Xúy Vân thật lòng thì có lẽ nàng đã có một cuộc sống hạnh phúc bên người mình yêu, nhưng đã lỡ tin lời của kẻ phụ tình nên nàng "Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại".
Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang có tâm hồn trong sáng, và lúc nào cũng mang trong mình khát vọng của tình yêu, của hạnh phúc. Nhưng cuối cùng nàng lại chết một cách đáng thương, chỉ vì tin lời của một kẻ phụ tình mà nàng đã bất chấp mọi rào cản, thậm chí bỏ chồng để chạy theo tiếng gọi của tình yêu.Trích đoạn này thể hiện sự lên án của xã hội đối với hành động "bỏ chồng theo trai" của Xúy Vân nhưng cũng thể hiện sự đồng cảm với tình yêu tự do, trong sáng ấy của nàng.
Mẫu số 2
Vở chèo Kim Nham được bắt đầu bằng cuộc hôn nhân giữa Xuý Vân với cha nẹ Kim Nham. Cuộc gả bán vội vàng, không có tình yêu đó đã đưa đẩy Xuý Vân làm nên bi kịch của chính mình và trở thành một trong những nhân vật đào lệch đặc sắc của chèo cổ. Lấy chồng chẳng được gần chồng, thân thế nông dân lại bị gả vào gia đình chữ nghĩa, cô tự thấy mình lạc lõng, vô nghĩa trong gia đình Kim Nham, chẳng có ai bầu bạn, cũng không người chia sẻ. Tâm trạng đó được thể hiện qua câu hát của Xuý Vân “gà rừng ăn lẫn với công – Đắng cay chẳng có chịu được ức…”. Cô ví mình như con gà rừng ngu ngơ, lạc lõng, đành chịu cay đắng giữa bầy công cao sang, xa lạ.
Đang trong cảnh tù túng bế tắc đó, gặp Trần Phương là tay chơi nổi tiếng đất Đông Ngàn mà cô không biết, cô yêu hắn tưởng như túm được chiếc phao cứu đỡ cho cuộc đời. Nghe lời ngon ngọt của Trần Phương, Xuý Vân giả dại để được trả về nhà với hi vọng được sống với người mình yêu, được thoát khỏi cảnh tù túng để bay ra cuộc sống tự do. Những câu hát điên dại của Xuý Vân không phải tất cả đều là điên dại, ngược lại phần lớn nhũng câu nói và hát đó đều là những lời cay đắng tự trong tâm can cô, phản chiếu niềm khao khát mãnh liệt của một tâm hồn trẻ trung, muốn giao cảm với đời. Cô đã mượn lời nói khi điên dại, khi bóng gió để thể hiện nỗi lòng và bộc lộ tâm trạng của mình, điều mà khi tỉnh không một người phụ nữ nào trong xã hội phong kiến xưa đủ can đảm bộc lộ.
Xuý Vân vừa rối rít gọi đò “bớ đò, bớ đò”, lại vừa chán chường trong lời hát : “Tôi kêu đò, đò nọ không thưa – Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò”. Lời hát ấy bộc lộ tâm trạng tự thấy mình đã dở dang, lỡ làng. Dường như chẳng có ai đợi cô ở bên này, cũng chẳng ai đón cô ở đầu kia của bến đò. Cô bẽ bàng trong cảnh đi cũng dở, ở cũng không xong.
Thân phận của Xuý Vân làm cho ta cứ bị ám ảnh, vương vấn, day dứt khôn nguôi. Cùng với những câu hát bóng gió và nhũng lời bộc bạch, những câu hát ngược cuối đoạn trích lại là một lối bộc lộ rất khéo tâm trạng nhân vật:
“… Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây
Ở trong đình có cái khua, cúi nhôi,
Ở trong cái nón có cái kèo, cúi cột,
Ở dưới sông có cái phố bán bát,
Lẻn trên biển ta đốn gỗ làm nhà…”
Chỉ có những người điên dại mới lẫn lộn, không rõ ngược xuôi. Những câu hát ngược, hát xuôi lẫn lộn của Xuý Vân vừa thể hiện tư duy điên dại, thiếu tỉnh táo, vừa gợi hình ánh ngược đời, trớ trêu, điên đảo, đúng sai, thực giả lẫn lộn mà cô chứng kiến. Những hình ảnh ẩn dụ khi kín đáo, khi bóng bảy, khi thì được giấu giữa những tiếng cười, câu hát đicn dại tưởng như vô nghĩa, khi lại là những câu nói ngược,… tất cả làm thành một nội tâm phong phú, rối bời, đầy tính bi kịch, diễn tả tâm trạng bế tắc, mất phương hướng của cô.
Mẫu số 3
Chèo chính là một thể loại mang nhiều nét dân tộc đặc sắc của Việt Nam, là một trong những nét đẹp văn hóa được bảo tồn và phát huy. Trong những bộ chèo đặc sắc, có lẽ Xúy Vân giả dại là bộ khiến cho tác giả có nhiều cảm xúc nhất, và cũng tái hiện chân thực nhất số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Ngay từ đầu chuyện, qua những từ ngữ miêu tả, Xúy Vân xuất hiện trước mắt khán giả với vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ xưa. Kể cả trong lúc giả ngây giả dại, những điệu múa, câu thơ của nàng cũng cho người đọc thấy được, nàng chính là một người phụ nữ tài năng. Vậy tại sao một người phụ nữ sinh đẹp, tài năng như nàng lại đi đến con đường này? Có lẽ, nguyên nhân khách quan lớn nhất chính là do những đặc điểm và định kiến tại thời điểm đó vẫn quá khắt khe với người phụ nữ.
“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò”
Câu thơ này thể hiện rõ được khát khao với hạnh phúc lứa đôi của người con gái. Nhưng trong thời điểm ấy, Xúy Vân lại thể hiện sự lo lắng cho tuổi xuân của mình đang dần trôi đi bởi những ngày tháng chồng không quan tâm. Con đò ấy cứ đợi mãi, nhưng lại chẳng chờ được một người đi đò. Như người chồng cứ mải chong đèn học tập, không quan tâm đến những sự vất vả, hy sinh của nàng dành cho gia đình.
Trong những câu thơ tiếp theo, thể thơ lục bát cùng cách ngắt nhịp nhanh chóng cũng cho thấy sự gấp gáp, vội vàng hướng tới một tình yêu mù mịt. Nàng đã bị trói buộc quá lâu, đến mức chỉ thấy được tia hy vọng nhỏ, nàng vẫn cố gắng bám víu và bắt lấy nó cho mình. Nhưng hành động theo đuổi hạnh phúc đó của nàng lại trái với luân đạo của thế giới hiện tại, trái với đức hạnh của một người làm vợ trong xã hội hiện giờ. Nàng cũng tự nhận thức được lỗi lầm của mình, nhưng nàng lại không thể từ chối được tình yêu đang nảy nở trong người.
Tóm lại, nhân vật Xúy Vân tuy không làm tròn lễ tiết của một người phụ nữ, nhưng lại không đến nỗi đáng trách. Bởi nàng chỉ muốn được sống một cuộc sống hạnh phúc như bao người, mong muốn có một tình yêu giản dị mà đích thực.
Mẫu số 4
Nhân vật Xúy Vân đã được tác giả dân gian khắc họa một cách đặc sắc trong đoạn trích "Xúy Vân giả dại" của vở chèo Kim Nham, tạo nên một trong những đỉnh cao của nghệ thuật chèo cổ Việt Nam. Xúy Vân, một cô gái bị gả bán vội vàng, không có tình yêu trong cuộc hôn nhân, trở thành một bi kịch đáng thương. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng phân tích tâm trạng của nhân vật Xúy Vân để hiểu thêm về những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật này.
Xúy Vân là một nhân vật quan trọng trong vở chèo "Kim Nham". Câu chuyện xoay quanh những mâu thuẫn nội tâm của Xúy Vân, một cô gái trẻ đáng yêu và nết na. Ban đầu, Xúy Vân đứng trên vị thế cao quý khi được gả cho Kim Nham, một học trò nghèo từ Nam Định. Tuy nhiên, chờ đợi chồng "dùi mài kinh sử" xa nhà, Xúy Vân bị Trần Phương - một gã nhà giàu phong tình quyến rũ và lừa dối. Xúy Vân giả dại để thoát khỏi cuộc hôn nhân vội vàng với Kim Nham, nhưng cuối cùng lại rơi vào cảnh điên khùng thật sự.
Xúy Vân là con gái của huyện Tề, có đức hạnh và khéo léo, nhưng lại bị gả cho một người không hợp với mình. Sự mâu thuẫn trong tâm trạng của Xúy Vân được thể hiện rõ qua sự chuyển đổi từ giả điên sang điên thật. Xúy Vân phải sống như một người điên, với hành động và lời nói giống như một người dại. Tuy nhiên, bên trong cô, Xúy Vân luôn tỉnh táo và đầy day dứt, oán hận, trách móc. Cô cảm thấy mình cô đơn và lạc lõng trong một gia đình chữ nghĩa.
Tính bi kịch của nhân vật Xúy Vân được thể hiện qua nghệ thuật diễn tả tâm trạng phức tạp của cô. Trong lời hát của Xúy Vân, ta cảm nhận được sự mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung tâm trạng bên trong. Những lời thật và lời điên xen kẽ nhau, tạo nên sự đan xen và phức tạp trong suy nghĩ của Xúy Vân. Ngoài ra, sử dụng các lối nói, làn điệu, vũ điệu và chỉ dẫn sân khấu khác nhau, vở chèo "Kim Nham" thể hiện sự thay đổi trong tâm lý và tâm trạng của nhân vật Xúy Vân.
Nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc lứa đôi, nỗi buồn cô đơn của người vợ trẻ trong cảnh ngộ “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” của Xuý Vân là điều có thể cảm thông và thương cảm. Xuý Vân giả dại là khởi đầu của một sự trượt dốc để không bao lâu thân tàn ma dại trở thành hành khất, rồi bị điên, rồi tự tử. Cái kết cục bi thảm đó đã làm cho cảm hứng nhân đạo thấm sâu vai chèo, màn chèo. Cái bánh vẽ tình yêu mà Trần Phương trao cho Xuý Vân, nàng tưởng là ngọt ngào nhưng vô cùng cay đắng.Vở chèo "Kim Nham" không chỉ đơn thuần là một câu chuyện về tình yêu và bi kịch cá nhân, mà còn là một cách thể hiện sự đấu tranh, mâu thuthuẫn trong tâm trí và tâm hồn của con người. Nhân vật Xúy Vân giả dại đã trở thành biểu tượng của những người phụ nữ bị cuộc sống và xã hội đặt vào những tình huống khó khăn, và qua đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của việc hiểu và đồng cảm với họ.
Mẫu số 5
Vở chèo "Kim Nham" được đánh giá là một trong những vở chèo tiêu biểu và hay nhất của nền chèo cổ Việt Nam. Trong đó, "Xúy Vân giả dại" là trích đoạn nổi bật được khán giả vô cùng yêu thích. Những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật Xúy Vân đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đặc sắc qua đoạn trích.
Trước khi đi sâu vào phân tích tâm trạng nhân vật, ta cần làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành động giả dại của Xúy Vân. Điều này bắt nguồn từ việc sau khi kết duyên với Kim Nham, nàng luôn phải sống trong cảnh đơn côi, xa chồng. Trong khoảng thời gian chờ Kim Nham trở về, Xúy Vân gặp được Trần Phương và bị hắn tán tỉnh, dụ dỗ. Trước những lời ngon ngọt, Xúy Vân xiêu lòng, giả điên để được chồng trả lại tự do và đi theo nhân tình. Đoạn trích "Xúy Vân giả dại" chính là cảnh nàng dựng lên màn kịch điên loạn nhằm che mắt chồng.
Trong lời xưng danh, Xúy Vân tự giới thiệu rằng:
"Chẳng giấu gì Xúy Vân là tôi,
Tuy dại dột, tài cao vô giá,
Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ,
Ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân.
Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,
Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại".
Chỉ một đoạn nhỏ, nhưng người đọc, người xem đã biết được tên tuổi, tài năng của nhân vật. Xúy Vân nhận thấy mình tuy dại dột song tài cao, được thiên hạ đồn thổi có tài hát hay. Không những vậy, trong lời giới thiệu, nàng thừa nhận bản thân "Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,/ Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại.". Qua đoạn trích trên, ta phần nào hiểu được tính cách, tình cảnh của nhân vật.
Rõ ràng, trong toàn bộ trích đoạn, ngôn ngữ, hành động của nhân vật đều bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm. Trước hết, đó là tâm trạng đau đớn, tủi hổ, tự cảm thấy bơ vơ, lỡ làng trong chuyện tình cảm. Nàng đau khổ tới mức phải kêu lên và than vãn cùng ông Tơ, bà Nguyệt. Nàng đứng gọi đò mà tiếng gọi cứ ngân vang, không ai đáp lại "Tôi kêu đò, đò nọ không thưa". Càng chờ đợi, nhân vật càng rơi vào tuyệt vọng, "càng trưa chuyến đò", buộc nàng phải nhún mình, chiều theo ý người khác:
"Nên tôi phải lụy đò,
Cách con sông nên tôi phải lụy đò,
Bởi ông trời tối, phải lụy cô bán hàng."
Nó cho thấy tình cảnh đáng thương mà nàng phải chịu. Vì số phận đưa đẩy nên nàng buộc lòng phải theo. Tuy nhiên, ngay cả khi chấp nhận rồi thì hạnh phúc cũng không được như mong muốn. Do vậy, nàng đã đi đến quyết định chia li
"Chả nên gia thất thì về,
Ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười.".
Xúy Vân đi từ đau khổ sang bẽ bàng, xấu hổ. Nàng cầu xin mọi người thông cảm bởi bản thân không hề lẳng lơ, phóng đãng, chỉ vì gặp phải người trăng hoa nên mới không giữ nổi mình "Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười/ Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng.". Nhận thức được hành động sai trái ấy, nàng khuyên mọi người phải phải giữ gìn đạo đức: "Gió trăng thời mặc gió trăng,/ Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên". Nàng nhắn nhủ mọi người nhưng cũng là nhắc nhở đến bản thân.
Không những thế, Xúy Vân còn bộc lộ nỗi niềm đắng cay, bực tức của mình trong điệu hát con gà rừng. Nàng nhận mình là con gà rừng ngu ngơ, ăn lẫn với đám "công" cao xa, đẹp đẽ. Xúy Vân dùng hình tượng "con gà", "con công" để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng. Xét cả về địa vị xã hội lẫn vai trò trong gia đình, nàng nhận thấy bản thân thấp kém hơn so với Kim Nham. Đến nỗi, phải thốt lên rằng: "Đắng cay chẳng có chịu được, ức!". Câu hỏi tu từ "Mà để láng giềng ai hay?" đã tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của nàng. Xúy Vân không thể chia sẻ nỗi khổ với bất kì ai. Đặc biệt, điệp ngữ "Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên" càng nhấn mạnh nỗi bực tức, uất ức của nàng trước sự sắp đặt của mẹ cha.
Dù cuộc sống có bất hạnh nhưng nàng chưa bao giờ ngừng ước mơ, khát vọng về một cuộc sống gia đình hạnh phúc:
"Chờ cho bông lúa chín vàng,
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm."
Nàng mong chờ cho đến khi cây lúa vàng rực trên khắp cánh đồng để chồng đi gặt, còn vợ mang cơm. Rõ ràng, Xúy Vân cũng muốn làm một người dâu hiền, vợ thảo. Điều này, được thể hiện qua hành động múa điệu bắt nhện, xe tơ, dệt cửi đầy sinh động, khéo léo. Tuy nhiên, cuộc sống bình dị, giản đơn ấy lại chỉ là ước mơ xa vời.
Lối ngâm nga, chậm rãi trong đoạn nói điệu sử rầu, hát sắp đã diễn tả tâm trạng ấm ức. Nàng thương người tình đến mất ngủ rồi ví phận mình như: "Con cá rô nằm vũng chân trâu/ Để cho năm bảy cần câu châu vào!". Cái không gian chật hẹp, tù túng, luôn ẩn chứa nhiều bất trắc rủi ro làm nàng cảm thấy bất an. Tác động từ bên ngoài làm nàng cảm thấy bị hành hạ, khổ sở, không còn tự do.
Cuối cùng, sự đau khổ lên đến tột cùng khiến nàng không giữ nổi tỉnh táo mà phát điên. Đoạn hát ngược khắc họa vô cùng chân thật, sinh động tâm trạng điên loạn của nhân vật:
"Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,
Một đàn các cô con gái lội sông té bèo.
[...] Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!"
Những hình ảnh, sự vật được liên hệ một cách bất thường, không hợp lí. Chỉ có người dở điên dở dại mới không phân biệt được ngược, xuôi. Câu nói vô nghĩa kết hợp với hành động vừa đi, vừa cười điên dại càng làm nổi bật tâm trạng rối bời, tuyệt vọng, mất phương hướng.
Theo dõi toàn bộ văn bản, Xúy Vân vừa đáng thương, vừa đáng trách. Đáng thương bởi nàng rơi vào cuộc hôn nhân sắp đặt, không tình yêu. Đáng trách vì nàng không biết giữ phẩm hạnh. Như vậy, qua đoạn trích, tác giả dân gian muốn đề cao sự chung thủy trong mối quan hệ vợ chồng. Đồng thời, bộc lộ sự cảm thông đối với thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Khát vọng hạnh phúc của Xúy Vân là chính đáng nhưng lại không thể thực hiện ở thời kì đề cao nam quyền. Hiểu và thông cảm cho nhân vật, ta nhận ra được nội dung, ý nghĩa sâu sắc, nhân văn của đoạn trích.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT
TOP 10 Bài văn Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (2024) HAY NHẤT