TOP 10 Đoạn văn phân tích nỗi nhớ thương cha mẹ và Kim Trọng của Kiều (2024) SIÊU HAY

Dưới đây là TOP 10 Đoạn văn phân tích nỗi nhớ thương cha mẹ và Kim Trọng của Kiều hay nhất hướng dẫn chi tiết, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh, giúp cải thiện khả năng viết văn của các em. Mời các em tham khảo:

Đề bài: Đoạn văn phân tích nỗi nhớ thương cha mẹ và Kim Trọng của Kiều.

Dàn ý:Phân tích nỗi nhớ thương cha mẹ và Kim Trọng của Kiều.

 Dàn Ý  Viết Đoạn Văn Phân Tích Nỗi Nhớ Cha Mẹ Của Thúy Kiều

Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích.

1. Mở đoạnGiới thiệu về tác giả, đoạn trích và vấn đề cần phân tích: Nỗi nhớ cha mẹ của Thúy Kiều.
2. Thân đoạn- Thúy Kiều lo lắng, xót xa nghĩ đến cảnh cha mẹ già "tựa cửa hôm mai" mong ngóng tin con.
- Tự trách vì không làm tròn chữ hiếu, không thể phụng dưỡng cha mẹ khi về già.
- Chỉ một từ "xót" thôi đã diễn tả trọn vẹn tấm lòng hiếu thảo của nàng dành cho đấng sinh thành.
- Điển cố về Sân Lai, gốc tử và các thành ngữ "rày trông mai chờ", "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" thể hiện sống động tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.- Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp với những thành ngữ, điển tích, điển cố.
3. Kết đoạnCảm nhận chung

Một số bài văn mẫu: Phân tích nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều
 

Đoạn văn mẫu số 1

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã thể hiện được hoàn cảnh éo le, ngang trái của Thúy Kiều, qua đó bộc lộ tâm trạng buồn thương, đau đớn và cả những vẻ đẹp đáng trân trọng ở nàng. Bị đẩy vào tình cảnh đáng thương, thế nhưng trong tận cùng của nỗi đau, nàng vẫn dành những tình cảm ấm áp, chân thành nhất dành cho những người thương yêu của mình. Đó là nỗi nhớ Kim Trọng, nỗi nhớ cha mẹ. Ở nơi "chân trời góc bể bơ vơ", nàng nhớ về gia đình. Động từ "xót" kết hợp với câu hỏi tu từ "Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?" đã thể hiện sự lo lắng, xót thương và tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Nàng tự trách vì không thể ở bên cha mẹ những khi thời tiết thay đổi, rồi ai sẽ quạt cho cha mẹ khi trời nóng bức, ai sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời chuyển lạnh? Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc kết hợp với bút pháp tả cảnh ngụ tình đã thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.Tài liệu VietJack

Đoạn văn mẫu số 2

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" thuộc phần "Gia biến và lưu lạc". Đoạn trích viết về cảnh ngộ đáng thương và tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi bị Tú Bà "giam lỏng" ở lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh rộng lớn nhưng vắng vẻ, rợn ngợp nơi này, Thúy Kiều đã nhớ về Kim Trọng, về cha mẹ. Nàng xót xa, tự trách vì không làm tròn chữ hiếu, không thể phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Chỉ một từ "xót" thôi đã diễn tả trọn vẹn tấm lòng hiếu thảo của nàng dành cho đấng sinh thành. Thúy Kiều lo lắng, xót xa nghĩ đến cảnh cha mẹ già "tựa cửa hôm mai" mong ngóng tin con. Nàng tự trách vì không ở bên chăm sóc cha mẹ khi thời tiết thay đổi. Thông qua sử dụng điển tích, điển cố về Sân Lai, gốc tử và các thành ngữ "rày trông mai chờ", "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa", đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện sống động nỗi nhớ và những tâm trạng phức tạp của nàng Kiều với cha mẹ, đó là nỗi lo lắng, tấm lòng hiếu thảo của một người con. Bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp với ngôn ngữ độc thoại nội tâm được sử dụng trong bốn câu thơ đã thành công tâm trạng buồn thương và nỗi nhớ mong của Thúy Kiều.

 

Đoạn văn mẫu số 3

Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên bức tranh tâm cảnh sống động nhưng cũng rất đỗi xót xa của Thúy Kiều. Trong đoạn trích, có bốn câu thơ nói về nỗi nhớ gia đình, cha mẹ và tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều."Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"Ở lầu Ngưng Bích quạnh vắng, Thúy Kiều đã nhớ về cha mẹ, lo lắng cho bậc sinh thành ngày ngày ngóng đợi tin con: "Xót người tựa cửa hôm mai". Dù đã quyết định bán đi tự do, hạnh phúc của mình để cứu gia đình khỏi cơn gia biến, thế nhưng Thúy Kiều vẫn luôn tự trách vì chưa làm tròn đạo của người làm con. Nàng lo lắng cho cha mẹ tuổi "xế chiều", không có ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ "Quạt nồng ấp lạnh" điển cổ " sân lai" " gốc tử" được sử dụng để làm nổi bật tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều, đồng thời giúp lời thơ trở nên tha thiết, thiêng liêng hơn. Trong cảnh ngộ đáng thương nhất, Thúy Kiều vẫn hướng nỗi nhớ, sự lo lắng, quan tâm đến người yêu và cha mẹ. Điều này đã thể hiện đức tính thủy chung, hiếu thảo của nàng.

 Dàn Ý Đoạn Văn Phân Tích Nỗi Nhớ Người Yêu Của Thúy Kiều

Trong Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

1. Mở đoạnGiới thiệu tác giả, đoạn trích và nỗi nhớ người yêu của Thúy Kiều.

2. Thân đoạn

* Xót xa, đau đớn khi nhớ về Kim Trọng:- Thúy Kiều nhớ về đêm thề nguyền dưới trăng, nàng đã cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền và hẹn ước trăm năm.
- Xót xa khi nghĩ đến Kim Trọng vẫn một lòng mong nhớ, chờ đợi trong vô vọng.

* Thương cho phận mình:- Tính từ "bơ vơ" đã diễn tả nỗi cô đơn, trống vắng của nàng nơi đất khách.
- Động từ "gột rửa" thể hiện nỗi mặc cảm, tủi nhục của nàng.
- Nàng thương nhớ tình nhân, tự trách vì đã bội ước, mặc cảm vì tấm thân đã nhuộm màu sương gió "Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai".

3. Kết đoạn: Nêu cảm nhận chung

Một số bài văn mẫu: Phân tích nỗi nhớ người yêu của Kiều.

Đoạn văn mẫu số 1

"Kiều ở lầu Ngưng Bích" đoạn trích thể hiện nỗi cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Trong cảnh giam hãm, mất tự do, Thúy Kiều đã nhớ về Kim Trọng. Nàng nhớ về đêm thề nguyền dưới trăng, nàng đã cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền và hẹn ước trăm năm. Nhớ về những ngày tháng tươi đẹp ấy càng khiến nàng xót xa, đau đớn khi đã phản bội lời ước. Thúy Kiều tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng vẫn đang mong nhớ trong vô vọng "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng" mà cảm thấy xót xa, đau đớn. Nhớ thương Kim Trọng, Thúy Kiều chua xót nghĩ đến thân phận hẩm hiu của mình. Nơi "chân trời góc bể" rộng lớn, mênh mông nhưng nàng lại chẳng thể tìm thấy được chốn bình yên cho tâm hồn, chỉ có thể "bơ vơ", đơn độc như người lữ khách không nhà. Động từ "gột rửa" thể hiện nỗi mặc cảm, tủi nhục của nàng. Tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng vẫn vẹn nguyên, thế nhưng tấm lòng thủy chung của nàng đã chẳng thể giữ, "tấm thân" của nàng cũng nhuốm phong trần, sóng gió nào có thể rửa sạch? Đọc bốn câu thơ viết về nỗi nhớ của Thúy Kiều với người yêu, ta cảm nhận được tâm trạng cô đơn, đau khổ cùng nỗi nhớ, nỗi day dứt khôn nguôi trong lòng nàng.

 

Đoạn văn mẫu số 2

Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", tác giả Nguyễn Du đã dựng lên bức tranh tâm trạng đầy đau đớn, xót xa của nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi và nỗi nhớ dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Nàng nhớ về Kim Trọng, người đã cùng nàng " thề nguyền dưới trăng", thế nhưng những kí ước tươi đẹp ùa về lại làm cho nàng thêm đau khổ, day dứt. Thúy Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim vẫn ngày đêm mong ngóng tin tức của mình trong vô vọng. Nàng tự trách vì đã bội ước, bội bạc với chàng Kim. Lời thề nguyền vẫn còn đó, tình yêu đôi lứa vẫn đong đầy trong trái tim nàng nhưng sóng gió ập đến, đường đời chia hai ngả. Nàng nghĩ về phận đời hẩm hiu của mình và cuộc sống "chân trời góc bể bơ vơ". Thành ngữ biến thể "bên trời góc bể" không chỉ gợi không gian rộng lớn nơi xứ người mà còn diễn tả cảm giác lạc lõng, cô đơn của Thúy Kiều. Nàng thấm thía nỗi đau của bản thân, nàng cũng hiểu được cái éo le, trắc trở của hoàn cảnh đang vây hãm mình. Nàng cũng hiểu rằng "tấm thân" đã chẳng thể gột rửa, tấm lòng son sắt, thủy chung với chàng Kim cũng chẳng thể vẹn nguyên như ban đầu. Bốn câu thơ nói về nỗi nhớ của Thúy Kiều với người yêu không chỉ thể hiện tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của nàng mà qua đó còn thể hiện nỗi đồng cảm, xót thương của đại thi hào với người con gái tài sắc.

Đoạn văn mẫu số 3

"Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn trích thể hiện rõ nhất tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa, Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Ở đây, trong nỗi đau đớn, tủi hờn, nàng đã nhớ về Kim Trọng- mối tình đầu đẹp của nàng."Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai"Kim Trọng và Thúy Kiều từng thề nguyền, hẹn ước trăm năm dưới ánh trăng. Thế nhưng, biến cố bất ngờ ập đến, để làm tròn chữ hiếu, Thúy Kiều đành trao lại mối tình dang dở với chàng Kim cho Thúy Vân. Dù đã quyết định từ bỏ mối lương duyên với chàng Kim để làm tròn bổn phận của người con nhưng Thúy Kiều vẫn luôn thương nhớ, day dứt tự trách vì đã phụ tình chàng Kim. Ở lầu Ngưng Bích, nàng đã xót xa khi nghĩ đến Kim Trọng vẫn một lòng mong nhớ, chờ đợi trong vô vọng mà không biết rằng người con gái cùng chàng "kết tóc" năm nào đã chẳng thể quay lại được nữa. Tính từ "bơ vơ" đã diễn tả nỗi cô đơn, trống vắng của nàng nơi đất khách. Qua dòng suy nghĩ của Thúy Kiều, ta cảm nhận được nỗi đau đớn đến tột cùng. Nàng thương nhớ tình nhân, tự trách vì đã bội ước, mặc cảm vì tấm thân đã nhuộm màu sương gió "Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai". Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện đầy xót xa tâm trạng thương nhớ, tự trách của Thúy Kiều khi nhớ về người yêu.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

TOP 10 Đoạn văn phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Đoạn văn cảm nhận về chị em Thúy Kiều (SIÊU HAY)

TOP 10 Đoạn văn nêu cảm nhận về thân phận của người phụ nữ xưa qua nhân vật Vũ Nương (2024) SIÊU HAY

TOP 10 Đoạn văn cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài kiều ở lầu ngưng bích (2024) SIÊU HAY

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!