Đề bài: Phân tích đi thi tự vịnh.
Mẫu số 1
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và Cao Bá Quát (1808-1855) là hai nhà thơ lớn nhất trên thi đàn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 19. Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế, lập nên bao công nghiệp hiển hách, khi về trí sĩ đã sống một đời tài tử thanh cao:
“Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”
(Chí anh hùng)
Ông để lại một số bài thơ chữ Hán, trên 50 bài thơ Nôm, trên 60 bài hát nói và bài phú “Hàn nho phong vị phú” bằng chữ Nôm. Thơ văn Nguyễn Công Trứ “ý tứ mạnh mẽ, từ điệu rắn rỏi, khiến cho người đọc cũng thấy phấn khởi, hăng hái lên” (Dương Quảng Hàm).
Thời trai trẻ, chật vật trong cảnh nghèo, lận đận mãi trong thi cử, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở công danh sự nghiệp, mãi đến năm 41 tuổi mới đỗ giải nguyên. “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ ứng tác được Nguyễn Công Trứ viết vào thuở hàn vi, trước lúc bước vào khoa thi Hương trường Nghệ An.
“Đi thi tự vịnh” là một trong nhiều bài thơ nói về chí nam nhi và niềm hăm hở lập công danh của Nguyễn Công Trứ.
Hai câu đề thể hiện một quyết tâm, một niềm tin của kẻ sĩ trước lúc bước vào hội công danh, đua tài:
“Đi không há lẽ trở về không,
Cái nợ cầm thư phải trả xong.”
“Đi không” - lúc lên đường ứng thí, “không” công danh. Vào trường thi chỉ có một văn tài, một bản lĩnh đua tranh, như cá chép vượt Vũ Môn, tác giả tự tin khẳng định: “há lẽ trở về không”. Chữ “không” thứ 2 là không công danh, không sự nghiệp. Chữ “không” thứ 7 là trắng tay, chẳng đỗ đạt gì! Hai chữ “há lẽ” vang lên như một thách thức. “Nợ cầm thư” là nợ đàn sách của sĩ tử ngày xưa. Nợ cầm thư cũng như nợ bút nghiên, nợ đèn sách. “Cầm thư ” đã trở thành “cái nợ”, vì thế có nghĩa vụ phải trả, phải hoàn thành xong xuôi, sòng phẳng. Tiếng “cái” trong “cái nợ cầm thư” nói lên sức nặng, cái giá ghê gớm của nợ đèn sách, nợ công danh. Câu thơ thứ 2 “Cái nợ cầm thư phải trả xong” với 4 thanh trắc (cái, nợ, phải, trả) làm cho thanh điệu của câu thơ trĩu xuống, 3 thanh bằng (cầm, thư, xong) đã nâng giọng điệu câu thơ lên thanh thoát, nhẹ nhàng. Câu thơ biểu lộ một sự đĩnh đạc, hào hùng và phơi phới. Đó là sĩ khí của tác giả trước khi bước vào cuộc đọ trí đua tài. Một sĩ tử có tài năng đích thực mới có sự thách thức và niềm tin mạnh mẽ như vậy.
Hai câu trong phần thực, 4 tiếng Hán Việt: điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng - được đặt trong thế đối xứng hài hòa, ý thơ trở nên trang trọng. Thời trai trẻ, Nguyễn Công Trứ đã mấy phen nếm cay đắng trong chốn trường thi. “thi không ăn ớt thế mà cay”. (Tú Xương). Có lẽ vì thế đã có lúc, tác giả “Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt”, lấy ruộng vườn vui với năm tháng. Nhưng đã trót, đã “Dở đem thân thế hẹn tang bồng” – Tang bồng là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng, tượng trưng cho chí lớn, sức mạnh vẫy vùng, tung hoành khắp thiên hạ, ôm hoài bão giúp nước, cứu đời. Ở trên đã nói đến “nợ cầm thư”, ở dưới lại nói “tang bồng”, tính hệ thống của ngôn ngữ đã làm hiện lên một tâm thế rất đẹp của một kẻ sĩ mang chí nam nhi, mang nợ tang bồng muốn thi thố tài năng với đời. Trong thơ, Nguyễn Công Trứ nhiều lần nhắc đến nợ cầm thư, chí tang bồng, chí nam nhi với tất cả niềm tự hào và niềm vui phơi phới:
- “Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung, hiếu, chữ quân thân gánh vác.
Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong,
Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ...”
(Nợ tang bồng)
- “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả, giả vay,
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể...”
(Chí anh hùng)
Mở rộng ý thơ nói về nợ tang bồng, nợ cầm thư ở hai phần trước, Nguyễn Công Trứ nói lên một lẽ sống đẹp, một mục đích sống cao cả trong phần luận. Đã hai thế kỉ nay, câu thơ của Nguyễn Công Trứ được mến mộ, được truyền tụng như một châm ngôn về hoài bão công danh:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”
Với kẻ sĩ đi thi, “phải có danh” trước hết là đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng bia đá, được vinh quy bái tổ “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. “Phải có danh gì với núi sông” là có tài năng đích thực, giúp vua, giúp nước, cứu đời, cứu dân. Có danh là có tài kinh bang tế thế, trị loạn, an dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Kẻ tầm thường không có danh mà chỉ có lợi. Kẻ sĩ chân chính, có tài năng, có lẽ sống, có hoài bão trang trải nợ cầm thư, nợ tang bồng... mới có danh tiếng, danh vọng, để lại tiếng thơm cho đời, lưu danh trong sử sách, làm rạng rỡ mẹ cha, dòng họ và quê hương. Trong xã hội phong kiến, có đi thi đỗ đạt, đỗ cử nhân, tiến sĩ mới được ra làm quan để giúp nước, cứu đời, để “có danh” với thiên hạ:
“Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh”
(Chí anh hùng)
Với Nguyễn CôngTrứ, công danh luôn luôn gắn liền với đạo làm con, đạo làm tôi: “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái – Cái công danh là cái nợ nần – Nặng nề thay hai chữ: quân thân - Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ! ” (Trên vì nước, dưới vì nhà). Với Nguyễn Công Trứ, người quân tử, đấng trượng phu, trang nam nhi là phải “có danh”, bởi lẽ:
“Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn...
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông...
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thời nát với cỏ cây...”
Nguyễn Công Trứ là một tài năng đích thực: “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông - ... Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng – Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên...”
Chính ông đã di dân, khẩn hoang, lập ra 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Như vậy, Nguyễn Công Trứ là một con người có công danh: ông đã sống một đời sống phong phú, mãnh liệt như câu thơ ông đã viết. Chẳng thế mà năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược nước ta, đánh vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lúc bấy giờ Nguyễn Công Trứ đã 80 tuổi vẫn xin vua Tự Đức cho cầm quân ra trận đánh giặc. Mặc dù chữ “danh” trong quan niệm của Nguyễn Công Trứ mang ý thức hệ phong kiến nhưng khá tích cực, còn có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta trong việc nỗ lực học tập thành tài để phục vụ sự nghiệp đổi mới, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai câu kết thể hiện khẩu khí của một con người giàu tài năng, rất tự tin, luôn luôn hướng về phía trước với tất cả tinh thần lạc quan mà lý tưởng cuộc đời đã lựa chọn:
“Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng”
Câu cuối có văn bản khác ghi là: “Rồi ra mới tỏ mặt anh hùng”. Có lẽ chữ “tỏ” đúng hơn, hay hơn. “Tỏ” là sáng tỏ, là hiện lên rõ ràng. Chữ “tỏ” mới thể hiện được niềm tự hào của con người “đi thi tự vịnh”. Hai chữ “ai” dùng rất thần tình. “Trần ai” là bụi bậm, chỉ cuộc đời gian nan khổ sở. Chữ “ai” trong “ai dễ biết” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, là các sĩ tử đang cùng tác giả vác lều chõng đi thi, là mọi người trong thiên hạ. Câu thơ ẩn chứa một sự thách thức, đua tài. Xưa nay, đã mấy ai trước lúc đi thi dám nói bằng cái giọng điệu như nhà thơ Nguyễn Công Trứ?
Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ thời hàn vi, lều chõng. Bài thơ cho ta thấy một con người có tài năng, giàu chí khí,có lí tưởng và hoài bão đẹp về công danh, tự tin và lạc quan trong học tập và thi cử. Con người ấy đáng để ta học tập.
Thi cử là chuyện muôn đời của sĩ tử, của học trò. Có thi là có đỗ, có hỏng. Có nhà thơ “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy!” (Tú Xương). Có cụ Tam nguyên Yên Đổ: “Cưỡi đầu người kể đã ba phen” (Di chúc)
Bài thơ hay ở giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng: hay ở cách dùng từ. Có chữ thuần Nôm bình dị: há lẽ, rắp, dở, ai dễ biết, rồi ra... Có từ Hán Việt gợi tả sự trang trọng, tự hào: cầm thư, điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng, danh, trần ai, anh hùng,..
Đối với học sinh chúng ta, sức hấp dẫn của bài thơ là ở 2 câu trong phần luận, đó là 2 câu thơ tuyệt cú sáng bừng lên như một câu danh ngôn:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”
“Núi sông” là đất nước, ngày nay là Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần có nhiều tài năng lỗi lạc “có danh” và làm nên sự nghiệp lớn “đào núi và lấp biển” như Bác Hồ đã dạy thanh niên.
Mẫu số 2
Nguyễn Công Trứ người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra vào thời điểm đất nước có nhiều biến động, thăng trầm. Ông là người có tài có đức, là vị quan hết lòng vì dân vì nước. Ông để lại cho đời rất nhiều bài thơ Nôm và hát nói cũng như phú. Thơ ông có nhiều chủ đề khác nhau, đặc biệt là nói về chí nam nhi, nợ công danh. Bài thơ Đi thi tự vịnh dưới đây là một:
"Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng.
Chúng ta phân tích bài thơ trên."
Nguyễn Công Trứ đã dùng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật để thể hiện nỗi niềm tâm trạng của mình, theo nhà thơ chí làm trai là phải đỗ đạt để trả cái nợ sách đèn, đem kiến thức học được mà làm những việc tốt giúp ích cho đời, để lại tiếng tốt với núi sông. Nhan đề bài thơ Đi thi tự vịnh, tác giả nêu lên ý chí của mình khi lều chõng lên đường đi ứng thí. Bài thơ mở đầu:
"Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong"
Chí làm trai đã được nhiều nhà thơ nhắc đến, mỗi người có cách nói riêng, nhưng đều có muốn nhắc nhở phận nam nhi rằng đã làm trai là phải làm được việc lớn, có ích với đời với dân với nước, là phải ngang dọc trời đất
"Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."
Trong cuộc đời của mình Nguyễn Công Trứ đã làm được nhiều điều có ích với dân với nước. Ông đã từng làm quan, đi đánh giặc, làm doanh điền sứ mở rộng đất đai trồng trọt. Ông là người nói được và làm được, những gì ông để lại vời đời đều được người đời trân trọng, gìn giữ. Những gì ông khẳng định là những gì ông làm được và điều này những một lời răn dạy cho thế hệ đi sau:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông."
Nam nhi là người phải ngang dọc trời đất có một tầm hoạt động rộng rãi ở trong trời đất cho nên phải có tiếng tốt đối với núi sông. Danh mà tác giả đề cập ở đây là công danh, là tiếng thơm, tiếng tốt, tên tuổi của một con người gắn liền với thời đại. Có lần ông nói: Không công danh thà nát với cỏ cây. Trong một bài thơ nói về quan niệm sống của người con trai, tác giả từng khẳng định: Con người sinh ra sau cùng ai cũng phải chết nhưng phải được lưu tiếng thơm trong sử sách. Ngày nay trong thành phố ta cũng như nhiều nơi trong nước đều có tên đường Nguyễn Công Trứ. Ở hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải còn có đền thờ của ông hương khói nghi ngút quanh năm. Đó chính là cái danh của Nguyễn Công Trứ. Trong hai câu thực và hai câu luận đều có phép đối nhau gọi là bình đối hay đối ngẫu từng cặp. Tất nhiên không quá gò bó đẽo gọt như Bà Huyện Thanh Quan.
Cách sử dụng từ ngữ trong câu giữa từ đi không, về không nối liền nhau bằng từ há lẽ tác giả đã lập luận theo cách phản đề. Đi không nghĩa là lúc lên đường chưa có bằng cấp trong tay, lúc trở về thì không thể trở về không mà phải là đỗ đạt. Lúc ra đi chưa làm được gì, lúc trở về phải làm được điều gì lớn lao, có ích. Từ há lẽ trong câu thơ là để tác giả nhắc nhở mình, tự hỏi mình phải làm gì để có kết quả. Đó là sự tự cao tự đại, có thể gọi là chất ngông trong con người của nhà thơ. Thật khác với Tú Xương. Trong lúc Tú Xương lên đường ứng thí thì cười cợt đùa nhã, không tin tưởng vào thực lực của mình:
"Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi."
Đối với Nguyễn Công Trứ ta thấy hiện lên một đấng nam nhi với ý chí quyết tâm, hăm hở quyết liệt hơn, khẳng định điều bắt buộc phải làm, không làm được thì không trở về: phải trả xong cái nợ đèn sách nghĩa là phải thi đậu. Cụm từ phải trả xong thật dứt khoát, có tính kiên quyết không do dự. Tác giả luôn luôn quan niệm rằng người con trai có nợ với đời: nợ đèn sách, bút nghiên. Trong một bài thơ khác ông cũng đề cập đến cái nợ khác là nợ tang bồng.
"Nợ tang bồng vay trả, trả vay."
Trong thời phong kiến, những kẻ sĩ có ý chí luôn luôn nung nấu một bầu nhiệt huyết, phải thi đậu sao bao nhiêu năm đèn sách miệt mài – Nguyễn Công Trứ lúc còn hàn vi lại càng nung nấu ý chí ấy nhiều hơn nữa. Khi sáng tác lên bài thơ này ông đang còn ở độ tuổi sung sức, đường gân thớ thịt đang căng tràn nhựa sống. Dù có một chút tiêu cực nho nhỏ muốn làm ẩn sĩ vui thú điền viên, nhưng vốn bản tính bồng bột sôi nổi, ông viết:
"Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng"
Trong hai câu thực của bài thơ, tác giả đã sử dụng nhiều từ Hán Việt điền viên, tuế nguyệt, thân thế tang bồng làm cho câu thơ có vẻ trang trọng hơn. Tác giả muốn vui thú với cảnh cỏ cây mây nước cho phôi pha ngày tháng. Ý niệm này không đúng với con người tích cực của Nguyễn Công Trứ thời trai trẻ chưa lập được công danh. Huống chi tác giả chỉ rắp mượn mà thôi. Vốn là con người hăm hở nên muốn làm một cái gì đó to lớn vĩ đại. Bàng bạc trong bài thơ có tính ngang tàng rất phù hợp với bản chất của Nguyễn Công Trứ đặc biệt là ở hai câu thơ cuối cùng. Trong lúc làm quan cũng như trong các sáng tác của Nguyễn Công Trứ ông luôn thể hiện một niềm lạc quan yêu đời, dấn thân vào mọi hoạt động, cái tôi trong con người ông luôn được thể hiện bởi sự tự hào đĩnh đạc.
Bài thơ có một giọng điệu mạnh mẽ, rắn rỏi, ngôn ngữ thơ chắc nịch, khẳng định, ý thơ lưu loát trôi chảy một mạch liên tục liền nhau từ đầu đến cuối đã nêu lên một ý chí vững chắc đầy niềm tin tưởng của một con người: phải thi đỗ để lập công danh với đời. Bài thơ đã gợi cho thanh thiếu niên học sinh chúng ta một suy nghĩ: học tốt thi đậu đem kiến thức xây dựng nước nhà. Và không thể bắt chước cái tôi Nguyễn Công Trứ phô trương thách thức mà phải khiêm tốn hơn.
Qua bài thơ ta thấy Nguyễn Công Trứ là người có tài có đức, ông không chỉ có đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà ông còn để lại những áng thơ văn có giá trị vô giá. Bài thơ Đi thi tự vịnh như một lời nhắc nhở, một động lực cho đấng nam nhi không chỉ trong xã hội phong kiến mà cả xã hội hiện nay cố gắng phấn đấu, có ích cho xã hội.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT
TOP 10 Bài văn Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (2024) HAY NHẤT