Đề bài: Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Mẫu số 1
Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là “ông Tú” nhưng chỉ được “làm quan tại gia”, “ăn lương vợ”. Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta.
Là sĩ tử, cũng là nạn nhân trong kì thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau lòng trước nỗi ô nhục của tài tử văn nhân đất Bắc. Cho nên mở đầu bài thơ, tác giả đã phê phán sâu sắc nhà nước thực dân phong kiến thời bấy giờ:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Tác giả nói “nhà nước” một cách trang trọng như vậy nếu những việc làm của “nhà nước” mà tô't đẹp thì là ngợi ca, còn nếu nói đến những việc làm của “nhà nước” không ra gì thì là “hạ bệ”. Rõ ràng là Tú Xương đã “hạ bệ” cái “nhà nước” thực dân phong kiến đó bằng sự kiện “ba năm mở một khoa”. Dưới sự cai trị của “nhà nước” thực dân, đạo học (chữ Nho) đã mạt vận. “nhà nước” chỉ mở kì thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghiêm của kỳ thi quốc gia: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Sợ mất an ninh ở Hà Nội, “nhà nước” thực dân đã lừa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ “lẫn”, Tú Xương phơi bày cả sự đổ nát của kỳ thi quốc gia và phê phán “nhà nước” vô trách nhiệm.
Sang hai câu thực, sĩ tử và quan trường được nhà thơ Tú Xương biếm họa rất tài tình:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
Tú Xương có biệt tài mà Nguyễn Công Hoan tôn như “thần thơ thánh chữ” là chỉ trong một chữ đã lột tả được thần thái của sự vật. Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhố nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đối với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.
Tú Xương còn ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nhà là “khoa thi Đinh Dậu”, có cả Tây đầm nhốn nháo ở trường thi:
“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra”
“Cờ cắm” hay “Lọng cắm”? Sách giáo khoa hiện hành chép là “Cờ cắm”, có chú thích là: có bản chép: “Lọng cắm”. Thơ Tú Xương gần với thơ ca dân gian, nhà thơ sáng tác không in ấn, không xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại nên dễ “tam sao thất bản”. Trong những trường hợp có dị bản như thế này thì buộc người đọc, người nghiên cứu phải lựa chọn. Người soạn sách giáo khoa chọn “cờ cắm” để đối với “váy lê” ở câu dưới cho thật độc. “Cờ” mà đối với “váy” độc quá! Theo tôi, “lọng cắm” hay hơn:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”
Quan sứ (công sứ Nam Định Lơ Nooc Măng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn là phải có “lọng cắm rợp trời” mà “lọng cắm” thì mới “rợp trời”. Còn vế đối “Lọng cắm rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng chỉnh quá, mà độc địa không kém. Lọng là cái che trên đầu “quan sứ” mà lại đôi với “váy” là cái che dưới mông “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, nó “ra” như thế thì nhục quá, không chịu được, Tú Xương đã chơi một đòn trí mạng vào bọn Tây đầm thực dân nhốn nháo vào cái thời buổi nhố nhăng! Tú Xương ác khẩu trong cách đối chữ đôi câu, cái tôn nghiêm đem đọ với những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lợm sự sông, ông cho lộn tùng phèo cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhố ấy, ông đem cái võng (võng điểu võng thắm) ra mà đối với cái khố dây (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho có Tây đến ra bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với cái váy mụ đầm, đem cái đít vịt bà đầm ra đối với cái đầu rồng một ông cử dốt đang lạy tạ mũ áo vua ban... (Nguyễn Tuân).
Kết thúc bài thơ, tác giả chuyển từ giọng điệu trào lộng sang giọng điệu trữ tình thâm trầm. Tú Xương đau lòng nhắn nhủ với “nhân tài đất Bắc”:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”
Giọng trữ tình thấm thìa ấy như có sự cộng hưởng của giọng điệu trữ tình đầy nhiệt huyết của các nhà ái quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tất nhiên trong giọng điệu chung của những tấm lòng ái quốc ấy, ta vẫn nhận ra sắc thái riêng của Tú Xương. Khi thì xót xa thổn thức “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, khi thì kiêu bạc trịch thượng “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không dễ gì mà hạ một chữ “ngoảnh cổ” như vậy đối với giới trí thức Bắc Hà. Phải có chân tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng đối với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới tâm phục. Đúng là tâm sự yêu nước thổn thức của Tú Xương là vật bảo chứng cho những gì là lộng ngôn của nhà thơ:
“Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”
(Đêm hè)
Dưới mắt Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) là một hiện tượng của sự mất nước, của sự nô lệ. Với Tú Xương, nỗi nhục trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là nỗi nhục mất nước! “Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đông tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (Nguyễn Tuân).
“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là “sử thi” về đời sống nhà nho lúc Tây sang. Đạo học suy đồi, thi cử bát nháo hố’ lốn, sĩ tử mất hết nhuệ khí, quan trường mất hết nhân cách. Bọn thực dân nghênh ngang đến trường thi là một nỗi ô nhục của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời.
Nghệ thuật trào lộng và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm thía. Đối với sĩ tử, nhà thơ thương mà cười, đối với quan trường, nhà thơ căm ghét mà châm biếm, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm thù mà đả kích, hạ nhục. Từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, bút pháp của bài thơ bộc lộ tài hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đúng như lời ngợi ca của Yên Đổ:
“Kia ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”
Mẫu số 2
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn được biết đến với bút danh Tú Xương, thực sự là một tác phẩm văn học nổi tiếng và tiêu biểu của thời kỳ thức dân nửa phong kiến, khi nước ta đang phải đối mặt với sự thống trị của thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến đang trải qua sự sụp đổ. Dưới đây là sự phân tích chi tiết hơn về bài thơ này:
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” được viết vào năm 1897, nằm trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang chịu áp lực từ thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến đang trải qua sự sụp đổ. Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương, là một nhà thơ nổi tiếng thời đó, người đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị về cả mặt văn học và xã hội. Bài thơ bắt đầu với hai câu đề mở: “Nhà nước ba năm mở một khoa/ Trường Nam thi lẫn với trường Hà.” Đây là bức tranh khái quát về thực trạng thi cử phong kiến ở nước ta cuối thế kỷ XIX, khi việc tổ chức thi cử là một thứ quyền lợi của nhà nước, và việc thi đỗ được thực hiện không thường xuyên. Tú Xương sử dụng ngôn ngữ hài hước và châm biếm để tạo ra một bức tranh thực trạng và khắc nghiệt về cuộc thi này. Ông miêu tả hình ảnh các sĩ tử “lôi thôi” và “Ậm ọe,” họ không còn mang vẻ nho nhã của những người thuộc tầng lớp trí thức mà trở nên hỗn loạn và đánh bại.
Bài thơ thể hiện sự phê phán sâu sắc đối với thực dân Pháp và chính quyền bộ máy quản lí nhà tù, qua việc miêu tả những quan lại như ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng trong tình trạng thối nát, tham nhũng, và tận dụng tình hình để đánh bạc hoặc tiêu biểu cho các vấn đề trong xã hội phong kiến đói khát và hỗn loạn.
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của nhà thơ Trần Tế Xương, hay Tú Xương, đã sử dụng hai bức tranh biếm hoạ để thể hiện sự châm biếm và phê phán đối với cuộc thi cử và thực trạng xã hội tại thời điểm đó. Dòng đầu tiên của bức tranh miêu tả việc “lọng cắm rợp trời” cho quan sứ đến, tạo ra một hình ảnh ấn tượng về sự tráng lệ và long trọng của cuộc thi cử. Từ “lọng” chỉ ra sự xa hoa và rộng lớn, “rợp trời” biểu thị sự quyền uy và tôn nghiêm. Tuy nhiên, điều thú vị là ngay sau đó, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật để đảo ngữ và chuyển sự long trọng thành sự hài hước khi miêu tả “váy lê quét đất” và “mụ đầm ra.” Hình ảnh của người phụ nữ mặc váy dạo chơi trong trường thi khiến cuộc thi trở nên lố bịch và đảo lộn. Điều này tạo ra tiếng cười chua chát và châm biếm về sự thay đổi và mất điểm trọng đại trong cuộc thi cử.
Câu hỏi “Nhân tài đất Bắc nào ai đó?” phản ánh sự thất vọng và niềm đau của tác giả đối với cuộc thi cử và tình hình đất nước. Tác giả đặt câu hỏi này để nhấn mạnh rằng trong bối cảnh thống trị của thực dân Pháp và chế độ thi cử phong kiến, việc tìm kiếm nhân tài và phục dựng đất nước đã trở nên quá khó khăn. Sự kỳ vọng vào những tài năng của đất Bắc đã biến mất, và cuộc thi cử đã trở thành một trò cười với tất cả những điều không tương xứng và thất thường trong nó.
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của Tú Xương đã tạo ra một bức tranh hài hước và châm biếm về cuộc thi cử và tình hình xã hội thời kỳ thực dân nửa phong kiến. Sự đảo ngữ trong miêu tả và câu hỏi đầy ý nghĩa đã làm nổi bật tiếng cười chua chát và xót xa của tác giả đối với cảnh ngộ của đất nước. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một bức tranh sống động về thời đại đầy biến động và xúc cảm.
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” của Tú Xương không chỉ là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật, mà còn là một phản ánh sâu sắc về xã hội thực dân nửa phong kiến và thực trạng của cuộc thi cử. Nó giúp độc giả hiểu rõ hơn về tình hình xã hội và cách nhà thơ sử dụng văn học để thể hiện quan điểm và phản đối sự thống trị của thực dân Pháp và phong kiến. Bài thơ này đã tạo ra một tiếng cười chua chát, mở ra một cái nhìn sâu sắc vào xã hội thời đó và tiếng lời phê phán thậm chí còn rõ ràng hơn nếu ta cùng nhìn vào những hệ quả xã hội khó khăn mà bài thơ đã nêu lên.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 10 Bài văn đóng vai lão Hạc kể lại chuyện bán chó (2024) SIÊU HAY
TOP 10 Bài văn cảm nghĩ về nhân vật lão Hạc (2024) SIÊU HAY
TOP 10 bài Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú (2024) SIÊU HAY
TOP 20 bài Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ (2024) SIÊU HAY