Đề bài: Nêu cảm nhận về phẩm chất của Vũ Nương khi bị nghi oan.
Gợi ý: Nêu cảm nhận về phẩm chất của Vũ Nương khi bị nghi oan.
- Vũ Nương là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương Sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
- Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt ý nghĩa cho câu chuyện
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với nhiều sự bất công [trọng nam khinh nữ, phân hóa giàu nghèo, chiến tranh phi nghĩa,...].
- Khắc họa rõ nét bức tranh về cuộc đời - số phận của người phụ nữ thời kì đó, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Thể hiện sự trân trọng của nhà văn đối với những ước mơ chính đáng, khát vọng cao đẹp như: khát vọng được hạnh phúc, ước mơ về sự công bằng trong xã hội, ...
- Thể hiện niềm xót thương, cảm thông sâu sắc của tác giả đối với số phận của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
- Lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.
- Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Một số bài văn mẫu: Cảm nhận về phẩm chất của Vũ Nương khi bị nghi oan.
Đoạn văn mẫu số 1
Trong thời kì được coi là mục nát nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đã có rất các nhà văn, thi sĩ đại tài nhưng lại bất mãn với thời cuộc chiến tranh loạn lạc mà về ở ẩn Nguyễn Dữ là một trong số những người như vậy.
Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi làm quan, ông sớm được trọng dụng ở thời Mạc rồi thời Lê. Nhưng ông đã cáo quan, lấy cớ nuôi mẹ, về ở ẩn nơi núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm thành công nhất mà cũng là duy nhất của ông là tập Truyền kì mạn lục [Sao chép tản mạn những truyện lạ]. Chuyện người con gái Nam Xương được trích từ kiệt tác này. Truyện kể về về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị xỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương - một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Vũ Nương là con nhà nghèo, một phụ nữ bình dân. Người đã được giới thiệu trong truyện tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Còn chồng nàng, Trương Sinh, là một người đa nghi, con nhà giàu, ít học. Chính những tính nết này đã đẩy Vũ Nương vào bi kịch.
Nguyễn Dữđã tập trung khắc họa vẻ đẹp đức hạnh của Vũ Nương trong các mối quan hệ với chồng, với mẹ chồng và với bé Đản đứa con yêu quý của nàng. Để làm nổi bật nàng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào các hoàn cảnh, tình huống đặc biệt. Nàng là một người vợ thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Khi mới lấy chồng, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép, nên cho dù Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn luôn êm ấm thuận hòa. Khi tiễn chồng đi lính, nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về: Chàng đi chuyến này mang theo hai chữ bình yên thế là đủ. Nàng rất cảm thông với nỗi vất vả gian lao mà chồng nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc. Nàng đã nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình những lời nói ân tình đằm thắm này của nàng khi tiễn chồng đã làm cho người đọc xúc động. Khi Trương Sinh đi chiến trận, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ rõ là người vợ thủy chung, yêu chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầu mùa cảnh vui mùa xuân hay mây che hình núi cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi nhớ nhung da diết, thổn thức tâm tình. Tiết hạnh đấy của Vũ Nương cũng được khẳng định lại trong câu nói với chồng: cách biệt 3 năm, giữ trọn một tiết, tô son điểm phẩn, từng đã nguôi lòng. Nàng còn là mộtngười con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con. Một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm, nàng đã hết lòng chăm sóc, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên đơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của mẹ chồng đã ghi nhận công lao của Vũ Nương với gia đình nhà chồng. Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một người mẹ rất mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng đã sinh con một mình, dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Nàng đã yêu con bằng cả phần người cha cộng lại. Nàng còn chỉ bóng của mình trên tường để dỗ con vì thương con thiếu vắng tình cha. Nàng là một người phụ nữ trọng nhân phẩm và nghĩa tình. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhưng đó là giải pháp duy nhất của Vũ Nương. Lời than của nàng là mộtlời thề nguyện: Xin thần sông chứng giám. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với người phụ nữ bất hạnh ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Vũ Nương còn là mộtngười phụ nữ rất coi trọng tình nghĩa. Dù thương nhớ về quê hương song nàng quyết giữ lời hứa với Linh Phi.
Vũ Nương quả là mộtngười phụ nữ lí tưởng: xinh đẹp, nết na, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung, Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết mộtcách oan uổng, đau đớn. Nàng phải chịu nỗi kỉ oan, bị chồng nghi oan là thất tiết, bị đối xử bất công, tàn nhẫn đến mức nàng phải tìm đến cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương là từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa trước hết là từ người chồng đa nghi và thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là mộtngười có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức và là con nhà hào phú nhưng không có học. Đó chính là mầm mống của bi kịch. Tiếp theo đó là sự xử sự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh khi ghen tuông mù quáng. Trương Sinh đã phớt lờ tất cả các cơ hội để tránh được thảm kịch và mắng nhiếc, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là lễ giáo phong kiến hà khắc, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất. Tất cả những cái đó đã bức tử Vũ Nương, khiến nàng phải chết. Vũ Nương chính là một nạn nhân của xã hội phong kiến.
Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung kết thúc có hậu hay không phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm: Vũ Nương ngồi trên mộtchiếc kiệu hoa, đứng ở giữa dòng, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện. Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở thế giới ấy, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối truyện góp phần làm hoàn chỉnh thêm nhân cách của Vũ Nương: Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Nó góp phần tạo nên kết thúc phần nào có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao mộtcuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương chỉ hiển linh trong thoáng chốc rồi bóng người loang loáng, mờ nhạt dần và biến đi mất. Hạnh phúc đã vĩnh viễn biến mất. Sương khói giải oan tan đi chỉ còn lại sự thực cay đắng: nỗi oan người phụ nữ không đàng tràng nào giải được. Sự ân hận của người chồng cũng không hàn gắn được gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như mộtlời tố cáo chốn nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung thân cho con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Đoạn văn mẫu số 2
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là "thiên cổ kỳ bút thì cho đến nay chỉ có một Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.Chuyện người con gái Nam Xươngđược rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc. Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son.Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời Đó là thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp .
Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuôn phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà. Khi tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà là khao khát ngày chồng về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi. Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Người thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con: cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa, tận tuỵ và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề. Nhưng tai ác thay, một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về, nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư, mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ. Không có cơ hội để thanh minh, trái tim tan nát, tuyệt vọng bởi bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió . Với nàng, cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự. Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên. Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả: người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành? Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đó phải tìm đến cái chết bi thảm? Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư trưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!
Nỗi oan ấy làm nàng đau đớn vô cùng vì điều đâu bay buộc mà có thể khiến nhân cách trong trắng bị xúc phạm nặng nề. Những lời biện bạch trong vô vọng của nàng đã không ngăn được bi kịch tiếp theo ắt sảy ra. Nếu như nàng được biết ai đã nói gì với chồng để giải thích cho ngọn ngành thì nàng đã không phải tìm đến cái chết. Cái chết thể hiện sự tuyệt vọng của nàng trong cuộc sống, thể hiện sự đau đớn của nàng khi bị chính người mình yêu thương, mong chờ nghi ngờ. Cái chết không thể là sự giải thoát như một số người nghĩ, vì nàng vẫn không được yên lòng khi để lại đứa con mới ba tuổi mà mình vô cùng yêu thương, để lại cái hạnh phúc mà mình khao khát một đời. Cái chết này còn đầy oan khuất, bởi vì trước khi chết Vũ Nương còn ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,.. và nàng đành ôm mối hận mà lao xuống sông! Người thiếu phụ xinh đẹp, đức hạnh đã bị dẫn đến chốn đường cùng. Cái chết của nàng là một bi kịch lớn lao.
Tuy với tấm lòng nhân hậu và bằng bút pháp truyền kì, Nguyễn Dữ đã dựng lên cảnh nàng được minh oan một cách thanh bạch, trong khung cảnh lộng lẫy, dưới sự chứng kiến của nhiều người; nhưng câu nói từ biệt chồng con của nàng cho ta thấy hai chữ bi kịch chưa hề kết thúc. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa là câu nói mang đậm tính bi kịch của đời nàng, nó chứa đựng bao nỗi ngậm ngùi, chua xót. Dù nàng có mong nhớ chồng con vô cùng, dù chồng nàng đã nhận ra lỗi lầm và muốn nàng trở về, nhưng sự thật là nàng đã chết. Sự trở về trong chốc lát chỉ là mộng tưởng, chỉ tô đậm thêm bi kịch -một bi kịch không hề kết thúc mà kéo dài mãi mãi và ngày càng chua xót!
Những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến bị đẩy vào số phận bi thảm như vậy bởi chế độ phong kiến đã cho người đàn ông có quyền định đoạt mọi việc, nên người phụ nữ phải chịu biết bao điều đau khổ, oan ức và trái ngang. Vũ Nương đã bị oan mà không được giải thích hay thanh minh; nàng luôn chung thủy nhưng lại bị vu là ngoại tình. Sự vô lí của người chồng nằm trong sự phi lí của chế độ gia trưởng phong kiến. Phi lí đến mức một cái vu vơ, vô thực, không tồn tại thực tế -cái bóng - lại trở thành nguyên nhân gây ra cái chết cho người vợ. Vũ Nương khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử hại người lại vẫn yên ổn. Thời đó làm gì còn công lí bênh vực người lương thiện!
Đoạn văn mẫu số 3
Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ ta thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gin khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho mọi người đều ứa hai hàng lệ. Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự. Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc. Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy.
Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bikịch xảy ra. Trương Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
["Lại bài Viếng Vũ Thịcủa Lê Thánh Tông]
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy, nàng nghĩ: thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình. Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc.
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Đoạn văn mẫu số 4
"Chuyện người con gái Nam Xương" rút trong tác phẩm Truyền kì mạn lục", áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là thiên cổ kì bút".
Truyện kể lại môt câu chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về bi kịch gia đình ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15, một thời loạn lạc, đầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi", nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa", sống giũa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng "được hai chữ bình yên": nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ... Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".
Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
[Chinh phụ ngâm]
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, "việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "máng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời "bày tỏ" của vợ, mọi sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ "mất nết hư ân. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng", mãi mãi soi tỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa !". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày xin chén nước cho người thác oan" [Truyện Kiều].
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện... là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh... yên phận hẩm hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa nhưng âm - dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đườngnhưng áng văn "Chuyện người con gái Nam Xương" giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị:
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."
Đoạn văn mẫu số 5
Trong giai đoạn bất ổn của lịch sử Việt Nam, thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, có nhiều nhà văn và thi sĩ tài năng, nhưng họ thường cảm thấy bất mãn với tình hình chiến tranh và tìm kiếm sự ẩn dấu trong cuộc sống, Nguyễn Dữ là một trong số những người như vậy.
Nguyễn Dữ xuất thân từ một gia đình quý tộc và sớm được trọng dụng trong triều đại Mạc và sau đó là Lê. Tuy nhiên, anh đã từ chối sự nghiệp quan lại và quyết định rút lui, lý do mà anh đưa ra là để nuôi dưỡng mẹ và sống ẩn dật trong núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Dữ và cũng là tác phẩm duy nhất mà anh được biết đến là tập "Truyền kỳ mạn lục" (Sao chép tản mạn những chuyện lạ). Trong tập này, có câu chuyện "Chuyện người con gái Nam Xương" đặc biệt nổi tiếng. Câu chuyện này kể về số phận thảm đạt của một phụ nữ dưới triều đại phong kiến, Vũ Nương, với nhan sắc và đức hạnh của mình bị hiểu lầm và oan trái chỉ vì một lời nói ngây thơ của một đứa trẻ.
Vũ Nương là một phụ nữ nghèo, nhưng có tính cách thánh thiện và đẹp đẽ. Trong truyện, cô được mô tả là có tính tình dịu dàng, nền nã và tư duy tốt. Chồng cô, Trương Sinh, lại là một người đa nghi và ít học, đến từ một gia đình giàu có. Điều này đã tạo nên bất hòa và cuối cùng dẫn đến bi kịch cho Vũ Nương.
Nguyễn Dữ đã tập trung vào việc mô tả sự hiếu thảo, tình yêu và lòng kiên nhẫn của Vũ Nương đối với chồng, mẹ chồng và đặc biệt là đứa con của họ, Đản. Cô là một người vợ thủy chung, lúc nào cũng yêu thương chồng mình. Khi Trương Sinh đi chiến trận, Vũ Nương không mong ước danh vọng, chỉ cầu người chồng trở về an lành. Cô hiểu và chia sẻ nỗi lo âu và khó khăn mà chồng phải trải qua trong cuộc chiến. Trong suốt thời gian chồng mình vắng nhà, Vũ Nương luôn giữ tình thần nhân ái và tình yêu đối với anh. Cô thường xuyên thể hiện sự nhớ thương và xúc động khi thấy những dấu vết của mùa xuân hoặc những cảnh đẹp của thiên nhiên.
Vũ Nương cũng là một người con dâu hiếu thảo và quan tâm đến mẹ chồng. Trong thời gian chồng đi chiến trận và sau khi mẹ chồng bệnh nặng, Vũ Nương luôn quan tâm và chăm sóc hết lòng, thậm chí còn làm các nghi lễ tôn kính và lắng nghe lời khuyên của mẹ chồng. Khi mẹ chồng qua đời, cô còn chăm sóc công việc ma chay và lễ giáo một cách chu đáo. Với con trai của mình, Đản, Vũ Nương là một người mẹ đầy tình yêu và quan tâm. Cô nuôi dưỡng con một mình và tạo ra một môi trường ấm áp và yêu thương cho Đản. Cô thậm chí còn để lại bóng dáng của mình trên tường để dỗ dành và an ủi con trai vì cảm thấy thiếu vắng tình thương của cha.
Vũ Nương cũng là một người phụ nữ coi trọng nhân phẩm và tình nghĩa. Khi bị chồng nghi ngờ và bị đối xử không công bằng, cô đã tìm mọi cách để chứng minh tốt đẹp của tâm hồn và tình cảm của mình. Cô đã tự bào chữa và cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình đang bị đe dọa. Cuối cùng, khi không còn cách nào khác, Vũ Nương đã chọn tự tử để bảo vệ danh dự của mình và giữ vững phẩm giá. Đối với cô, phẩm giá quan trọng hơn cả sự sống.
Tuy Vũ Nương được mô tả là một phụ nữ lý tưởng với vẻ đẹp, tính tình tốt, và lòng kiên nhẫn, nhưng cuộc đời cô đã trở thành bi kịch. Cô bị hiểu lầm và bị đối xử không công bằng chỉ vì những sự nghi ngờ và ghen tuông của chồng mình. Câu chuyện này thể hiện một mặt tối của xã hội phong kiến, nơi nhiều phụ nữ phải chịu đựng sự bất công và đau đớn. Về cơ bản, Vũ Nương là một nạn nhân của xã hội phong kiến đầy oan trái.
Kết thúc của câu chuyện về cuộc đời của Vũ Nương có một phần kỳ ảo, thể hiện tính chất truyền kỳ của truyện. Sau khi tự tử, Vũ Nương được "cứu" và sống một cuộc sống hạnh phúc và ẩn dật trong thủy cung. Sự hiện diện đẹp đẽ của cô trong thủy cung là một biểu tượng cho việc cô được công bằng và tôn trọng ở thế giới thần tiên. Tuy nhiên, điều này không thay đổi sự bi kịch của cuộc đời thực sự của Vũ Nương. Cuộc sống và hạnh phúc đã mất đi vĩnh viễn, và tất cả những khao khát và ước mơ của cô chỉ còn lại trong thế giới kỳ ảo đó. Sự kết thúc của câu chuyện vừa có hậu vừa bi thảm, thể hiện sự đấu tranh của con người với sự bất công và khao khát của họ về một cuộc sống công bằng và hạnh phúc.
Tóm lại, câu chuyện về Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là một tượng đài của phẩm giá và lòng kiên nhẫn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời cũng là một tấm gương về sự bất công và khó khăn mà nhiều phụ nữ đã phải đối diện trong thời kỳ đó. Cô là một nhân vật mà Nguyễn Dữ dùng để thể hiện lòng đồng cảm và tôn trọng đối với những người phụ nữ bị đối xử không công bằng và những người luôn cố gắng bảo vệ danh dự và phẩm giá của họ.
Đoạn văn mẫu số 6
Trong văn học dân gian và văn học viết của Việt Nam, người phụ nữ bình dân thường được thể hiện như những tấm gương đạo đức, phẩm chất cao đẹp. Họ thường mang trong mình những đức tính như hiền lành, tốt bụng, và hy sinh cho gia đình. Tuy nhiên, cuộc sống trong xã hội phong kiến thường đầy những bất công và oan trái, và người phụ nữ bình dân thường phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh.
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một tác phẩm văn học đặc biệt, nó tập trung vào việc thể hiện nỗi oan khuất và số phận bi thảm của người phụ nữ tên Vũ Thị Thiết. Tác phẩm này nêu cao những giá trị đạo đức và phẩm chất của người phụ nữ bình dân và đồng thời thể hiện những bất công và khó khăn mà họ phải đối mặt trong xã hội phong kiến.
Nhân vật chính của tác phẩm, Vũ Nương, được mô tả như một người phụ nữ đẹp và đạo đức. Cô có vẻ đẹp tự nhiên, tính tình hiền lành và dịu dàng. Trước mắt chồng, một người đa nghi và thô lỗ, Vũ Nương luôn duy trì khuôn phép và không để xảy ra mâu thuẫn trong hôn nhân. Cuộc sống hạnh phúc của họ được tạo dựng bằng tình yêu, sự hiểu biết và tôn trọng đối với nhau.
Tuy nhiên, khi chiến tranh bùng nổ và chồng phải ra trận, Vũ Nương phải đối mặt với nhiều khó khăn. Cô phải lo toan mọi việc trong gia đình, nuôi dạy con cái một mình trong thời gian chồng vắng mặt. Và cô vẫn duy trì lòng hiếu thảo và tôn trọng mẹ chồng, thể hiện đạo đức và phẩm hạnh tốt đẹp.
Cuộc sống hạnh phúc của họ bị đe dọa khi chồng Trương Sinh trở về và bị nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Trương Sinh là một người đa nghi và ghen tuông, nghe lời đứa con nhỏ mà không kiểm tra sự thật, và kết quả là Vũ Nương bị vu oan và phải chịu sự mắng mỏ và đuổi đi của chồng. Mặc dù cô đã cố gắng giải thích và khóc lóc để bày tỏ sự oan trái của mình, nhưng Trương Sinh không lắng nghe.
Với tấm lòng trong sáng và đạo đức cao đẹp, Vũ Nương chọn cái chết là cách cuối cùng để giải thích cho sự trong sáng và chung thủy của mình. Điều này thể hiện sự bi thảm và không công bằng trong cuộc sống của người phụ nữ bình dân trong xã hội phong kiến, nơi mà họ có thể bị vu oan và không được công bằng.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một tiếng nói tố cáo về sự bất công và oan trái trong xã hội phong kiến, và nó thể hiện lòng dũng cảm và tinh thần kiên nhẫn của người phụ nữ trước số phận bi thảm. Cuộc sống của Vũ Nương là một ví dụ về sự hy sinh và kiên định trong việc bảo vệ danh dự và trong sáng của bản thân trong một xã hội khắc nghiệt.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
TOP 22 bài Phân tích phần cuối trong truyện Chữ người tử tù (2024) SIÊU HAY
TOP 10 bài phân tích đặc điểm nhân vật thầy Ha-men trong truyện Buổi học cuối cùng 2024 HAY NHẤT
TOP 5 bài văn Phân tích một truyện mà bạn cho là có điểm nhìn độc đáo (2024) HAY NHẤT