TOP 10 Bài văn Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT

1900.edu.vn xin giới thiệu bài văn Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích lớp 8 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn. Mời bạn đọc tham khảo

Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích

Đề bài: Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích.

Dàn ý phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện mà em yêu thích

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tên tác giả,...) và ý kiến khái quát của người viết về tác phẩm. Chia sẻ với người đọc lí do bạn lựa chọn tác phẩm này để phân tích, đánh giá, điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.

2. Thân bài:

+ Tóm tắt nội dung chính của truyện.

+ Phân tích, đánh giá về chủ đề của truyện dựa trên cứ liệu dẫn ra từ tác phẩm.

+ Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích, đánh giá đều cần có những chi tiết tiêu biểu được dẫn ra từ tác phẩm.

3. Kết bài:

Tóm lược các nhận định trong phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm, đưa ra một số ý tưởng mở rộng, ...

Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm

Một số bài văn mẫu hay

Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (mẫu 1)TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (mẫu 2)

Văn học từ bao đời nay, là bản trường ca hát về những mảnh đất xa xôi ngoài chân trời, nơi mà những vẻ đẹp và lí tưởng con người luôn hướng đến. Con người sáng tác ra văn chương để vẽ về những vẻ đẹp của đời sống, nơi con người thực sự thăng hoa và được tôn vinh trong chính bức tranh nghệ thuật mà họ tạo nên . Nghệ thuật luôn là tấm gương chân thật nhất luôn hướng đời mình đến con người, họ là trung tâm của những sức mạnh trên thế giới này, họ có thể làm ra những điều phi thường, họ là những người có lí tưởng cao đẹp. Bởi vì vậy hình tượng con người trong vũ trụ luôn đi đôi với nghệ thuật sáng tạo, đặc biệt là những tác phẩm văn chương chân chính, thứ đã nuôi dưỡng và tạo ra những vẻ đẹp ấy. Không phải từ đời sống mà có thể tạo ra những giá trị hay, mà phải trải qua một quá trình gạn lọc, chưng cất từ trên những trang giấy để từ đó mới xuất hiện những điểm sáng của nghệ thuật được. Lí tưởng sống của con người luôn được đề cao, bởi nó mang tầm vóc của những điều phi thường, là yếu tố cơ bản để kiến tạo nên những điều kì diệu. Phải có lí tưởng, phải có khao khát, ước vọng mới có thể làm nên những việc lớn, chính vì vậy đây là yếu tố được khai thác nhiều trong sáng tạo nghệ thuật. Những lí tưởng bước ra từ bức màn của nghệ thuật luôn là những gì đẹp nhất, không chỉ hình thành từ một cá nhân trong cộng đồng mà nó còn là của tập thể chung. Sử thi Đăm Săn của người dân tộc Ê đê đã thực sự thành công khi tái hiện hình ảnh người anh hùng trong xã hội với những lí tưởng cao đẹp khi ước mơ bắt Nữ thần Mặt Trời về làm vợ.

Sử thi là một thể loại văn học vô cùng thú vị, bởi nó mang nhiều yếu tố hoang đường kì ảo nhưng không đánh mất đi những giá trị vốn có, vì bên cạnh những yếu tố ấy những chất liệu để tạo nên một sử thi hay là nhân vật có thật, câu chuyện có thật. Những yếu tố kì ảo chỉ được thêm vào để làm nền và làm nổi bật sự phi thường của người anh hùng. Nhân vật trong sử thi là những người phi phàm đại diện cho lí tưởng cao đẹp của cả một cộng đồng, là người đi tiên phong để mở ra một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp cho mọi người. Một người anh hùng chắc chắn phải lập ra được những chiến công lẫy lừng, vang danh, đó không chỉ là sự hào nhoáng mà còn là những ý nghĩa sâu xa và thế giới nghệ thuật muốn đề cập đến. Đến với Sử thi Đăm Săn, đặc biệt là đoạn trích đi chinh phục nữ thần Mặt Trời, người anh hùng ấy hiện lên với đầy đủ những vẻ sáng của cuộc đời, đó là khát khao của con người về tình yêu và hạnh phúc, về sự chinh phục thiên nhiên và vũ trụ rộng lớn. Chàng Đăm Săn là một hình mẫu cho những điều cao đẹp của một cộng đồng.

Người dân tộc Ê đê thuộc chế độ mẫu hệ, bởi vì vậy, chỉ có người vợ mới được bắt chồng chứ không có những người chồng được bắt vợ, hành động của Đăm Săn và kết quả của hành động ấy đã thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc văn hoá truyền thống của người Ê đê, chính vì vậy tính lịch sử và văn hóa trong tác phẩm sử thi này rất cao và tỉ mỉ. Đăm Săn muốn chinh phục nữ thần mặt trời về làm vợ xuất phát từ mong muốn cho cuộc sống của cộng đồng trở nên ấm no hơn, bởi có được sức mạnh của nữ thần.

Vượt qua bao nhiêu là khó khăn cách trở, sự can ngăn của vợ, … Chàng Đăm Săn vẫn mang trong mình khát khao được gặp nữ thần mặt trời và bày tỏ mong muốn của mình. “Chàng đi hết rừng rậm đến núi xanh, có tranh xé tay, gai mây đâm chân, không màng ăn uống”, chàng cứ thế trên con chiến mã của mình vẫn tiếp tục lao như bay về phía nơi ở của nữ thần mặt trời với đầy khí thế hừng hực. Chàng phi ngựa như bay qua vùng đất Sáp Đen, chàng cưỡi trên con chiến mã ấy vượt qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu ngọn núi, người và người cứ thế lao vun vút như tên. Chẳng biết mấy ngày đem, Đăm Săn đã nhìn thấy cái chuồng nuôi trâu, cái bãi thả diều ở trời, khí thế hừng hực, lao đi trong không trung. Ta có thể thấy niềm tin trong người anh hùng ấy, anh tin tưởng vào sức mạnh và tài năng của mình, có thể giúp chàng lấy được nữ thần làm vợ, đó không phải là sự viển vông mà ngược lại càng làm cho Đăm Săn ra dáng một người anh hùng với sức mạnh phi thường thực thụ. Đó là lòng dũng cảm, sự quyết tâm và khát vọng của một người anh hùng mang trong mình những lí tưởng lớn lao và vững chãi. Trải qua những chặng đường gian nan, cuối cùng chàng đã đến được nơi ấy, trước mắt chàng là những cảnh vật mà trước giờ chưa bao giờ nhìn thấy ở buôn làng của mình. “Cầu thang trông như cái cầu vồng” , “cối giã gạo bằng vàng, chày cũng bằng vàng”, cái chày thì lấp lánh khiến Đăm Săn không khỏi ngạc nhiên, mình đã là một tù trưởng giàu có nhất ở buôn làng rồi, không thứ gì là không có, vậy mà ở đây nhiều điều mới lạ quá khiến chàng không rời mắt. Đăm Săn xuống ngựa rồi từ từ bước vào nha, khí thế người anh hùng dũng mãnh như toả ra thứ hào quang hào nhoáng lắm, ai ai cũng biết đến sự hiện diện của chàng. “Chàng vươn bước lên cầu thang thì trong nhà người ta đã nghe”, “Chàng vươn người trên sàn hiên thì trong nhà người ta đã nghe”, … sự vĩ đại trong từng hành động của Đăm Săn cũng khiến người ta biết đến. Chàng đi vào nhà rồi ngồi ở giữa gian như một vị thần, sự hiên ngang ấy khiến gia tớ trong nhà ai cũng nhìn, thế là đã đến tai của nữ thần mặt trời. Chàng Đăm Săn mặc một chiếc áo lụa thật đẹp, ở ngoài khoác một chiếc áo chiến trông oai hùng biết bao, “Lông chân như chải, lông đùi như chuốt”, “Tiếng nghe như trống gõ mõ”,… Các tù trường không một ai có một khí thế giống như vậy, cứ ngỡ là thần tiên ở trên trời.

Những người tôi tớ của nữ thần cứ hết người này đến người kia, những ánh mắt cứ chăm chăm vào Đăm Săn, càng làm cho chàng trở nên đẹp và dũng mãnh hơn, càng tô điểm thêm cho cốt cách của chàng. Nữ thần Mặt trời cũng không kém, nàng thay không biết bao nhiêu bộ váy để tiếp đón Đăm Săn, cuối cùng nàng cũng đã chọn được chiếc váy ưng ý, “Nàng mặc một váy ánh như sét, loáng như chớp”. úc này trông nữ thần như một vị tiên giáng trần, “Mái tóc vén bên tai trông thật là đẹp”, “Đi trông như diều bay liệng, như nước lững lờ trôi”, Chàng Đăm Săn khi thấy vẻ đẹp kiều diễm ấy lại càng mê mẩn hơn nữa, trước mặt chàng là một vị nữ thần vô cùng xinh đẹp và tài giỏi, “Thân hình như cái nụ tai, với một cái cổ như con công”. Những điều đó càng khiến cho Đăm Săn muốn chinh phục hơn nữa. Tiếng của nàng lanh lảnh khẻ hỏi Đăm Săn : “Hỡi con người trần thế, ngươi muốn gì”. Đăm Săn trả lời lại : “Tôi muốn có người nấu cơm canh tôi ăn, dệt khố áo tôi mặc”, chàng tỏ ý muốn lấy nữ thần mặt trời làm vợ mình, “muốn đưa nàng xuống trần làm juê, làm êm tai , làm chị em với Hơ Nhị, Hơ Bhị”, đứng trước sự xinh đẹp của nữ thần chàng không kiềm lòng nổi mà nói ra ước muốn trong suy nghĩ của mình, chàng dũng cảm bày tỏ và tin rằng nữ thần sẽ chấp nhận lời cầu hôn của mình. Những nữ thần lại kiếm cớ để từ chối lời cầu hôn ấy, “nếu ta đi thì lợn dưới gà trên, cọp tê giác,… sẽ chết hết”, “Chết cả người Khơ me, người Lào”, “Chết cả người Ê đê Ê ga”, “Cây trong rừng sẽ tuyệt diệt, cây trên rú sẽ chết khô” . Nữ thần một mực phủ nhận lời đề nghị của Đăm Săn, nàng từ chối một cách quyết liệt, “Thôi ngươi hãy đi lấy gùi nước về đi, Ta sắp ra đi đây”. Nhưng Đăm Săn vẫn vô cùng trung thành với cảm xúc của chính mình, chàng đã dùng cây chà gạc chẻ núi, phát rừng, giết bao nhiêu thú dữ, vượt ngàn khó khăn gian truân mới đến được đây, nói đi là đi được sao, chàng vẫn muốn nhận được sự chấp nhận của Nữ thần, “Tôi thương nàng da diết, lòng dạ tôi không nguôi, vì vậy tôi đã đến đây với nàng, muốn cùng nàng nên nghĩa vợ chồng, có lấy được nàng tôi mới về”. Sự quyết tâm và kiên định của Đăm Săn cho thấy chàng là một người hết sức mạnh mẽ và quyết đoán đối với suy nghĩ của mình, muốn làm gì thì chàng nhất định sẽ làm cho bằng được, đó cũng là một trong những yếu tố để kiến tạo nên một người anh hùng của cộng đồng.

Vậy là cuộc cầu hôn của Đăm Săn đã thất bại, Đăm Săn đã quyết định ra về mặc lời can ngăn của Nữ thần. Đăm Săn không cần sống hay chết, chàng cũng không cần ai cùng về, chàng một mình một ngựa phi như bay ra khỏi vùng đất của Mặt trời. Đất sáp đen đã dần nhão ra, chàng và chiến mã vẫn cứ phi, càng chậm dần chậm dần rồi biến mất trong khu rừng ấy. Người anh hùng ấy đã hy sinh vì những lí tưởng của chính mình. Chàng đã chết trong khát vọng với sự hiên ngang bất khuất, đó là dáng vẻ của một người anh hùng thực thụ. Cái chết đầy tính bi tráng của Đăm Săn nhuốm đầy màu sắc của bi kịch lịch sử và thời đại, đó là mâu thuẫn gay gắt giữa sự có hạn của những điều xung quanh, trái ngược với những khát vọng và lí tưởng vô hạn của người anh hùng sử thi. Hình ảnh người anh hùng ấy vẫn mãi mãi sống trong lòng người Ê đê, tồn tại mãi mãi trong những nét văn hoá lâu đời.

Truyện Sử thi về chàng Đăm Săn đậm đà bản sắc văn hoá truyền thống của người Ê đê. Trật tự mẫu quyền của dân tộc được thể hiện vô cùng sâu sắc qua những chi tiết của truyện, Đăm Săn không thể nào cầu hôn được nữ thần mặt trời chính là vì lí do ấy, những bản sắc văn hoá được in sâu vào trong tác phẩm nghệ thuật. Người anh hùng ấy khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, muốn chinh phục được nữ thần mặt trời để giúp đỡ cho người dân ở buôn làng, nhờ vào quyền năng của nàng có thể đem lại cho mọi người một cuộc sống tốt hơn nhưng tiếc thay chàng đã thất bại. Nhưng đó không phải là một sự thất bại hoàn toàn, tiếng thơm muôn đời của chàng Đăm Săn vì muốn đem lại hạnh phúc cho muôn dân mà hy sinh cuộc đời mình mãi mãi in sâu vào trong tâm trí của cộng đồng dân tộc, từ hình ảnh ấy là những bài học vô cùng quý giá về lí tưởng trong cuộc sống. Sống một cuộc đời giống như Đăm Săn không bao giờ lãng phí, đó là một cuộc đời mà nhiều người mơ ước, được vùng vẫy trong lí tưởng cao đẹp, được là người anh hùng của mọi người, mãi mãi về sau.

Truyện Đăm Săn đi chinh phục nữ thần mặt trời không chỉ có những ý nghĩa hay về nội dung mà những đặc sắc về nghệ thuật cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết để tạo nên một câu chuyện ý nghĩa như vậy. Nhân vật Đăm Săn được lí tưởng hoá, thần thánh hoá với những yếu tố kì ảo và sức mạnh phi thường đã thể hiện được những lí tưởng cao đẹp của một bậc anh hùng tượng trưng cho xã hội. Ngôn ngữ đối thoại của Đăm Săn và Nữ thần vô cùng chặt chẽ, linh hoạt, thể hiện được đầy đủ tính cách qua từng lời nói của nhân vật, chính vì vậy sử thi Đăm Săn trở nên vô cùng gần gũi với bạn đọc. Các yếu tố phiêu lưu, trải nghiệm trong chuyện cũng đã góp phần làm nên thành công, không chỉ là những bài học khô khan nhạt nhẽo, những điều nhân văn được thể hiện một cách kém hấp dẫn, câu chuyện lôi cuốn người đọc bằng những yếu tố hết sức màu sắc Sử thi, hết sức nghệ thuật và đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc người Ê đê.

Sử thi Đăm Săn đã mở ra trong cảm xúc của người đọc những điều tuyệt vời về cuộc đời của một người anh hùng dân tộc, một người anh hùng của thời đại. Lí tưởng trong người chàng là những thứ cao đẹp và đầy tính nhân văn, nó không chỉ góp phần thể hiện một đời sống phong phú dân tộc mà còn mang ý nghĩa giáo dục, thẩm mỹ vô cùng sâu sắc. Không đơn thuần là một người anh hùng bước ra từ những trang sử thi với những yếu tố kì ảo mà còn là một tượng đài kì vĩ về những điều tuyệt vời trong đời sống, người anh hùng văn hoá tạo dựng những

Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (mẫu 3)

Trong văn hóa dân gian Việt Nam, câu chuyện Thần Gió được coi là một tác phẩm thần thoại độc đáo, phản ánh tầm quan trọng của sự kết nối giữa con người và tự nhiên. Tác phẩm này không chỉ mang tính giải trí mà còn thể hiện tinh thần tôn trọng, biết ơn và thấu hiểu đối với những yếu tố vô hình trong cuộc sống hàng ngày.

Trong câu chuyện, Thần Gió được mô tả có hình dáng không đầu và có bảo bối là một chiếc quạt mầu nhiệm. Hình tượng kỳ quặc của Thần Gió thể hiện tính khó lường, khó đoán của tự nhiên. Thần Gió có khả năng điều khiển gió, từ việc tạo ra những cơn gió nhẹ cho đến những cơn bão dữ dội. Khả năng này thể hiện sự quyền năng và ảnh hưởng của tự nhiên đối với cuộc sống con người. Việc Thần Gió làm gió nhỏ hay bão lớn, lâu hay mau tùy theo lệnh Ngọc Hoàng phản ánh vai trò của tự nhiên đối với việc sản xuất, thời tiết và sinh kế của người dân. Những hiện tượng thiên nhiên như gió, mưa, sét không chỉ ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp mà còn là một phần không thể thiếu của tự nhiên.

Một phần quan trọng của câu chuyện là sự hiểu lầm của con thần Gió khiến người dân gặp khó khăn và bất hạnh. Sự nghịch ngợm của con thần đã làm rơi bát gạo quý báu vào ao bùn, gây ra mất mùa và thiếu thốn cho một người nông dân. Đây chính là hình ảnh ẩn dụ mưa bão khiến cho người dân mất mùa đói kém. Nó chỉ là một “hiểu lầm” vô tình do sự nghịch ngợm của thần Gió, nhưng hậu quả nó để lại vô cùng to lớn cho những sinh linh dưới mặt đất.

Thần Gió trong văn hóa dân gian Việt Nam là một tác phẩm thần thoại tương đối phong phú, tương tác giữa con người và tự nhiên được thể hiện qua hình tượng Thần Gió và việc ẩn dụ với những thảm họa thiên nhiên. Tuy nhiên, không một ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của những cơn gió tinh nghịch ấy.

Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (mẫu 4)

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Xem thêm một số bài văn mẫu 8 Chân trời sáng tạo hay khác:

Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến

Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng

Tóm tắt bài thuyết trình về một tác phẩm văn học do người khác trình bày trong buổi sinh hoạt Câu lạc bộ đọc sách

Cảm xúc khi được chiêm ngưỡng một cảnh đẹp, trong đó có ít nhất một câu chứa thành phần biệt lập

Viết bài giới thiệu về một cuốn sách mà em yêu thích để tham gia cuộc thi

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!